← Quay lại trang sách

I- NHƠN VẬT VÀ ĐOÀN THỂ (tt)

I- NHƠN VẬT VÀ ĐOÀN THỂ (tt)

Ý NGHĨA CÁC KỸ THUẬT TRANH ĐẤU CỦA PHÁI TOÀN CHÂN

1. Nhứt Dương Chỉ:

Cứ theo hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì công phu lợi hại nhứt của Giáo Chủ phái Toàn Chân là Nhứt Dương Chỉ.

a. Chữ nhứt trước hết có nghĩa là qui tập hết các sự việc về một mối. Việc phái Toàn Chân tuy là theo Đạo Giáo nhưng đã bao gồm các giáo lý của Nho Giáo và Phật Giáo chính nó đã là một biểu lộ cho tinh thần qui tập các nguyên lý hay về một mối. Ngoài ra chúng ta còn có thể nhận thấy rằng các triết gia Trung Hoa khi nghiên cứu các dữ kiện có mối liên hệ với nhau thì thường có xu hướng tìm mẫu số chung của các dữ kiện ấy để làm bộc lộ tánh cách đồng nhứt của nó. Khi nói về KINH THI, Khổng Tử đã bảo rằng bộ sách nầy có 300 thiên, nhưng chỉ cần một lời là tóm được hết ý nghĩa của nó, ấy là “không nghĩ bậy” (THI tam bá, nhứt ngôn dĩ tế chi, viết: tư vô tà. – LUẬN NGỮ, Vi Chánh). Nói về mối đạo của mình, Giáo Tổ của Nho Giáo cũng bảo là nó có thể do nơi một lẽ mà thông suốt tất cả (Ngô đạo nhứt dĩ quán chi. LUẬN NGỮ, Lý Nhân). Cứ theo lời giải thích của Tăng Tử, đó là việc thành tâm thật ý để suy lòng mình ra lòng người. Sự cố gắng qui tập các sự việc về một mối nói trên đây phát xuất từ một quan niệm làm căn bản cho cả nền tư tuởng cổ của Trung Hoa. Đó là quan niệm xem trời, đất và vạn vật đều cùng chung một thể với nhau (thiên địa vạn vật nhứt thể).

Ngoài ý qui tập hết các sự việc về một mối, chữ nhứt còn có nghĩa là chuyên tâm vào một việc gì. Thiên Cao Dao Mô trong KINH THƯ đã bảo: “Nhơn tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhứt, doãn chấp quyết trung”. Câu này hàm ý rằng vì mọi sự việc đều biến đổi không ngừng nên lòng người rất dễ bị nghiêng lệch và ở vào thế bất ổn (nguy) mà mối đạo thì tế nhị và ẩn ảo khó thấy rõ được (vi) cho nên người phải giữ cho lòng mình trong suốt (tinh) và chuyên nhứt thì mới giữ được cái trung. Như vậy, nhứt là một điều kiện để đạt đạo trung.

b. Về chữ dương, nó chỉ là một nguyên tắc căn bản trong vũ trụ quan của người Trung Hoa. Nó được dùng để đối chiếu lại âm, vốn chỉ một nguyên tắc khác nó và thường được xem là phần nào chọi lại nó. Như sáng là dương mà tối là âm, nam phái là dương mà nữ phái là âm, cõi sống là dương mà cõi chết là âm. Về mặt xử thế thì sự quang minh chánh trực thuộc dương, sự ám muội tà khúc thuộc âm. Về mặt võ nghệ thì cương thuật thuộc dương mà nhu thuật thuộc âm.

Tên Nhứt Dương Chỉ hàm ý rằng công phu lợi hại hơn hết của Trung Thần Thông dựa vào cương thuật tới mức tối đa và rất dũng mãnh. Kim Dung đã dùng hình ảnh này để cho thấy rằng nền chánh trị lý tưởng của Trung Hoa có tánh cách quang minh chánh trực và có mục đích thực hiện cảnh thế giới đại đồng làm cho cả thiên hạ sống yên vui hoà mục và dùng sự nhân nghĩa mà đối xử với nhau.

Tuy nhiên, trên đời không thể chỉ có dương mà không có âm. Vả lại, việc vào dương thuần tuý là điều trái với đạo trung. Bởi đó, Nhứt Dương Chỉ không phải là một công phu thường dụng. Theo Kim Dung, nó làm hao tổn rất nhiều nội lực và khi người dùng nó rồi thì nguyên khí và tinh lực trong người bị tiêu hao, phải tĩnh dưỡng nhiều ngày mới hồi phục lại công lực. Theo bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì người dùng công phu Nhứt Dương Chỉ để chữa một nội thương trầm trọng của kẻ khác phải mất công lực trong 5 năm; nếu có học CỬU ÂM CHƠN KINH và luyện tập lại đúng mức thì cũng phải mất mấy tháng mới có công lực lại như xưa. Bởi đó, Trung Thần Thông bất đắc dĩ lắm mới dùng đến Nhứt Dương Chỉ.

Nếu xem Trung Thần Thông là tiêu biểu cho một quốc gia thì việc dùng Nhứt Dương Chỉ có thể xem như là việc huy động toàn quốc để thực hiện một công trình rất lớn lao. Sự tấn công kẻ địch bằng công phu Nhứt Dương Chỉ có thể so sánch với việc gây chiến tranh với quốc gia khác. Dầu có đem thắng lợi về cho mình, chiến tranh cũng làm cho quốc gia hao tổn nhơn lực, tài lực và quốc gia phải cần một thời gian mới khôi phục lại tình trạng bình thường. Với lối mô tả Nhứt Dương Chỉ, Kim Dung có ý cho biết rằng nước Trung Hoa cổ điển không chủ trương dùng chiến tranh làm phương pháp chánh yếu để giải quyết các vụ xung đột với nước khác như một số quốc gia hiếu chiến trên thế giới, và chỉ dùng đến chiến tranh một cách bất đắc dĩ thôi.

2. Thái Cực Quyền

Trong tình trạng bình thường, Trung Thần Thông và người của phái Toàn Chân đã dùng Thái Cực Quyền trong các cuộc giao đấu. Thái Cực là tình trạng vũ trụ lúc còn là một khối hỗn mang chưa phân ra thành trời đất. Trong triết lý cổ Trung Hoa, nó dùng để chỉ một tình trạng thống nhứt nhưng bao gồm các yếu tố khác nhau. Do đó, Thái Cực hàm có lưỡng nghi là âm và dương và Thái Cực Quyền mà phái Toàn Chân thường sử dụng gồm có cả nguyên tắc cương và nhu. Về mặt nội công thì phái Toàn Chân đã luyện Thái Ất Huyền Công. Thái Ất hay Thái Nhứt vốn là tên của một ngôi sao tượng trưng cho một nguyên lý linh thiêng trong vũ trụ. Giữa Thái Ất và Thái Cực có sự liên hệ mật thiết với nhau. Thái Ất có thể xem nhu là sự thể hiện của Thái Cực và do đó mà cũng gồm cả hai nguyên tắc âm dương. Vì thế Thái Ất Huyền Công của phái Toàn Chân được Kim Dung mô tả như là một công phu vừa cương vừa nhu, khi vận chơn khí thì làm cho thân thể mềm xốp như bông gòn hay cứng như gang sắt. Điều này thích hợp với đạo trung và hàm ý rằng tùy theo vương đạo và hướng về việc dùng nhơn nghĩa, nền chánh trị Trung Hoa cũng gồm có việc dùng võ lực và hình phạt để trừng trị những kẻ làm bậy.

3. Thiên Cương Bắc Đẩu Trận.

Ngoài kỹ thuật tranh đấu cá nhơn, phái Toàn Chân lại có một kỹ thuật tranh đấu tập thể làm bảo pháp trấn sơn là Thiên Cương Bắc Đẩu Trận. Theo kỹ thuật này, phải có bảy người ngồi theo vị thế của bảy ngôi sao trong chòm sao Bánh Lái, với sao Bắc Đẩu làm chủ chốt. Khi ngồi theo vị thế đó và tương ứng tương trợ nhau, bảy người trên đây họp tập được công lực của nhau và công lực này trở thành một sức mạnh lớn lao làm cho kẻ địch khó có thể thắng họ được.

Chữ cương theo nghĩa đen là sợi dây lớn làm giềng cho một cái lưới. Nó thường được dùng với chữ kỷ vốn có nghĩa là sắp xếp các sợi tơ, và hai chữ cương kỷ ghép lại dùng để chỉ một trật tự đã an bài. Theo khoa thiên văn của người Trung Hoa thời cổ, các ngôi sao trên trời được sắp xếp thành hai bộ phận: chòm sao Bắc Đẩu thuộc thiên cương, còn dải Ngân Hà thì thuộc địa kỷ. Ở thế gian thì từ ngữ cương kỷ dùng để nói đến trật tự và qui luật của một quốc gia và thiên cương là qui chế chánh trị đương hữu.

Vậy Thiên Cương Bắc Đẩu Trận mượn danh hiệu của một chòm sao trên trời, nhưng cũng ám chỉ nền chánh trị một nước. Ta nên lưu ý rằng nhà triết học được người Trung Hoa thờ làm thánh sư là Khổng Tử đã từng so sánh nên chánh trị dựa vào đạo đức với ngôi sao Bắc Đẩu, ở yên một chỗ mà các sao khác đều phải chầu về (LUẬN NGỮ, Vi Chánh). Như thế, việc bảy người phái Toàn Chân ngồi theo vị thế bảy ngôi sao của chòm sao Bánh Lái để chống địch và danh hiệu Thiên Cương Bắc Đẩu Trận của kỹ thuật tranh đấu tập thể này đã được Kim Dung dùng để nói đến chủ trương căn bản của người Trung Hoa lấy đạo đức làm nền tảng cho việc lãnh đạo xã hội và gây tinh thần đoàn kết giữa mọi người làm cho cộng đồng trở thành một lực lượng mạnh mẽ vô địch.

H- CÁC NHƠN VẬT CÓ THỂ ĐƯỢC VƯƠNG TRÙNG DUƠNG BIỂU TƯỢNG.

Nói chung lại thì trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, chúng ta đã tìm thấy nhiều dữ kiện làm cho chúng ta có thể tin rằng Kim Dung đã dùng nhơn vật Trung Thần Thông và phái Toàn Chân để ám chỉ nước Trung Hoa cổ điển. Theo sự mô tả của ông thì Trung Thần Thông chết, phái Toàn Chân suy sụp lần lần về cả hai mặt võ công lẫn đạo đức. Những người nối nghiệp Trung Thần Thông chẳng những không giữ được địa vị số 1 ông đã được, mà cuối cùng phái Toàn Chân do họ lãnh đạo còn gần như tan vỡ khi căn cứ của nó là Trùng Dương Cung ở Chung Nam Sơn bị đốt cháy. Sau Trung Thần Thông, người cao thủ của phái Toàn Chân có võ công siêu tuyệt ngang với các bá chủ võ lâm khác, đó là Châu Bá Thông. Nhưng ông này không phải là người lãnh đạo của môn phái và không nghĩ gì đến nó. Qua các sự kiện trên đây, Kim Dung đã có ý bảo rằng nước Trung Hoa cổ điển đã có nền văn hoá cao diệu nhứt thế giới, nhưng vì quá chú trọng đến đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm nên nó lần lần suy vi và cuối cùng đã sụp đổ với việc Cộng Sản nắm chánh quyền, thành ra chỉ còn tồn tại với các công trình công nghệ tuyệt xảo của mình.

Nếu muốn lấy một nhơn vật siêu việt trong lịch sử Trung Quốc thời Cộng Sản chưa nắm trọn chánh quyền để so sánh với Vương Trùng Dương thì ta có thể nêu ra hai người:

1. Trước hết là Khổng Tử (551-479 tr. CN). Ông là người được dân Trung Hoa thờ làm thánh sư trong hơn hai ngàn năm. Ông tập họp các trí thức thời ông để xây dựng một học thuyết làm nền tảng cho cả nền văn hoá và chánh trị cổ của Trung Quốc và học thuyết này bao gồm các đặc tánh mà chúng tôi đã phân tích trên đây về ý thức hệ của dân tộc Trung Hoa. Nhưng khi một môn đệ là Phàn Trì muốn học làm ruộng hay làm vườn thì Khổng Tử đã bảo nên đi tìm một ông lão làm vườn hay làm ruộng mà học. Sau đó ông còn chê trí Phàn Trì là chí khí nhỏ hẹp. Theo ông, đi học là học lễ, nghĩa và tín khiến cho dân chúng từ bốn phương xa lạ khâm phục và đai con đến để theo mình (LUẬN NGỮ, Tử Lộ). Vậy chính Khổng Tử là người đã dạy dân Trung Hoa chỉ nên hướng về đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm, cũng như Vương Trùng Dương đã nghiêm cấm môn đệ học CỬU ÂM CHƠN KINH.

2. Tuy nhiên, Khổng Tử là một nhơn vật quá cổ nên không thích hợp với khung cảnh chánh trị thời nay. Bởi đó, có lẽ nhà chánh trị Trung Hoa cận đại có thể so sánh với Vương Trùng Dương là Tôn Văn. Ông là người được cả dân Trung Hoa tôn trọng và gọi là Quốc Phụ. Tên tự ông là Dật Tiên, mà theo quan niệm Trung Hoa, tiên là một nhơn vật nhờ theo Đạo Giáo mà được trường sanh bất lão. Địa vị Quốc Phụ của Tôn Văn cũng giống như địa vị Giáo Chủ phái Toàn Chân của Trung Thần Thông.

Theo bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP thì trước khi đi tu làm đạo sĩ, Trung Thần Thông đã từng tổ chức cuộc tranh đấu để chống lại người Kim, và sau đó phái Toàn Chân do ông sáng lập là một đoàn thể có chủ trương chống lại người Mông Cổ. Phần Ông Tôn Văn thì đã làm cách mạng giải thoát nước Trung Hoa khỏi sự cai trị của nhà Thanh do người Mãn Châu xây dựng, để bắt đầu chánh sách tự tân tự cường. Điều đáng lưu ý là dân Mãn Châu chính là giống dân đã thành lập nước Đại Kim trước đây. Vậy, Tôn Văn với Trung Thần Thông đã có một quá trình tranh đấu chống sự xâm lược của dị tộc như nhau.

Mặt khác, ngoài tên húy là Văn và tên tự là Dật Tiên, họ Tôn lại còn có tên hiệu là Trung Sơn. Ta có thể nhận thấy rằng tên hiệu này có chữ trung bên trong như ngoại hiệu Trung Thần Thông của Vương Trùng Dương. Về mặt ý thức hệ, Tôn Văn đã chủ trương kết hợp ba hệ thống tư tưởng Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh gồm có tư tưởng Quốc Gia, Tự Do và Xã hội làm một mối trong chủ nghĩa Tam Dân, lại tìm cách dung hoà nền văn hoá cổ của Trung Hoa với những cái hay của nền văn hóa thế giới. Đường lối chánh trị của ông dựa trên tinh thần dân bản, lại hướng đến lý tưởng thế giới đại đồng. Những điểm trên đây có sự tương đồng với chủ trương đường lối phái Toàn Chân là một đoàn thể đã kết hợp giáo lý của Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo và lấy Thiên Cương Bắc Đẩu Trận làm kỹ thuật tranh đấu trấn sơn.

Sau hết, lá cờ Thanh Thiên Bạch Nhựt Mãn Địa Hồng mà Tôn Văn và Trung Hoa Quốc Dân Đảng do ông lãnh đạo lấy làm quốc kỳ có hình mặt trời chói lọi tiêu biểu cho nền chánh trị dựa vào sự quang minh chánh trực và có thể so sánh với công phu Nhứt Dương Chỉ của phái Toàn Chân.

I- CÁC NHƠN VẬT CÓ LIÊN HỆ ĐẾN PHÁI TOÀN CHÂN SAU VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG: QUÁCH TĨNH và DƯƠNG KHANG

Sau khi Tôn Văn chết, không còn vị chánh khách Trung Hoa nào được toàn thể người Trung Hoa tôn trọng, cũng như sau khi Vương Trùng Dương chết, không còn người nào trong phái Toàn Chân có được tầm vóc của ông trừ Châu Bá Thông, nhưng Châu Bá Thông lại không được đứng vào địa vị lãnh đạo phái này. Bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU có nói đến hai nhơn vật có liên hệ đến phái Toàn Chân là Quách Tĩnh và Dương Khang.

1. Quách Tĩnh đã học nội công với đại đệ tử của Vương Trùng Dương là Mã Ngọc, nhưng không được Mã Ngọc nhận làm học trò. Sau đó ông đã thờ Bắc Cái làm sư phụ, mà như chúng tôi sẽ trình bày sau. Bắc Cái là một nhơn vật tượng trưng cho Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế.

Mặt khác, Quách Tĩnh đã có thêm nhiều công lực nhờ hút được huyết con rắn quí của Lương Tử Ông. Con rắn này nguyên là một con rắn độc màu đen, nhưng sau khi được Lương Tử Ông nuôi lâu năm bằng những loại trân dược, nó trở thành đỏ như huyết. Như chúng tôi sẽ trình bày trong đoạn nói về Tây Độc, con rắn là một biểu tượng của nền văn hoá Tây Phương. Ngoài ra, hiện nay, người ta thường dùng màu đen để biểu tượng cho cánh hữu bảo thủ và màu đỏ để biểu tượng cho cánh tả cách mạng. Các chi tiết trên đây cho thấy rằng con rắn của Lương Tử Ông được dùng để ám chỉ chủ nghĩa Cộng Sản. Triết lý của chủ nghĩa này vốn phát xuất từ biện chứng pháp của Hegel là một nhà học giả hữu phái của nước Đức. Karl Marx là học trò của Hegel; ông đã biến biện chứng pháp Hegel thành biện chứng pháp duy vật và làm nền tảng cho hệ thống tư tưởng cách mạng vô sản của mình. Kim Dung đã dùng con rắn đỏ để chỉ biện chứng pháp duy vật của Karl Marx. Biện chứng pháp duy vật thiên tả này vốn phát xuất từ biện chứng pháp hữu phái của Hegel, cũng như con rắn đỏ của Lương Tử Ông vốn là con rắn đen bị đổi màu sau khi được nuôi lâu năm bằng trân dược.

Vậy, Quách Tĩnh biểu tượng cho một nhơn vật Trung Hoa có một sở học khá vững về nền văn hoá cổ truyền của nước mình, nhưng sau đó, đã theo chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx và gia nhập Đảng Cộng Sản Quốc Tế. Trong các chánh khách Trung Hoa quan trọng xuất hiện sau Tôn Văn, người thích ứng hơn hết với các chi tiết trên đây là Mao Trạch Đông.

Trong hai bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Quách Tĩnh đã không nhận lãnh quan chức của triều đình nhà Tống mà ông cho là hủ bại với những ông vua ham mê tửu sắc và những viên quan hèn nhát gian nịnh. Nhưng ông đã cùng với viên trấn thủ thành Tương Dương (nay là Tương Phàn trong tỉnh Hồ Bắc) lãnh đạo cuộc tranh đấu chống lại các cuộc tấn công của quân Mông Cổ. Những điều này có thể so sánh với các việc Mao Trạch Đông tuy không thuận với chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc, nhưng đã cùng chánh phủ này lãnh đạo cưộc kháng chiến chống Nhựt.

Trong phần kết cuộc của bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Quách Tĩnh lại được công nhận làm Bắc Hiệp hay Bắc Cái trong số Võ Lâm Ngũ Bá. Với sự kiện này, Kim Dung đã muốn nêu ý kiến là Mao Trạch Đông xứng đáng cầm đầu Cộng Sản Quốc Tế hơn là các nhà lãnh đạo Sô Viết kế vị cho Staline. Ta không nên lấy làm lạ về quan điểm này vì khi viết bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã bớt thiện cảm với Cộng Sản Nga, nhưng vẫn còn hoan nghinh Trung Cộng.

2. Dương Khang vừa là người anh em kết nghĩa với Quách Tĩnh, vừa là người đã nhiều lần chống chọi lại Quách Tỉnh. Lúc ban đầu, ông được Khưu Xứ Cơ là sư đệ của Mã Ngọc thâu nhận làm đệ tử. Vậy, ông chánh thức là người của phái Toàn Chân. Nhưng ông đã được Hoàn Nhan Liệt là một thân vương nước Đại Kim nuôi từ nhỏ và xem như con ruột. Một mặt vì thương mến và thâm cảm ơn nuôi dưỡng tử tế, một mặt vì luyến tiếc sự giàu ang của vương thất nước Đại Kim mặc dầu nước ấy đang ở vào lúc sắp bị diệt, Dương Khang đã tiếp tục trung thành với Hoàn Nhan Liệt ngay cả lúc đã được biết chắc là vị vương giả này thật sự là người thù đã làm hại cha mẹ ruột mình. Dương Khang cũng có một đôi lần bị mối thù cha mẹ thúc giục nên có ý định làm hại Hoàn Nhan Liệt, nhưng lần nào ông cũng bỏ qua ý định đó.

Cứ theo lời mô tả của Kim Dung thì Hoàn Nhan Liệt có thể xem như là tiêu biểu cho phe đế quốc xâm lược. Về phần Dương Khang thì nhơn vật chánh trị thời cận đại gần với hình ảnh của ông nhiều hơn hết là Uông Tinh Vệ. Ông này vốn là một nhà ái quốc chống lại nhà Thanh và là một nhơn vật hợp tác chặt chẽ với Tôn Văn trong Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

Trong thời kỳ chống lại nhà Thanh, ông Uông Tinh Vệ đã tỏ ra rất dũng cảm. Khi bị bắt lúc hãy còn rất trẻ, ông đã không sợ hãi mà còn làm một bài thơ để biểu lộ ý chí mình như sau:

Khảng khái ca Yên thị,

Thung dung tác Sở tù.

Dẫn đao thành nhứt khoái,

Bất phụ thiếu niên đầu.

Thung dung tác Sở tù.

Dẫn đao thành nhứt khoái,

Bất phụ thiếu niên đầu.

Yên thị là cái chợ ở Yên Kinh, tức là Bắc Kinh ngày nay, nơi nhà Nguyên do người Mông Cổ thành lập dùng làm kinh đô. Lúc người Mông Cổ đánh Nam Tống thì một nhà ái quốc Trung Hoa là Văn Thiên Tường đã mộ quân chống lại họ. Ông bị bắt và bị cầm tù ở Bắc Kinh ngày nay vì không chịu đầu hàng. Trong khi ở trong ngục, ông làm bài Chánh Khí Ca để biểu lộ lòng trung nghĩa bất khuất của mình, và về sau đã bị người Mông Cổ xử tử ở Bắc Kinh.

Sở tù là người tù nước Sở. Đó là danh hiệu để chỉ Chung Nghi, một người nước Sở bị bắt làm tù binh, nhưng trong khi bị địch giam giữ vẫn có vẻ ung dung và giữ lề lối ăn mặc cư xử của nước mình.

Vậy với bài thơ trên đây, ông Uông Tinh Vệ đã lấy gương Văn Thiên Tường và Chung Nghi ra để biểu lộ ý chí của mình không chịu khuất phục nhà Thanh. Ông quyết tâm giữ thái độ ung dung như Chung Nghi và nếu có bị xử tử thì sẵn sàng ca hát một cách khảng khái ở pháp trường như Văn Thiên Tường, chỉ mong cho đao của người giám trảm chặt cho ngon để không uổng công chém cái đầu của một người thiếu niên như mình.

Sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập, ông Uông Tinh Vệ trở thành một người cộng sự mật thiết với ông Tôn Văn và là một trong những người tranh quyền lãnh đạo với Tưởng Giới Thạch. Ông rất muốn cho Trung Quốc canh tân theo nước Nhựt để trở thành cường thạnh, nhưng dĩ nhiên không thể không tán thành việc nước Nhựt chinh phục Trung Quốc. Tuy nhiên, một mặt vì không chấp nhận quyền lãnh đạo của ông Tưởng Giới Thạch, một mặt vì đặt chủ trương chống lại Trung Cộng trên chủ trương chống Nhựt nên về sau, ông đã chịu thành lập một Chánh Phủ Trung Hoa hợp tác với người Nhựt khi nước Nhựt xâm lấn Trung Quốc. Do đó, Uông Tinh Vệ đã bị đa số người Trung Hoa hiện đại lên án về chỗ đã hợp tác với kẻ thù của nước mình. Nếu quả thật Kim Dung dùng Dương Khang để biểu tượng cho Uông Tinh Vệ thì ông đã theo xu hướng chung của đồng bào ông.

Sưu tầm: Sun Ming
Nguồn: NXB Thanh Phương Thư Quán - năm 1986
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 11 năm 2014