← Quay lại trang sách

- II - (D) B. VẤN ĐỀ TRANH THỦ MỘT MỤC TIỀU TRỌNG ĐẠI.

Vấn đề tranh thủ một mục tiêu trọng đại cũng đã được Kim Dung dùng để trình bày một số ý kiến chánh trị.

1. Mục tiêu và phương pháp đạt mục tiêu của một số cao thủ võ lâm.

a. Mục tiêu của một số cao thủ võ lâm.

Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, có nhiều cao thủ võ lâm hướng đến việc đạt một mục tiêu trọng đại riêng cho cá nhơn mình hay cho gia tộc hoặc cho môn phái của mình. Có người muốn được công nhận là người có võ công cao nhứt hoặc muốn thấy môn phái mình được xem là môn phái giỏi nhứt. Trong những người có tham dự các cuộc luận võ ở Hoa Sơn, Tây Độc Âu Dương Phong là người lúc nào cũng cố tiến lên để giành lấy danh hiệu “đệ nhứt bá võ lâm”. Phần Diệt Tuyệt Sư Thái thì nuôi hy vọng thấy phái Nga Mi của mình được xem là môn phái có địa vị cao nhứt. Dư Thương Hải của phái Thanh Thành cũng nuôi một ý đồ tương tự. Tiến xa hơn một bước, một số cao thủ muốn được công nhận làm Minh Chủ Võ Lâm. Đó là trường hợp của Kim Luân Pháp Vương, Tả Lãnh Thiền và Nhạc Bất Quần. Nuôi mộng lớn hơn thì có các Giáo Chủ của Triêu Dương Thần Giáo là Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại nghĩ đến việc thống nhứt cả võ lâm dưới quyền điều khiển của mình. Sau hết, cũng có những người như Hồng An Thông, Giáo Chủ Thần Long Giáo muốn chiếm được một lãnh thổ để làm chúa một nước nhỏ, hay như cha con Mộ Dung Bác và Mộ Dung Phục nhắm mục tiêu khôi phục nước Đại Yên.

Trong số các cao thủ võ lâm nhắm các mục tiêu đã kể, có người không ngần ngại công bố chủ trương của mình như các Giáo Chủ của Triêu Dương Thần Giáo và Giáo Chủù của Thần Long Giáo, một bên bắt giáo chúng tung hô mình với khẩu hiệu “thiên thu trường trị, nhứt thống giang hồ”, một bên tập cho giáo chúng chúc mình “hưởng phúc trọn đời, thọ ngang Thượng Đế”. Tả Lãnh Thiền và Nhạc Bất Quần thì kín đáo hơn, nhưng hoạt động của họ, nhứt là của Tả Lãnh Thiền, cũng đã bộc lộ cho người khác thấy. Riêng Diệt Tuyệt Sư Thái đã hoàn toàn giấu kín ý đồ của mình, chỉ đến lúc sắp chết mới dặn đồ đệ mình là Châu Chỉ Nhược tìm mọi cách để nối chí mình.

Để đạt mục tiêu chánh yếu của mỉnh, các cao thủ vỗ lâm nhiều khi đã phải nhắm một mục tiêu phụ thuộc, nhưng cần thiết, như tìm những bí kíp về võ thuật loại CỬU ÂM CHƠN KINH, TỊCH TÀ KIẾM PHỔ, hoặc những bảo vật loại kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long, mặc dầu có người không biết tác dụng thật sự của hai võ khí này. Trường hợp của tám bộ TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH của nhà Thanh cũng là một trường hợp đáng lưu ý: nó chứa đựng một bản đồ chỉ chỗ chốn giấu một kho tàng đồng thời với long mạch nhà Thanh và đã được nhiều người tìm kiếm mặc dầu có người không biết rõ tác dụng của nó.

b.Phương pháp đạt mục tiêu của một số cao thủ võ lâm.

Trong việc thực hiện chủ trương của mình, một số cao thủ võ lâm đã khơng lui bước trước biện pháp nào. Họ có thể có những thủ đoạn lưu manh đê tiện, hay những hành động tàn ác đối với người khác, hoặc ngay cả đối với những người thuộc một phe với họ. Một số đã đi đến chỗ tự hủy hoại một phần thân thể của mình để đạt mục đích. Nói chung thì nguyên tắc được các cao thủ võ lâm này áp dụng là “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Đối với họ, chỉ có việc đạt được mục tiêu mà họ nhắm là đáng kể và mọi hành động lợi cho việc đạt mục tiêu như vậy đều là tốt cả, dầu cho hành động này không phù hợp với đạo lý chánh thức họ phụng thờ.

Vì theo nguyên tắc “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, Dương Khang đã giết Âu Dương Công Tử để có thể làm đệ tử Âu Dương Phong; Mộ Dung Phục đã nhận làm con nuôi Đoàn Diên Khánh và để cho ông này tin cậy, đã hạ sát một bộ hạ trung thành với mình là Bao Bất Đồng; Diệt Tuyệt Sư Thái đã dạy Châu Chỉ Nhược dùng sắc đẹp mê hoặc Trương Vô Kỵ để đoạt đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên; Nhạc Bất Quần đã đánh cắp TỊCH TÀ KIÉM PHỔ của học trò là Lâm Binh Chi, ông đã cũng như Đông Phương Bất Bại chịu tự thiến để có thể học kiếm pháp vô địch này; các nhà lãnh đạo Triêu Dương Thần Giáo và Thần Long Giáo thì dùng chắt độc để kềm chế bộ hạ làm cho họ phải trung thành với mình.

2. Các thông điệp chánh trị của Kim Dung liên hệ đến vấn đề tranh thủ mục tiêu.

Theo dõi kết quả mà các cao thủ võ lâm đã đạt được trong việc tranh thủ mục tiêu, chúng ta cỏ thể nhận thấy một số thông điệp chánh trị của Kim Dung.

a. Việc phải biết hạn chế mục tiêu của mình.

Qua sự tích các nhơn vật trong các bộ truyện võ hiệp của ông, Kim Dung đã nhấn mạnh trên chỗ con người khó có thể làm hết các việc mình mong muốn nên phải biết hạn chế mục tiêu của mình.

1) Trong việc học hỏi và luyện tập về bất cứ bộ môn nào, người cũng đều gặp một vấn đề nan giải là khả năng thể chất và tinh thần của mình bị giới hạn trong khi những điều cần biết lại vô cùng. Biển học vốn mênh mông không bờ bến, không ai đi đến tận cùng được. Vả lại, nếu mình đi được rất xa trên một con đường thì người khác có thể đi được rất xa trên con đường khác. Bởi vậy, không người nào có thể thông suốt được hết mọi việc trong một môn học để chắc chắn là không ai có thể thắng được mình và nắm giữ địa vị người số một trong môn học của mình một cách chắc chắn và lâu dài. Người phải hao phí không biết bao nhiêu thời gian và công lực mới có thể được xem là đệ nhứt bá võ lâm. Nhưng sau đó, người có thể bị người khác, có khi là người trẻ hơn, đánh bại. Hiện tượng này đã được diễn tả một cách sống động trong hai câu thơ:

“Trường Giang hậu lãng thôi tiền lãng;

Thế thượng tân nhơn tán cựu nhơn”

(Trên Sông Cái, sóng sau xô sóng trước;

Giữa cõi đời, người mới chận người xưa)

Trong các nhơn vật chánh yếu của Kim Dung, chỉ có Trương Vô Kỵ là người được học nhiều hơn hết. Chẳng những tinh thông y lý, thạo về độc dược, ông còn luyện được cả ba môn võ Thái Cực Quyền Kiếm của người Trung Hoa, cửu Dương Thần Công của Đạt Ma Tổ Sư vốn là người Thiên Trúc (An Độ), và Càn Khôn Đại Nã Di Tâm Pháp của người Ba Tư. Ông là Giáo Chủ Minh Giáo, lại được tôn là Minh Chủ Võ Lâm và được xem là người có võ công cao nhứt thời ông. Nhung khi phản lại ông, Châu Nguyên Chương chỉ cần bỏ thuốc mê vào rượu cho ông uống là đã bắt được ông một cách rất dễ dàng. Người được xem là “đệ nhứt bá võ lâm” và được tôn trọng suốt đời là Vương Trùng Dương. Nhưng ông này đã chết sớm hơn những người đồng tài với ông và những người này về sau võ công rất tăng tiến nên chưa hẳn là ông có thể giữ được địa vị “đệ nhứt bá” này một cách chắc chắn. Như thế, địa vị “đệ nhứt bá võ lâm” không phải là dễ đạt và dễ duy trì.

Mặt khác, việc tham lam luyện tập các thứ võ công trác tuyệt không phải là không có mối hại. Một số võ công thượng thặng đòi hỏi người phải chịu thương tổn rồi mới học theo nó được. Muốn luyện Thất Thương Quyền thì phải làm cho nội tạng mình bị thương và quyền công càng cao siêu bao nhiêu thì nội tạng càng bị thương nặng bấy nhiêu, về võ công đirợc dạy trong QUÌ HOA BẢO ĐIỂN hay TỊCH TÀ KIẾM PHỔ có thể làm cho người thành vô địch thì trước khi luyện tập người phải tự thiến.

Các thứ võ công thượng thặng tự nó không làm cho người bị tổn thương như vậy, nhưng nếu tham lam luyện tập quá nhiều, người cũng có thể bị hại, nhứt là khi cố luyện tập nhiều môn võ khác nhau. Võ học của phái Thiếu Lâm có thể nói là tuyệt cao, nhưng các môn võ của phái này phải được học tập với tinh thần từ bi. Nếu không có tinh thần từ bi mà học võ công thượng thặng của phái Thiếu Lâm thì bị bại hoại thân thể hay bị nội thương. Người có võ công cao nhứt của phái này là Huyền Trừng Đại Sư đã tự nhiên bi đứt cân mạch và thành phế nhơn. Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác và Tiêu Viên Sơn đều đã bi nội thương trầm trọng khi lén vào chùa Thiếu Lâm lấy sách về võ học để luyện tập. Đặc biệt đáng lưu ý là trường hợp của võ học trong bộ DỊCH CÂN KINH. Chính nhờ nó mà Lịnh Hồ Xung đã chữa được nội thương của mình phát xuất từ việc trong người có nhiều luồng chơn khí mạnh khác nhau. Nhưng khi luyện theo nó, Cưu Ma Trí đã bị nội thương trầm trọng. Rốt cuộc, Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn chỉ thoát hiễm được nhờ vị sư già mặc áo xám trong chùa Thiếu Lâm đánh chết rồi cứu sổng lại, còn Cưu Ma Trí thì cũng chỉ nhờ bị Đoàn Dự thâu hút hết công lực mới khỏi bị nạn phát điên mà chết.

Các câu chuyện trên đây cho thấy rằng dầu người có thông minh, dũng cảm và có nghị lực bao nhiêu, người cũng khó luyện tập hết các môn võ công thượng thặng để chắc chắn trở thành một nhơn vật vô địch trong võ lâm. Áp dụng ra lãnh vực chánh tri điều này có nghĩa là dầu người có thiên tư tốt và cố gắng đến đâu, người cũng không thể nắm vững hết các vấn đề và vượt lên trên cả thiên hạ được. Bởi đó, người phải có ý thức rõ rệt về sự hạn chế của tri thức mình và có thái độ thích ứng.

2) Nếu không thể luyện tập hết các môn võ công thượng thặng để chắc chắn trở thành một nhơn vật vô địch trong võ lâm người cũng không thể thống nhứt hết thiên hạ dưới quyền điều khiến của mình. Giới võ lâm vốn có nhiều nhơn vật và nhiều môn phái khác nhau. Tuy khả năng có thể hơn kém khác nhau, mỗi nhơn vật, mỗi môn phái đều có bản sắc của mình và đều phần nào tự hào về bản sắc đó nên muốn duy trì nó. Dầu có theo phương pháp nào, người cũng khó chế ngự được hết mọi nhơn vật và mọi môn phái để đi đến sự thống nhứt hoàn toàn mọi lực lượng đương có.

Xét tất cả các đoàn thể được Kim Dung mô tả trong các bộ truyện võ hiệp của ông, ta có thể nói rằng đoàn thể có tổ chức hoàn bị hơn hết để đạt mục tiêu nhứt thống giang hồ là Triêu Dương Thần Giáo. Kỹ thuật làm việc của đoàn thể này khai thác đúng mức tâm lý con người. Nó dùng những biện pháp tàn độc nhưng hữu hiệu để kềm chế người của mình, làm cho họ phải hết sức trung thành và tận lực thi hành thượng lịnh. Tuy nhiên, đoàn thể này rốt cuộc vẫn không đạt được mục tiêu thống nhứt giang hồ dưới quyền thống trị muôn năm của mình. Sự tích của Triêu Dương Thần Giáo theo Kim Dung mô tả có mấy điểm đáng lưu ý.

Trước hết là cuộc tranh giành ngôi Giáo Chủ giữa Nhậm Ngâ Hành và Đông Phương Bất Bại. Tổ chức chặt chẽ của Triêu Dương Thần Giáo đã không ngăn chận được việc người phụ tá của Giảo Chủ Nhậm Ngã Hành là Đông Phương Bất Bại âm mưu triệt hạ ông để lên giữ ngôi vị tối cao. Nó cũng không ngăn chận được việc Nhậm Ngã Hành được người bộ hạ trung thành giúp và thoát khỏi ngục thất rồi đoạt lại ngôi Giáo Chủ đã mất. Chung qui, các biện pháp mà người lãnh đạo đương nhiệm dùng để chế ngự thuộc hạ làm cho các thuộc hạ này tuyệt đối phục tùng mình cũng đã làm cho họ tuyệt đối phục tùng kẻ đối thủ của mình để chống lại mình khi kẻ đối thủ đó nắm được cái thế chế ngự họ.

Cái chết của Nhậm Ngã Hành cững có một ý nghĩa đặc biệt. Cứ theo Kim Dung mô tả thì ông đã có kế hoạch rất hoàn bị để triệt hạ cả phái Hằng Sơn lẫn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương. Nhưng kế hoạch này thật sự không phải thích ứng như Nhậm Ngã Hành tưởng. Nó vốn dựa trên giả thuyết là khi về núi Hằng Sơn, Lịnh Hồ Xung cho người thông báo với hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương để cầu viện và hai phái này sẽ đem hết lực lượng đến núi Hằng Sơn để viện trợ. Tuy nhiên, Lịnh Hồ Xung đã không cầu viện nơi hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương như Nhậm Ngã Hành dự liệu. Dầu vậy, một số cao thủ lãnh đạo hai phái này cũng đã đến Hằng Sơn gặp Lịnh Hồ Xung. Người của họ cũng được đưa đến Hằng Sơn nhưng đã hóa trang đi tránh con mắt dò xét của địch. Và thay vì đem lực lượng đối chọi với lực lượng Triêu Dương Thần Giáo, họ đã lập kế để hại Nhậm Ngã Hành và giáo chúng Triêu Dương Thần Giáo đến tấn công Hằng Sơn. Vậy, nếu Nhậm Ngã Hành thi hành kế hoạch ông nghĩ ra thì cuộc diện không biết đã xảy ra như thế nào. Nhưng thật sự Nhậm Ngã Hành đã chết trước khi thi hành kế hoạch.

Sở dĩ Nhậm Ngã Hành chết thình lình như vậy là vì với môn Hấp Tinh Đại Pháp, ông đã thâu hút vào người nhiều luồng chơn khí và các luồng chơn khí này thỉnh thoảng xung đột nhau làm cho ông đau đớn. Để trừ khử các luồng chơn khí mình đã thâu hút vào cơ thể mà không hóa tán và dung hợp được, Nhậm Ngã Hành đã phải dùng một thứ nội công cực kỳ bá đạo và do đó mà hao tổn rất nhiều chơn nguyên thành ra bị tổn thọ. Tuy tình trạng này liên hệ đến cá nhơn của Nhậm Ngã Hành, nó cũng phản ảnh tình trạng đoàn thể do ông lãnh đạo. Nó có thể biểu hiện sự kiện Triêu Dương Thần Giáo gồm nhiều lực lượng khác nhau được kết hợp nhau dưới quyền thống suất của môt nhà lãnh đạo chuyên chế, nhưng vẫn có sự xung khắc nhau. Việc kềm giữ cho sự xung khắc này không bùng nổ lớn làm tiêu hao nhiều thì giờ và nghị lực của đoàn thể. Với cái chết của Nhậm Ngã Hành, Kim Dung cho chúng ta thấy rằng nó làm cho đoàn thể không thực hiện được mục tiêu căn bản của mình.

Về mặt chánh trị thì như chúng tôi đã trình bày trước đây, Triêu Dương Thần Giáo đã được Kim Dung dùng để tượng trưng cho Đảng Trung Cộng. Sự thất bại của Triêu Dương Thần Giáo có thể được xem như là để ám chỉ việc Đảng này không đạt được mục tiêu nó đưa ra làm lý tưởng tối hậu. Đảng Trung Cộng vốn theo chủ nghĩa Marx-Lenin là một chủ nghĩa hướng đến việc thực hiện một thế giới đại đồng dưới quyền lãnh đạo chuyên chế của người vô sản. Nhưng mặc dầu được tổ chức theo lề lối của Lenin, một lề lối phi nhân nhưng hữu hiệu, Đảng Trung Cộng đã không thực hiện được mục tiêu mà Marx nêu ra.

Thế giới hiên tại không phải đã bị Cộng sản chế ngự, mà Trung Cộng lại cũng không giành được quyền lãnh đạo phong trào tranh đấu cho vô sản thế giới. Riêng Cộng sản Việt Nam cũng theo chủ nghĩa Marx-Lenin và trước đây đã được Trung Cộng tận lực ủng hộ trong cuộc chiến đấu với người Pháp rồi người Mỹ, ngày nay cũng đã thành thù địch với Trung Cộng. Ngay ở Trung Hoa, Trung Cộng cũng chưa phải đã thành công. Đảo Đài Loan hiện vẫn còn nằm trong tay Trung Hoa Quốc Dân Đảng và một số Hoa kiều khá đông ở các nước vẫn còn theo Trung Hoa Quốc Dân Đảng để chống lại Trung Cộng một cách mãnh liệt. Trong việc điều khiển khối người sổng ở Hoa lục, Trung Cộng đã gặp nhiều khó khăn và không thực hiện được các kế hoạch phát triển kinh tế của mình như dự liệu. Mặt khác, chính nội bộ Trung Cộng đã trải qua những cuộc khủng hoảng trầm trọng làm cho xã hội Trung Hoa dưới quyền lãnh đạo của họ nhiều lần bị xáo trộn và người Trung Hoa phải chịu nhiều đau khổ.

Với câu chuyện Triêu Dương Thần Giáo, Kim Dung đã có ý cho thấy rằng việc thống nhứt thiên hạ chỉ là một giấc mộng, và ngay cả việc bắt tất cả mọi người trong một nước hoàn toàn tùng phục mình cũng là một mục tiêu khó đạt, dầu cho người cầm quyền có áp dụng những biện pháp phi nhân tàn độc để khủng bố và kềm chế người dân.

b. Thông điệp chánh trị của Kim Dung được gói ghém trong thuật Song Thủ Hỗ Bác hay Phân Thân Song Kích.

Trong hai bộ ANH HÙỪNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung có mô tả một tuyệt kỹ của Châu Bá Thông là Song Thủ Hỗ Bác cũng gọi là Phân Thân Song Kích. Người luyện được thuật này có thể một mình đóng hai vai tuồng đối nghịch nhau y như là hai người phân biệt nhau và tranh đấu với nhau. Do đó, khi phải chiến đấu với kẻ khác, người ấy có thể đồng thời sử dụng hai môn võ hoàn toàn dị biệt và người đối địch với họ cũng gặp khó khăn y như là phải đương đầu với hai cao thủ. Muốn học được thuật Song Thủ Hỗ Bác, việc mà người ta phải tập trước hết là đồng thời dùng tay trái vẽ một hình vuông và tay mặt vẽ một hình tròn. Đó không phải là một việc dễ làm nên không phải ai cũng học được thuật trên đây của Châu Bá Thông. Người sáng tác nó vốn có biệt hiệu là Lão Ngoan Đồng, vì tuy đã lớn tuổi, ông có tánh tình bình dị chất phác và ham vui chơi như trẻ con, và luôn luôn cư xử một cách hồn nhiên, không suy nghĩ tính toán. Cứ theo Kim Dung thì những người lanh lợi thông minh, hay suy nghĩ tính toán không thể học được thuật Song Thủ Hỗ Bác. Trong các tác phẩm của ông, hai người thành công trong việc luyện thuật nay là Quách Tĩnh và Tiểu Long Nữ. Cả hai đều chất phác và chậm chạp không biết suy nghĩ tính toán khi đứng trước một vấn đề.

1) Việc tự phân thân thành hai người làm hai việc khác nhau và đối chọi nhau hoặc hoàn toàn khác nhau, như một tay vẽ hình tròn, một tay vẽ hình vuông, có thể được Kim Dung dùng để ám chỉ một diễn trình tâm lý làm cho người có thể vừa là mình, vừa tự đặt mình trong địa vị một người khác để biết người đó suy nghĩ và phản ứng như thế nào. Diễn trình tâm lý này rất cần thiết cho việc cư xử theo đạo Nhân là đức tánh căn bản của Nho Giáo. Chữ Nhânchunhan vốn gồm có hai chữ: nhị chunhilà hai và nhơnchunhon là người. Căn bản của nó là làm cho con người lúc nào cũng nhớ rằng trên đời không phải chỉ có một mình mình, và ngoài mình ra, còn có người khác. Người khác này cũng có tâm lý y như mình, điều mình ghét thì họ cững ghét và điều mình ưa thì họ cũng ưa. Người học theo đạo Nhân có hai nguyên tắc phải áp dụng, về mặt tiêu cực hay thụ động, là nguyên tắc “hễ cái gì mình không muốn cho kẻ khác làm đối với mình thì mình không làm đối với kẻ khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân: LUẬN NGỮ, Vệ Linh Công), về mặt tích cực hay chủ động là nguyên tắc “hễ mình muốn hưởng được cái gì thì mình cũng làm cho người khác cùng hưởng được cái đó như mình” (Kỷ dục lập nhi lập nhơn, kỷ dục đạt nhi đạt nhơn: LUẬN NGỮ, Ung Dã).

Trên lý thuyết thì vấn đề rất giản dị. Nhưng trên thực tế đạo Nhân không phải dễ đạt vì người thường có tánh chủ quan, chỉ biết phần mình mà không thèm biết đến phần người khác. Bởi đó, người ít khi tự đặt mình vào địa vị kẻ khác để xét xem họ thấy việc mình làm như thế nào và phản ứng ra sao. Lúc tự đặt mình ở địa vị kẻ khác thì người lại có thể không xét ra được phản ứng của họ một cách đúng đắn. Sau hết, cũng có thể người ta đã biết đúng phản ứng của người khác, nhưng lại vẫn không cư xử đúng cách đi tránh những phản ứng không tốt.

Để có một thí dụ cụ thể về vấn đề, ta có thể lấy trường hợp của những người lái xe đi trên đường phố. Khi đến một ngã tư có đèn đỏ và phải ngừng lại, người lái xe có thể lơ đãng và không rồ máy chạy ngay lúc đèn xanh đã bật cháy. Nếu người lái xe ở phía sau bóp còi để thúc giục, người lái xe này có thể bực tức và chửi thề. Nhưng khi xe mình ngừng ở phía sau xe khác mà thấy xe trước mình chưa chạy lúc đã có đèn xanh, chính người lái xe đã bực tức và chửi thề nói trên đây lại bóp còi thúc giục xe trước. Có người lái xe không hề nghĩ đến thái độ hoàn toàn chủ quan và thiếu hợp lý của mình trong hai trường hợp trên đây. Cũng có người đã nghĩ đến nó rồi, nhưng không thay đổi lề lối cư xử của mình trong hai trường hợp đã kể trên. Điều này cho thấy rằng việc tự phân thân thành hai người đi học theo đạo nhân không phải là ai cũng thực hiện được với kết quả mỹ mãn.

2) Thuật Song Thủ Hỗ Bác được Kim Dung mô tả có thể xem như là một giải pháp lý tưởng cho võ lâm cũng như cho trường chánh trị. Cộng đồng nào cũng có nhiều nhơn vật, nhiều đoàn thể đồng thời hiện diện. Nhưng ta đã thấy trên đây, một nhơn vật hay một đoàn thể khó có thể vượt lên trên tất cả các nhơn vật hay đoàn thể khác để chế ngự tất cả và bắt tất cả phải hoàn toàn tùng phục mình. Như vậy, nếu không muốn có sự xung đột hỗn loạn với nhau một cách quyết liệt làm hại cho tất cả, người ta chỉ còn một phương pháp là chấp nhận sự tồn tại của tất cả, nhưng điều chỉnh sự hoạt động giữa các nhơn vật và đoàn thể hiện diện sao cho tất cả có thể hòa hợp với nhau những khi cần và khi tranh đua với nhau thì cũng không phải với tinh thần thù nghịch quá độ.

Cũng như thuật Song Thủ Hỗ Bác mà bước đầu là đồng thời dùng tay trái để vẽ hình vuông và tay mặt để vẽ hình tròn, việc điều chỉnh nói trên đây không phải là dễ dàng. Nếu sự thành công trong việc luyện thuật Song Thủ Hỗ Bác đòi hỏi người phải hồn nhiên chất phác, không suy nghĩ tính toán thì việc làm cho các nhơn vật và đoàn thể trong giới võ lâm hay trong chánh trường chung sống và hòa hợp nhau mặc dầu có thể cạnh tranh nhau, cũng đòi hỏi nơi mọi người một tinh thần cởi mở và tôn trọng sự công bằng.

Đứng riêng về mặt định chế chánh trị mà nói thì thuật Song Thủ Hỗ Bác đã được các nước theo chủ trương dân chủ tự do áp dụng với chế độ đối lập chánh trị. Ở các nước này, có nhiều chánh đảng khác nhau, mọi chánh đảng đều có đường hướng và chủ trương của mình. Đại khái các chánh đảng nói trên đây được phân ra làm hai cánh tả và hữu, có lập trường khác nhau, như hình ảnh một bên vẽ hình vuông, một bên vẽ hình tròn. Các chánh đảng chia ra làm hai cánh tả và hữu như vậy đã phân công phân nhiệm với nhau, hễ một bên nắm chính quyền thì một bên đối lập. Bình thường thì hai bên cạnh tranh nhau ráo riết. Tuy nhiên, khi quyền lợi chung của quốc gia đòi hỏi, như trong trường hợp phải đối phó với một cường địch hay phải giải quyết một vấn đề quan trọng can hệ đến sự tồn vong của dân tộc, họ vẫn có thể hợp tác với nhau.

Chế độ đối lập chánh trị này chỉ có thể duy trì và vận dụng khi các chánh đảng đều chấp nhận tôn trọng một Hiến Pháp chung, cũng như hai tay tuy chia nhau, một bên vẽ hình vuông, một bên vẽ hình tròn, nhưng vẫn còn thuộc chung một cơ thể có một ý chí chung. Gặp trường hợp có một chánh đảng mưu toan phục vụ đường lối riêng của mình, bất chấp các chánh đảng khác thì chế độ đối lập bị gãy đổ. Đó là việc xảy ra ở nước Ý và nước Đức trong thời kỳ giữa hai trận Thế Chiến. Hai Đảng Phát Xít và Quốc Xã sau khi nắm được chánh quyền bằng lề lối hợp hiến đã đàn áp các chánh đảng khác để xây dựng chế độ độc tài toàn diện của mình.

Đứng về mặt chánh sách mà nói thì thuật Song Thủ Hỗ Bác có thể dùng để so sánh với chủ trương dung hòa những biện pháp thuộc hai hệ thống suy luận và tổ chức khác nhau. Trong thuật Song Thủ Hỗ Bác, hai tay chia nhau một bên vẽ hình vuông, một bên vẽ hình tròn nhưng đều thuộc một người và người này không thiên về bên nào nếu thiên về một bên thì không áp dụng được thuật ấy. Vậy, sự thành công trong việc áp dụng thuật Song Thủ Hỗ Bác hàm ý không thiên vị, tức là không có sự cố chấp một lập trường nhứt định. Sự thành công trong việc dung hòa những biện pháp thuộc hai hệ thống suy luận và tổ chức khác nhau cũng đòi hỏi sự không thiên vị và không cố chấp. Bởi đó, các nước dân chủ tự do dễ thực hiện sự dung hòa nói trên đây hơn là các nước theo chế độ độc tài.