Chương Hai Mươi Hai
Sài Gòn mưa. Mưa tầm tã. Mưa bong bóng phập phồng. Mưa mù mịt. Mưa thối trời, thối đất. Mưa quất rát mặt, rát da. Mưa như một triệu cây roi đập tứ phía. Mưa từ Hồng Thập Tự, mưa qua Lê Văn Duyệt. Mưa tới Ngã Sáu. Mưa xuống Lê Lai. Phạm Ngũ Lão ngập nước. Võ Tánh, Cống Quỳnh cũng không có chỗ để chân. Nước lên nửa vòng bánh xe đạp. Tôi vác xe lên thềm rạp Khải Hoàn. Co ro. Lạnh. Tôi ôm chặt cái bao thơ của Ma Chirac. Tôi đang có trong tay một số tiền lớn. Hai chục ngàn đồng quan Pháp. Tôi sẽ đổi được bao nhiêu lượng vàng? Tôi nhớ lại buổi gặp gỡ ông Thierry Rousselin hồi nãy. Cái thằng Tây ăn nói khôn ngoan.
“Bà Marguerite Malpighi nhờ tôi chuyển cho ông lá thư này. Ðây là cái giấy bảo lãnh của bà, cái certificat d’hébergement. Và đây là cái giấy của nhà hàng ăn Le Riz Parfumé bảo đảm ông sẽ có việc làm khi đến Pháp. Nếu ông muốn đi Pháp ông phải có một người ruột thịt đứng ra lo liệu. Ví dụ như vợ ông, con ông, cha mẹ ông. Giấy bảo lãnh của một người bạn không đủ. Bộ Ngoại Giao sẵn sàng cho ông đi nếu ông cụ của ông là người từng ở trong quân đội Pháp… Tuy nhiên, cái giấy của bà Marguerite Malpighi cũng tốt lắm. Tôi sẵn sàng giúp ông. Có phải ông dạy Philo ở Petrus Ký không? Tôi cũng học Philo. Cogito ergo sum. Je pense donc je suis. René Descartes. Esprit cartésien. Mà ông có muốn đi Pháp không? Bon. Mà ông quen bà Marguerite Malpighi trong dịp nào? Bon…”
Tôi có trong tay nhiều tiền, nhiều giấy tờ quá. Mình sẽ đổi được bao nhiêu lượng vàng. Tôi nghĩ đến Phước. Người đã tha mạng sống tôi một lần ở Bến Tàu. Người đã đến hỏi tôi mượn tiền. Tôi nghĩ đến Kiệt. Chú bé đã đi được chưa. Tôi nghĩ đến Quỳnh và con tôi. Tôi sẽ nộp đơn ở Tòa Tổng Lãnh Sự. Tôi là Trần Lâm Thăng. Tôi không cần giấy khai sanh của một thằng Tây con nào đã chết. Nhưng tôi cũng sẽ mua vàng vượt biên. Cái nào đến sớm tôi sẽ chọn cái đó. Cái nào cũng được. Tôi phải đi thôi.
… Nhưng mà trời cứ mưa. Mưa dầm dề. Mưa đuổi tôi sát tận hàng rào sắt chặn người vào rạp. Cũng may tay Thierry Rousselin cho tôi cái bao ni lông đựng giấy tờ. Tất cả đang nằm trong ngực tôi. Tôi cần một ly cà phê nóng. Tôi cần một tô phở nóng.
“Ông làm ơn đứng nhích vào trong một chút.”
Một người đàn ông đeo kính cận từ lề đường chạy lên đứng cạnh tôi lúc nào. Nước mưa chảy trên mặt mũi ông ta. Ông lấy kính xuống, dụi mắt. Tôi nhìn ông ta. Quen lắm. In hình đã gặp ở đâu rồi. Ông cũng nhìn tôi. Tôi đứng yên, không nhường chỗ cho ông ta. Mà ông ta cũng không buồn di chuyển tới thêm.
“Ông…” người lạ nói, “có phải ông là người tôi gặp ở Bến Tàu không?”
“Còn ông. Ông đạp xích lô chớ gì?”
“Ðúng vậy! Tôi hết đạp xích lô rồi.”
“Bây giờ ông làm gì?”
“Tôi dạy tiếng Anh.”
“Dạy tiếng Anh?”
“Ừ, dạy tiếng Anh cho mấy người chuẩn bị vượt biên.”
“A!” Tôi bật kêu lên.
“Ông có gặp cái chị gì định tự tử bữa đó không?”
“Không. Tôi mới ở tù ra!”
“Vượt biên à?”
“Vượt biên. Còn ông?”
“Tôi mới ở Phan Thiết về.”
“Không lọt được à?”
“Lọt được công an biên phòng về tới đây là may rồi. Mà ông tên gì vậy?”
“Ông cứ kêu tôi là Nam. Tôi đã nói với ông rồi mà! Còn ông, có phải ông là…”
“Tôi tên là Thăng. Mình tìm chỗ nào ngồi uống ly cà phê chăng?”
Tôi nhấc chiếc xe đạp lên, đẩy xuống thềm. Trời vẫn mưa tầm tã, Nam đi bên tôi.
“Ông đưa xe cho tôi.” Nam nắm đòn dông nhấc lên. “Tôi biết một quán cà phê này hay lắm.”
Chúng tôi bước xuống đường.
Mưa vẫn đổ tới tấp như thể người ta bưng cả một chậu nước lớn đổ xuống.
“Xe ông đâu?”
“Tôi đi bộ.”
“Bộ nhà gần đây hả?”
“Không. Tôi ở đường Lê Quý Ðôn. Bố mẹ tôi đi hết rồi.”
“Rồi sống làm sao?”
“Thử đạp xích lô, nhưng không nổi. Bữa gặp ông là bữa đầu. Chở cái nhà chị tự tử đường Cống Quỳnh.”
Mưa bỗng tạnh bất ngờ. Mặt trời lên. Nước ở mặt lộ kéo rốc xuống chợ Thái Bình. Ống cống hai bên lề đường uống nước ồ ồ.
Nam bỏ xe xuống mặt đường khi chúng tôi băng từ nhà thương Tù Dũ qua Hồng Thập Tự tẻ sang Nguyễn Thiện Thuật.
“Bộ ông muốn uống cà phê Năm Dưỡng hả?”
“Không. Cà phê Năm Dưỡng đắng chát. Vỏ măng cụt với cơm nguội chớ có gì? Chỗ này hay lắm.”
“Bây giờ ông làm gì?”
“Rồi, trả lời rồi. Dạy tiếng Anh.”
“Mà trước ông làm gì?”
“Tôi học Quản Trị Xí Nghiệp.”
“Phải chính trị kinh doanh ở Ðà Lạt không?”
“Không. Tôi học ở Kent University, Ohio bên Mỹ.”
“Vậy sao? Mà về nước hồi nào?”
“Về mấy ngày áp chót. Cả nhà tôi đi hết qua đảo Guam. Bà chị tôi làm trong Tòa Ðại Sứ Mỹ mà!”
“Vậy nghĩa là chưa đi làm ở đâu à?”
“Làm gì? Mới ra trường mà. Ông cụ tôi nói làm ở RMK lương lớn. Nhưng tôi định xin vào Esso.” Nam chặc lưỡi, “RMK với Esso. Xích lô cũng không xong. Ông được mấy cháu rồi?”
“Ồ!” Tôi ngập ngừng. Tôi không biết nói thế nào cho người bạn mới quen rõ. Tôi có hai cháu đã đi Pháp. Tôi có với Quỳnh một đứa con. Nhưng quanh tôi giờ đây chẳng còn ai.
“Xin lỗi!” Nam cúi xuống mặt đường, lách qua một vũng nước. “Sắp tới rồi. Tôi muốn mời ông đi ăn cái gì nong nóng trong chợ Nguyễn Thiện Thuật. Rồi uống cà phê sau. Ðược không?”
“Cám ơn. Tôi không đói. Hay là mình đến chỗ cà phê đi.”
“Ừ. Thì đi. Thật ra là tôi muốn mời ông ăn.”
Con đường Nguyễn Thiện Thuật ngắn. Qua khỏi chợ chừng mười bước, Nam dừng lại trước một căn nhà nhỏ. Cửa sắt kéo nửa chừng. Sàn nhà thấp hơn mặt đường. Mấy cái bàn nhỏ. Chừng mươi cái ghế đẩu. Quán vắng. Nam lay lay cánh cửa. Tiếng động của mấy thanh sắt đập vào nhau hơi ồn.
“Hồng ơi, Hồng!”
Một cô gái từ sau nhà bước ra. Họ có vẻ quen thân nhau.
“Anh Nam. Sao lâu dữ?”
“Mới ở tù ra.”
“Mới ở tù ra?”
“Không đúng lắm. Ra cũng được tuần rồi. Thôi, đây là ông Thăng. Còn đây là cô Hồng, bạn tôi.”
Cô chủ quán đứng nhích ra, nhường chỗ cho chúng tôi bước vào.
“Hồng cho anh hai ly đen nóng. Một gói ba số.”
“Một gói? Sao bữa nay anh sang dữ vậy?”
“Bữa nay có tiền. Bà chị bên Mỹ vừa gửi cho mấy trăm đô.”
Nam chọn chiếc bàn trong góc.
“Từ nay, không nói chuyện vượt biên nữa.”
“Sao vậy?” Tôi tựa lưng vào vách. Tay tôi sờ lên ngực. Cái bao nilông đựng thư và tiền của Ma Chirac vẫn còn đó.
“Tôi vừa nhận được giấy bảo lãnh của bà chị. Trước sau gì cũng đi được mà. Tôi chỉ lo cho ông bạn thân của tôi thôi.”
“Bạn thân của anh là ai?”
“Chắc anh không biết đâu! Nó tên Phước. Bạn từ nhỏ. Phước đi lính, còn tôi đi học. Tay đó lì lắm. Tụi này xa nhau khá lâu, sau bẩy lăm mới gặp lại. Tụi này hay gặp nhau ở đây. Tù tội lia chia biết đâu mà tìm… Chỉ có chỗ này chắc ăn.”
Hồng bưng cà phê ra. Một gói ba số năm vàng rực. Khói cà phê thơm phức làm ruột tôi cồn cào. Cà phê thứ thiệt. Trời ơi, cà phê thứ thiệt. Tôi cúi xuống cái phin, giở cái nắp ra.
“Cà phê xịn đó,” Nam tiếp, “Chỉ ở đây mới có thứ thiệt. Hồng ơi, anh Phước mấy bữa nay có tới không?”
Hồng bước tới, tự nhiên kéo ghế ngồi xuống.
“Tuần trước ảnh có tới, cũng hỏi cái câu giống câu vừa hỏi. Em không biết ảnh có chuyện gì mà buồn lắm.”
Nam bóc gói thuốc, đẩy một điếu ra khỏi bao đưa về phía tôi.
“Anh Thăng làm một điếu đi,” và quay sang Hồng, Nam tiếp, “Có tin tức gì của anh hai không?”
“Chị hai đi ra Bắc, thăm anh hai chưa về. Bữa đi chỉ khóc sưng mắt. Có tin nói anh hai chết, chỉ phải ra ngoài đó nhận xác chồng.”
“Còn má đâu?”
“Má đi thăm anh Tư ở trại cải tạo Xuyên Mộc.”
Hồng nói nhưng mắt nhìn tôi dò hỏi.
“Không sao. Anh Thăng là người anh mới quen, nhưng anh có biết…”
“Anh biết gì?” Tôi cười, cầm một điếu thuốc, đập đập lên lưng bàn tay. “Tôi học được bài học là không biết gì, không tin gì, không thấy gì hết…”
“Sao anh bi quan dữ vậy? Cũng có cái phải tin chớ. Cái gì cũng nghi ngờ hết lấy gì sống? Hồng,” Nam nhắc, “Em cho anh mượn cái phích nước sôi. Này, sao hồi đó, em nói anh Tư ở trại cải tạo Hàm Tân Z30C?”
Hồng mang nước ra. Cái bình thủy lớn, nắp bị móp méo.
“Sau Hàm Tân, ảnh bị chuyển qua trại cải tạo Xuân Phước, Phú Khánh. Bây giờ Xuyên Mộc, tỉnh Ðồng Nai…”
“Cho tôi một cái nâu, cô Hồng.” Một người khách đứng ở cửa nói chõ vào.
“Mời anh vào!” Hồng đứng dậy.
Người khách là một thanh niên trẻ, ăn mặc kiểu bộ đội. Khách kéo ghế ngồi xuống, cái cặp da quàng vai bỏ xuống mặt bàn. Anh ta ngồi quay lưng vào trong, mắt ngó ra đường.
“Cô Hồng mở nhạc vàng nghe đi.”
“Có ngay!”
Tiếng Hồng nói từ phía trong và tiếp liền đó là tiếng hát của Khánh Ly. “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ…” Tôi nghe tiếng người khách ư…ư… hát theo.
“Tay này là công an khu vực đấy. Uống cà phê không phải trả tiền, nhưng cho phép nghe nhạc vàng. Hắn mê Phạm Duy lắm. Bài tủ của hắn là bài Mùa Thu Chết. Ðể anh coi…”
Nam nói chưa hết câu, tôi đã nghe tiếng người khách.
“Cô Hồng ơi, Mùa Thu Chết đi!”
Hồng mang cà phê ra đặt lên bàn khách.
“Ðây là cà phê sữa của anh. Còn Mùa Thu Chết thì sẽ có ngay.” Hồng nhìn Nam cười.
Tôi hít một hơi thuốc dài, chiêu một ngụm cà phê.
“Tôi muốn về. Anh Nam có thể cho tôi xin địa chỉ được không?”
“Sao anh không ngồi chơi thêm một chút? Tôi muốn chờ thằng Phước. Tôi cũng muốn giới thiệu anh với thằng bạn tôi. Không biết tại sao gặp anh có một lần mà tôi thích ngay.”
“Cám ơn anh Nam. Có lẽ bữa khác mình gặp nhau lâu hơn. Bữa nay vầy là đủ rồi. Anh có thể cho tôi cái địa chỉ không?”
Tôi nhắc lại và xé tờ giấy biên cho Nam mấy chữ.
“Ðây là địa chỉ của tôi!”
Nam cầm tờ giấy ngó chăm chú.
“A! Phải chỗ này là khu Mã Lạng không?”
“Ðúng.”
“Vậy thì tôi có biết. Có lần tôi chở thằng Phước tới đây.”
“Tới nhà tôi?”
“Không. Tôi đâu biết thằng Phước tới nhà ai. Mà tôi đâu có biết nhà anh. Nó bảo tôi chờ ở đầu ngõ. Có một quán cà phê. Nó đi bộ vô trong.”
Tôi giật mình nhớ tới bữa Phước đến thăm tôi, hỏi mượn tiền vượt biên.
“Mà anh đến lúc đó ban ngày hay ban đêm?”
“Chạng vạng tối. Tôi nhớ tay chủ quán cà phê đã đốt đèn hột vịt. Ngay đầu hẻm tôi còn thấy có một ông thợ sửa xe đạp.”
“Ông bạn anh có nói đến xóm Mã Lạng tìm ai không?”
“Không. Thằng Phước nói với tôi nó đi mượn tiền. Ðó là chuyến nó định đi với tôi. May mà nó không mượn được tiền. Nếu không nó ngồi tù chung với tôi rồi! Thằng đó coi vậy mà hên.”
“Tại sao người ta không cho ông bạn anh mượn tiền.”
“Nó nói ông ta không có tiền. Vợ con ông ta đã đi vượt biên. Và ông ta mới vừa ở tù về.”
Tôi lại ngồi xuống lấy một điếu thuốc ba số châm lửa.
“Này anh Nam. Người mà Phước tới thăm hôm đó chính là tôi!”
“Thật sao? Là anh?”
“Tôi có nhiều kỷ niệm với Phước, anh có biết không?”
“Làm sao anh có kỷ niệm với Phước được? Nó đâu phải ở lứa tuổi với anh!”
“Kỷ niệm giữa hai con người đâu cần đòi hỏi họ phải có cùng lứa tuổi. Phải hông?”
“Nhưng mà chuyện khó tin quá. Bạn của Phước thì tôi phải biết chớ. Nó với tôi là bóng với hình mà!”
“Anh tin vậy sao?”
“Sao không chớ?”
“Tại vì anh nói anh và Phước xa nhau khá lâu mà. Phải không?”
“Ừ, trước bẩy lăm tôi đi Mỹ nó đi lính. Cái thằng đó ba trợn ba trạo đâu chịu học hành gì. Mới đậu trung học đã xung phong đi lính. Ðánh lộn thì lanh lắm mà hễ nói chuyện sách vở học hành thì ngủ gà ngủ gật. Nó nói nó ghét cái bọn trí thức lắm. Gặp nó, nói chuyện gì cũng được chớ đừng nói chuyện bằng cấp. Nói chuyện bằng cấp là nó chửi thẳng tay. Khi nào cãi thua tôi nó nói ‘đồ trí thức chồn lùi.’ Nó hỏi tôi ai ra mặt trận đánh nhau với cộng sản để những thằng như tôi yên ổn đi học?…”
Hồng đã trở lại chỗ bàn chúng tôi, tự động kéo ghế ngồi.
“Làm gì to tiếng vậy anh Nam?”
“Ðâu. Có to tiếng gì đâu. Nè Hồng, anh Thăng đây cũng là người quen của Phước. Tin không?”
“Anh nói thì em tin. Mà hai anh quen nhau làm sao?”
Hồng mím môi, mắt mở lớn dò hỏi, hai tay vòng trước ngực, hai cùi chỏ tì lên hai đầu gối!
Tôi uống một ngụm cà phê, châm thêm một điếu thuốc. Và tôi bắt đầu kể những lần gặp Phước. Một lần ở phòng giám thị kỳ thi, một lần Phước chở tôi ra Bến Tàu trong đêm giới nghiêm và một lần cách đây không lâu tại nhà tôi.
“Ðúng là thằng Phước rồi! Cái thằng đó giang hồ lắm, anh chị lắm!” Nam đập tay lên bàn.
“Tôi đi cô Hồng nhé!”
Người thanh niên ăn mặc kiểu bộ đội đứng dậy, quàng cặp da lên vai.
“Mở nhạc vàng phiên phiến thôi nhé. Coi chừng đừng để quên cuộn băng có bài Người Ở Lại Charlie nữa đấy! Dáng Ðứng Bến Tre đi. Này, mà bao nhiêu thế cô Hồng?”
“Xin anh cứ tự nhiên.” Hồng tiếp “Mai lại nghe Mùa Thu Chết nhá!”
Người thanh niên xốc lại sợi dây da quàng vai bước ra cửa, nói vói lại:
“Cô Hồng đọc xong cuốn Ða-ghết-tăng Của Tôi chưa?”
“Còn mấy trang nữa. Mai tôi trả được không?”
“Mai tôi sẽ cho cô mượn Con Tàu Trắng của Ai-ma-tốp. Tuyệt vời!”
Hồng đứng dậy tiễn khách ra cửa.
“Cám ơn!”
Chờ khách đi một đỗi xa, Hồng kéo cánh cửa sắt lại, quay về bàn.
“Thôi nghỉ một bữa không buôn bán gì Hồng nghe.” Nam nói giọng nghịch ngợm.
“Anh định bao giàn cả ngày hả?”
“Bao thì bao sợ gì. Hồng ơi mua cái gì cho anh Thăng với anh bỏ bụng đi!”
Và quay sang tôi, Nam nói:
“Anh nán lại chút, tôi muốn mời anh. Anh là bạn của Phước vậy thì anh cũng là bạn của tôi. Sài Gòn này nhỏ xíu mà phải không anh?”
Tôi sờ tay lên ngực áo. Bao nilông đựng giấy tờ tiền bạc vẫn còn nguyên. Tôi nói:
“Hôm nay tôi cũng vừa nhận được tiền của một người bạn cũ.”
“Trời ơi! Sao kỳ vậy! Vậy thì mình ăn mừng đi chớ! Mà anh có giấy bảo lãnh không?”
“Có. Có cả giấy bảo lãnh. Nhưng một người bạn bảo lãnh thì ăn nhập gì phải không?”
“Công an quận nó không chịu đâu. Phải cha mẹ bảo lãnh con cái hoặc con cái bảo lãnh cha mẹ anh chị em kìa!”
Hồng trở lại bàn:
“Anh Thăng ăn gì? Anh Nam thì em biết rồi!”
“Cô Hồng cho mì, hủ tiếu gì cũng được.”
Tôi lấy bao nilông ở trong ngực ra đặt xuống bàn. Tôi mở bao thư. Những tờ giấy bạc thơm phức.
“Tiền gì vậy anh Thăng?” Hồng hỏi.
“Tiền Tây.”
“Anh Nam có biết chỗ nào đổi tiền không?”
“Tôi có biết một chỗ đổi đó. Nhưng không biết ở đó có đổi đồng quan Pháp không?”
“Anh Nam hỏi giùm tôi. Tôi muốn đổi lấy vàng.”
“Chi vậy? Anh tính vượt biên à?”
“Ừ. Thì cũng tính chớ.”
“Sao anh không chờ chị bảo lãnh?”
“Cho tới bây giờ tôi cũng chưa rõ nhà tôi sống chết ra sao, làm sao mà chờ bảo lãnh?”
“Mà chị đi lâu chưa?”
“Lâu rồi. Cũng ba bốn tháng rồi. Chẳng lẽ ở trên biển tới ba bốn tháng!”
“Anh Thăng đừng lo.” Hồng an ủi, “Trước sau gì anh cũng được tin mà. Còn chuyện đổi tiền, em nghĩ là anh Phước làm được.”
Tôi xếp những tờ giấy bạc bỏ vào phong bì.
“Em sẽ mua hủ tiếu Nam Vang cho anh Thăng. Còn anh Nam vẫn bò viên hay thứ khác?”
“Bò viên. Tôi chung thủy lắm.”
Hồng đứng dậy đi ra cửa.
“Lại mưa nữa rồi anh Nam ơi!”
“Thôi, tôi không đói đâu.” Tôi tiếp, “Cô Hồng cho tôi thêm một ly cà phê nữa.”
“Ðừng lo, anh Thăng! Ðể tôi đưa cô Hồng đi. Anh cứ ngồi đây nhâm nhi cà phê.”
Ngồi lại một mình trong quán cà phê, tôi lấy thư Ma Chirac ra đọc. Rồi tôi xếp những tờ đồng quan Pháp hết theo chiều dọc lại theo chiều ngang, lại xòe cánh quạt. Tôi đưa lên mũi ngửi. Sao mà đồng tiền Tây nó thơm thế. Tôi nhớ lối tiếp chuyện của tay Thierry Rousselin. Hắn có khuôn mặt của một thanh niên vừa mới lớn, dưới chiếc đầu sói sọi của một cụ già. Hắn nói hắn chào đời ở Vientiane và có thời gian học ở Jean-Jacques Rousseau Saigon. Hắn nói hắn không quen Marguerite Chirac, nhưng hắn có biết bố của cô. Hắn hỏi tôi có ý định đi Pháp hay không? Gia đình tôi có ai ở Pháp không? Ba tôi làm gì? Tôi nói ba tôi đã chết. Hắn hỏi nhưng mà trước đó ông cụ làm gì? Tôi nói ông đi lính cho Pháp, ông là sĩ quan tốt nghiệp trường Võ Bị Dar-el-Beida, đã theo chân Tướng Juin đổ bộ lên Ý Ðại Lợi, đã được ân thưởng Ðệ Ngũ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh và được tuyên dương công trạng mười hai lần trước hành quân… “Nhưng ba ông tên gì?” “Trần Lâm Thành.”
“Tốt nghiệp Võ Bị Dar-el-Beida năm nào?” “Tôi hoàn toàn không biết. Tất cả những gì tôi nhớ được chỉ là những câu nói của cha tôi lúc ông say rượu. Còn nữa.
Ổng là bạn của ông Phan, cựu thủ tướng của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Phan hiện ở Mỹ. Cha tôi hồi còn sống có treo trong phòng một tấm ảnh chụp với ông Phan và những người lính Pháp…” “Ông còn giữ những tấm ảnh ấy không?” “Không. Tôi không có trong tay một thứ hình ảnh hay giấy tờ nào liên quan đến công việc của cha tôi.” “Tiếc quá! Làm sao bây giờ. Nếu ông có thể chứng minh được ông cụ là người từng chiến đấu dưới lá cờ Pháp Quốc, tôi nghĩ là tôi có thể giúp ông đi Pháp nhanh chóng.” “Hiện tôi có mấy đứa con ở Pháp.” “Họ đang làm gì?” “Chúng nó còn đi học. Ðứa lớn nhất mới mười bốn tuổi.” “Nhưng chúng ở với ai?” “Với mẹ chúng.” “Tại sao bà ấy không bảo lãnh ông?” “Chúng tôi đã ly dị. Và tôi đã lập gia đình với một người đàn bà khác.” “Người đàn bà này hiện ở đây với ông?” “Không. Bà ấy đã vượt biên.” “Nghĩa là?” “Nghĩa là tôi ở đây một mình.”
Tên Thierry Rousselin này ghê thật. Sao hắn cho mình cái túi nilông đựng giấy tờ hè?
Ma Chirac. Tôi dần dần nhớ lại khuôn mặt của cô. Mái tóc ngắn, hai con mắt to xanh lơ, mũi thon nhọn, những sợi lông măng trên một khuôn mặt hồng, môi không mỏng nhưng hơi cong. “Bố tôi nói…” Cô luôn luôn giải thích mọi chuyện bằng cách nói rằng “bố tôi nói như vậy.” “Bố nói căn phòng tôi ở là căn phòng mà nữ ca sĩ Dalida, người rất nổi tiếng với ca khúc Bambino một thời đã ở.” “Bố tôi nói khi Dalida đến Việt Nam, cô đã ở khách sạn này và cô đã bắt khách sạn thay toàn bộ màn cửa màu hồng, hoa hồng mỗi sáng cho mỗi phòng.” “Bố tôi nói bố tôi thích bài Les Feuilles Mortes. Et la mer s’efface sur le sable… les pas des amants désunis…” “Yves Montand. Ông có biết Yves Montand không? Bố tôi nói bố tôi không thích tay này. Ông chỉ thích Edith Piaf và Simone Signoret, những người phụ nữ đã làm cho Yves Montand nổi tiếng. Bố tôi nói tay này lạng quạng về chính trị lắm. Lúc theo cộng sản, lúc chống cộng sản. Cũng may, ông ta chưa bao giờ là một đảng viên cuồng tín. Tôi thì tôi thích Catherine Deneuve hơn…”
“Bố tôi nói…” Chỉ một buổi tối thôi mà Ma Chirac cho “Bố tôi nói…” nhiều quá. Bây giờ tôi mới nhớ ra như vậy. Và hết.
Như cuốn phim bị đứt và đèn trong rạp bật sáng. Những hình ảnh nhảy lạng quạng trên màn ảnh. Tiếng cửa sắt bị đập làm tôi giật mình.
“Cô Hồng ơi! Có ai trong nhà không?”
Tôi đứng dậy xếp tiền và giấy tờ vào bao nilông! Thói quen thôi.
“Cô Hồng không có nhà,” tôi vừa nói vừa bước tới gần cửa, ghé nhìn ra ngoài.
“Anh Thăng. Sao anh ở đây?”
Tôi giật mình, nhận ra người gọi cửa là Phước.
“Trời. Phước hả?”
“Phước đây. Anh mở cửa cho tôi vào đi!”
Tôi nâng cái móc lên, đẩy cửa. Phước lách vào.
“Làm sao anh quen nhà này?”
“Tôi đi với Nam. Có phải Phước quen một người tên Nam không?”
“Quen gì! Bạn nối khố của tôi đó. Nó đâu rồi anh?”
“Nam với cô Hồng đi chợ Nguyễn Thiện Thuật mua thức ăn rồi!”
Phước tự động kéo ghế ngồi xuống.
“Tôi sắp có chuyến đi.”
“Lại đi?”
“Anh không đi sao? Anh được tin chị chưa?”
“Chưa. Nhưng mà…”
“Bộ anh muốn hỏi tôi sao lần gặp cũng nói chuyện đi phải không?”
“…”
“Anh không tính đi, vậy chớ anh tính ở đây luôn à?”
“Thì tôi cũng vừa tính với Nam xong. Phước, tôi đang có một món tiền!”
“Một món tiền? Như vậy là anh đã liên lạc được với chị rồi à?”
“Không. Tôi vẫn chưa có tin tức gì của nhà tôi. Nhưng,…” tôi mở bao nilông của tay Thierry Rousselin ra, “đây có thể giúp cho anh và tôi đủ chỗ trên ghe không?”
Phước nhìn những đồng quan Pháp. Anh cầm lên săm soi, lật ngược lật xuôi. Anh lấy ngón tay trỏ búng vào tờ giấy bạc, xòe những tờ giấy bạc như xòe bài và xốc lại.
“Dư sức! Dư sức! Chừng này năm người đi cũng được.” Phước tiếp, “Nhưng lần này tôi đã có một chỗ trên ghe rồi. Anh không phải lo cho tôi. Tôi biết chỗ đổi lấy vàng hoặc đô. A,…” Bỗng nhiên Phước ngừng lại, cầm tờ giấy bảo lãnh của Ma Chirac lên, “cái gì đây?”
“Giấy bảo lãnh!”
“Vậy, anh đâu cần vượt biên!”
“Nhưng đây chỉ là một tờ giấy bảo lãnh thường thôi. Giữa người bảo lãnh và tôi không có liên hệ ruột thịt gì hết.”
Tôi kể cho Phước nghe một chút về Ma Chirac và về sự quen biết của chúng tôi.
Phước lắc đầu:
“Vậy thì phải vượt biên thôi. Anh để tôi lo cho anh.” Phước ngó chăm vào mắt tôi, “Mà anh có dám không?”
“Dám gì?”
“Dám đi với tôi không?”
“Sao không?”
“Vậy thì… thế này,” Phước lẩm nhẩm tính, “bốn ngàn. Tôi lấy bốn ngàn đổi vàng mua chỗ cho anh, và thêm hai ngàn tôi muốn mượn anh mua súng. Tôi cần súng và lựu đạn…”
Phước nhét tiền vào túi, đẩy tờ giấy bảo lãnh và số tiền còn lại về phía tôi.
“Anh cứ giữ số còn lại. Tính sau. Mai tôi gặp anh. Chuyện này coi như đã xong.”
Phước đưa tay đập vào ngực, chỗ túi áo có những tờ giấy bạc của tôi.
Tôi ngồi yên nhìn Phước. Tôi không chút nghi ngờ gì anh. Người đàn ông này đã một lần tha chết cho tôi.
Bây giờ đây anh ta lại đang cứu tôi.
“Anh Thăng có muốn biết lâu nay tôi ở đâu không?”
“…”
“Tôi ở tù. Có bao giờ anh nghe tiếng kẻng trong nhà tù không?”
Tôi ngó Phước. Tôi không hiểu tại sao anh đổi đề tài. Chúng tôi đang nói chuyện đổi tiền và chuyện vượt biên mà. Phước ngó lại tôi. Tôi nhìn thấy anh đang cầm cái muỗng khuấy cà phê khỏ lên cái phin. Tiếng động buồn bã, đặc nghẽn lại chứ không vang xa. Tôi thấy Phước nghiêng tai như lắng nghe một tiếng vọng vô hình.
Thấy tôi nhìn ngạc nhiên, Phước nói:
“Trong tai tôi lúc nào cũng nghe có tiếng kẻng báo thức lúc năm giờ sáng và cả tiếng kẻng báo ngủ lúc mười giờ đêm.”
“Tiếng kẻng?”
“Phải rồi, tiếng kẻng trong nhà tù. Chỗ của anh không có tiếng kẻng sao?”
“Không. Tôi không nhớ là có tiếng kẻng không. Có lẽ có…”
Phước đứng dậy thọc hai tay vào túi quần, đi ra phía cửa sắt. Anh đi thong thả, những bước chân chắc nịch.
Nhìn sau lưng, tôi thấy Phước gầy hẳn so với lần anh chở tôi ra Bến Tàu trong đêm giới nghiêm. Tuy vậy, anh không có vẻ gì sa sút. Hai chân anh thẳng, vai ngang, cái cổ bự, tóc ngắn.
“Nam và Hồng đang về kìa!”
Phước nói không quay về phía tôi. Anh nâng chốt sắt lên, đẩy cửa qua một bên chờ.
“Phước. Trời ơi! Phước, mày đó hả?”
Tôi nghe tiếng Nam kêu.
“Anh Phước linh thiệt, mới nhắc là thấy ngay.”
Cánh cửa sắt đóng lại. Hồng mang thức ăn đặt lên bàn.
“Tôi mua đủ thứ. Anh Phước ăn luôn cũng không hết. Hủ tiếu bò viên nè! Hủ tiếu mì nè! Mì hoành thánh nè! Bột chiên nè!…”
Chợt nhớ ra điều gì, Nam choàng vai Phước kéo lại chỗ tôi ngồi.
“À quên. Ðể tôi giới thiệu…”
“Khỏi!” Phước chận lại.
“Sao? Hai người quen nhau à?”
“Thì cũng phải quen đi chớ!”
“Trời ơi! Sao trái đất nhỏ gì đâu! Mà nói chuyện chưa?”
“Chuyện gì?”
“Thì gặp nhau cũng phải nói chuyện gì chớ, chẳng lẽ ngậm miệng.”
“Rồi, rồi!” Tôi nói, “Tụi này nói một triệu thứ chuyện rồi!”
Hồng vào trong mang đũa muỗng ra.
“Nếu không ăn thì… sẽ nguội!”
“Thì ăn. Tôi đói lắm rồi!”
Phước cầm đũa, bưng tô mì lên.
“Anh Thăng!” Nam đẩy tô hủ tiếu Nam Vang về phía tôi. “Làm một tô cho ấm bụng!”
“Cám ơn. Bây giờ thì tôi thấy đói rồi!”
Tôi đói thật. Tôi ăn như một người sắp chết.
Phước cũng ăn nhanh. Anh đặt tô xuống sau cái và cuối cùng.
“Tôi vẫn có ý chờ anh Thăng hỏi.”
“Tôi hỏi gì?”
“Anh đưa tiền cho tôi mà anh không hỏi bao giờ đi. Ði ngả nào. Ghe ở đâu?…”
“Tôi đưa tiền cho anh rồi. Tôi chờ anh nói. Nếu anh chưa nói có lẽ chuyện còn chờ. Có gì gấp đâu!”
“Tại sao anh tin tôi dữ vậy?”
“Thì cũng phải có một người nào để tin chớ.” Tôi nhìn Nam cười. “Phải không?”
“Phải quá đi chứ!” Nam nói, “Lúc nãy anh nói như Tào Tháo sao bây giờ anh nói như một thanh niên mới lớn vậy?” Nam ngó tôi.
“Tôi tin Phước. Phải, tôi tin Phước vì giữa chúng tôi có một kỷ niệm lớn, mà nếu không có niềm tin thì không thể giữ được kỷ niệm ấy!”
Tôi lấy một điếu thuốc châm lửa hút. Phước cũng vậy. Anh rút một điếu ba số, gắn lên môi, tay kia anh cầm tay tôi kéo về phía anh, mồi lửa. Tôi nhìn thấy mắt Phước sáng lên. Cái ánh lửa của đầu điếu thuốc lập lòe trong mắt anh. Tôi đứng dậy.
“Cám ơn cô Hồng. Xin chào các bạn.”
“Chiều mai mình gặp nhau!” Phước đứng dậy theo. “Tại đây, lúc sáu giờ!”
“Sáu giờ!” Tôi lặp lại.
Quận Cam, California tháng 10, 1986
Bụi Và Rác _ Người Đi Trên Mây 2, hiệu đính từ bản điện tử của Người Việt Online và ấn bản 1992 Nguyễn Xuân Hoàng, Bụi và Rác, Nhà xuất bản Thanh Văn, California. (TV&BH 2014)