- III- DIỄN TRÌNH BIẾN CHUYỂN TRONG QUAN ĐIỂM CỦA KIM DUNG VỀ CÁC VẤN ĐỀ CHÁNH TRỊ XÉT QUA SỰ TÍCH CÁC NHƠN VẬT CHÁNH YẾU VÀ CÁC CỐT CHUYỆN TRONG CÁC BỘ TRUYỆN VÕ HIỆP NỔI TIẾNG NHỨT CỦA ÔNG.
- III-
diễn trình biến chuyển trong quan điểm của kim dung về các vấn đề chánh trị xét qua sự tích các nhơn vật chánh yếu và các cốt chuyện trong các bộ truyện võ hiệp nổi tiếng nhứt của ông.
hi xem qua sự tích các nhơn vật tượng trưng một số quốc gia trên thế giới hay một số chánh khách Trung Quốc cận đại, chúng ta đã thấy rằng Kim Dung đã có sự thay đổi trong quan điểm của mình. Xét lại hết sự tích các nhơn vật chánh yếu và các cốt chuyện trong các bộ truyện võ hiệp nổi tiếng nhứt của ông, ta có thể nhận định sự thay đổi này một cách rõ rệt hơn.
A. ẢNH HƯỞNG CỦA KHUNG CẢNH TRONG ĐÓ KIM DUNG SANH TRƯỞNG ĐỐI VỚI QUAN ĐIỂM SƠ KHỞI CỦA ÔNG VỀ CÁC VẤN ĐỀ CHÁNH TRỊ.
1. Khung cảnh trong đó Kim Dung sanh trưởng.
Kim Dung vốn là người sanh trưởng trong thời kỳ Trung Quốc vừa thoát khỏi sự thống trị của triều đình nhà Thanh do người Mãn Châu xây dựng. Lúc ấy, Trung Hoa Dân Quốc đã thành lập, nhưng chưa được ổn định và chưa được trọng nể trên chánh trường quốc tế.
Nhà cách mạng Tôn Văn là người tốt, được phần lớn người Trung Hoa xem là người đã phát khởi cuộc cách mạng lật đổ nhà Thanh để giải phóng Hán tộc khỏi ách cai trị của nguời Mãn Châu và đưa dân tộc Trung Hoa vào con đường hiện đại hóa. Tuy nhiên, ông không phải làm chủ được tình thế và được trọn quyền xây dựng đất nước theo chủ trương của mình. Trong nước, hãy còn nhiều nhơn vật và phe nhóm chống đối lại ông. Trong thời đó, đã có hai chánh phủ, một ở Hoa Bắc và một ở Hoa Nam. Cả hai chánh phủ này đều không thật sự vững chắc, nhưng lại chống chọi nhau mãnh liệt. Chỉ đến năm 1928, mới có một chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc thống nhứt. Tuy nhiên, sự thống nhứt này chưa phải thực hiện hoàn toàn vì ở một số tỉnh, các đốc quân vẫn còn trọn quyền điều khiển và không thật sự tùng phục chánh phủ trung ương. Mặt khác, Trung Hoa Quốc Dân Đảng và Đảng Trung Cộng đã hợp tác với nhau thời ông Tôn Văn còn sống, lại chống chọi nhau mãnh liệt từ năm 1927. Sự hợp tác với nhau trở lại chỉ thực hiện khi người Nhựt xâm lấn Trung Quốc.
Về mặt quốc tế, phần lớn các cường quốc thời đó đã không có thái độ hoàn toàn thân hữu đối với Trung Hoa Dân Quốc.
Nước Nhựt lúc ấy đã cường thạnh và tìm cách bành trướng thế lực. Ngừơi Nhựt rất sợ Trung quốc trở thành một nước mạnh có đủ sức đương đầu lại họ. Bởi đó, họ cố đặt Trung Quốc trong vị thế phải tùy thuộc họ. Họ đã nhiều lần lấn hiếp chánh quyền Trung Hoa và từ năm 1937 đã công khai kéo quân vào chiếm đóng lãnh thổ Trung Quốc. Đến năm 1938, người Nhựt xây dựng một chánh quyền Trung Hoa lệ thuộc mình đặt dưới sự điều khiển của Ông Uông Tinh Vệ là một lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng ly khai.
Các nước Tây Phương thì không còn thái độ lăng nhục người Trung Hoa một cách quá đáng như trước. Đặc biệt, Hoa Kỳ đã đưa ra chủ trương tôn trọng chủ quyền, nền độc lập và sự toàn vẹn của lãnh thổ Trung Quốc với điều kiện là Trung Quốc mở cửa giao thương với tất cả các nước. Tuy nhiên, các nước Tây Phương, kể cả Hoa Kỳ, đều không có thiện cảm với chánh quyền cách mạng của ông Tôn Văn và của những người kế vị ông. Họ đã giao thiệp với Chánh Phủ Hoa Bắc vì chánh phủ này có một chánh sách thích hợp hơn với quyền lợi họ. Chỉ đến khi Trung Quốc được thống nhứt, các nước Tây Phương mới giao thiệp với chánh quyền do những người kế vị Ông Tôn Văn lãnh đạo. Tuy có ủng hộ Trung Quốc khi Trung Quốc bị người Nhựt xâm lấn, họ chỉ giúp đỡ người Trung Hoa một cách tích cực sau khi người Nhựt khai chiến với họ năm 1941.
Riêng Liên Sô thì khi mới thiết lập chế độ cộng sản năm 1917 đã bị các cường quốc khác tẩy chay và bị cô lập trên trường quốc tế. Do đó, các nhà lãnh đạo cộng sản Nga đã bắt tay với chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc ở Hoa Nam và đã giúp chánh quyền này xây dựng một lực lượng quân sự tân tiến. Năm 1927, chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền Ông Tưởng Giới Thạch đã không còn hợp tác với cộng sản và do đó mà chấm dứt chánh sách thân hữu với Liên Sô. Tuy vậy, khi người Nhựt xâm lấn Trung Quốc, Liên Sô đã ủng hộ Trung Quốc và có giúp người Trung Hoa chống lại cuộc xâm lấn này, nhứt là qua ngả Trung Cộng.
2. Quan điểm sơ khởi của Kim Dung về các vấn đề chánh trị.
Tình thế Trung Hoa từ lúc Dân Quốc mới thành lập cho đến khi Thế Chiến II chấm dứt đã có ảnh hướng đến quan điểm sơ khởi của Kim Dung về các vấn đề chánh trị. Lúc bé, hẳn là ông đã biết rằng trước đó, người Trung Hoa đã bị người Mãn Châu cai trị và người thuộc các dân tộc Tây Phương và Nhựt lấn hiếp lăng nhục. Lớn lên, ông đã chứng kiến việc người Nhựt chiếm đóng một phần lãnh thổ Trung Quốc và sát hại người Trung Hoa, cũng như việc người Tây Phương áp dụng một chánh sách ích kỷ có lợi riêng cho họ mà bất lợi cho Trung Quốc. Những điều này chắc chắn đã kích thích tinh thần dân tộc của Kim Dung và làm cho ông thù ghét người ngoại quốc, đặc biệt là người Nhựt và người các nước Tây Phương.
Với tinh thần đó, dĩ nhiên là Kim Dung tôn sùng nhà lãnh đạo cách mạng Tôn Văn. Bởi vậy, ông đã mô tả nhà lãnh đạo này dưới hình ảnh đáng tôn quí của vị đệ nhứt bá võ lâm Trung Thần Thông. Các chánh khách về phía Quốc Gia nhưng chống chọi lại Ông Tôn Văn hẳn là không được Kim Dung ưa thích. Nhưng ngay đến những người kế vị cho Ông Tôn Văn cũng đã làm cho Kim Dung thất vọng vì họ đã tranh giành quyền bính và xung đột với nhau, lại tỏ ra độc tài và có người còn rất tham nhũng. Đã vậy, một số trong những người kế vị ông Tôn Văn về sau còn hợp tác với người Nhựt đương xâm lấn Trung Quốc. Ác cảm đối với các chánh khách Trung Hoa phía Quốc Gia đã làm cho Kim Dung thiên về Trung Cộng lúc ấy không bị hủ hóa vì chánh quyền và có một chánh sách chống Nhựt dứt khoát.
Mặt khác, Kim Dung cũng có cảm tình với Liên sỏ. Trong thời kỳ giữa hai trận Thế Chiến, nước này vẫn còn giữ được hào quang và huyền thoại của một quốc gia chủ trương một cuộc cách mạng giải phóng người vô sản và dân các nước bị đô hộ nên đã lôi cuốn được theo mình nhiều thanh niên trí thức ở các nước. Riêng Kim Dung lại còn dễ thân Liên Sô hơn vì đó là quốc gia duy nhứt đã tận lực giúp ông Tôn Văn xây dựng lực lượng của ông. Về sau, Liên Sô đã chống lại chánh quyền Tưởng Giới Thạch, nhưng rồi lại giúp đỡ Trung Quốc đương đầu lại Nhựt ngay từ lúc Nhựt mới xua quân chiếm đóng lãnh thổ Trung Quốc, mặc dầu sự giúp đỡ này có tánh cách hạn chế và thường qua ngả Trung Cộng.
Cho đến thập niên 1950, Kim Dung vẫn còn giữ quan điểm sơ khởi của mình. Bởi đó, lúc đầu, ông đã mô tả Đông Tà tượng trưng cho nước Nhựt và nhứt là Tây Độc tượng trưng cho các nước Tây Phương, đặc biệt là các nước Tây Âu, dưới những hình ảnh rất tệ hại. Trong khi đó, dưới ngòi bút của ông, Bắc Cái tượng trưng cho Liên Sô và Quách Tĩnh biểu tượng cho ông Mao Trạch Đông đã hiện ra như là những cao thủ võ lâm rất đáng tôn trọng.
B. SỰ THAY ĐỔI TRONG QUAN ĐIỂM CỦA KIM DUNG VỀ CÁC VẤN ĐỀ CHÁNH TRỊ.
1. Lý do của sự thay đổi trong quan điểm của Kim Dung.
Từ khi rời lục địa Trung Hoa ra ở Hongkong, Kim Dung đã sống trong một xã hội đặt dưới sự quản trị của người Anh theo chế độ tự do dân chủ. Tuy người Hongkong chỉ là thuộc dân và không được hưởng tất cả các quyền của người công dân một nước dân chủ tự do, chánh quyền Anh cũng đã công nhận cho họ một số quyền tự do tối thiểu. Với tư cách là người dân Hongkong, Kim Dung đã được hưởng các quyền lợi của một người dân sống trong chế độ tự do. Đồng thời, ông cũng đã có dịp quan sát những việc đã xảy ra trên thế giới. Trong hai thập niên 1950 và 1960, đã có những biến cố quan trọng xảy ra về phía Liên Sô và Trung Cộng.
Liên Sô đã dùng quân lực đàn áp các phong trào nhơn dân ở các nước chư hầu, như phong trào thợ thuyền đòi cải thiện đời sống ở Đông Đức năm 1933, phong trào người Hung đòi tách khỏi khối Minh Ước Warsaw năm 1956, phong trào người Ba Lan đòi cải thiện đời sống rồi chống lại sự có mặt của Nga năm 1956 và năm 1968, phong trào đòi tự do hóa chế độ của người Tiệp Khắc năm 1968.
Phần Trung Cộng thì trong năm 1959, họ đã dùng võ lực đàn áp người Tây Tạng chống lại chế độ cộng sản và giải tán Chánh Phủ Tây Tạng làm cho Đức Đạt Lại Lạt Ma cầm đầu chánh phủ này phải chạy sang Ấn Độ xin tỵ nạn chính tri trong khi đất Tây Tạng không còn được giữ qui chế một thuộc quốc mà bị sáp nhập hẳn vào bản đồ Trung Quốc với tư cách là một Khu Tự Trị. Mặc dầu Chánh Phủ Ấn Độ không nhìn nhận Chánh Phủ Tây Tạng lưu vong do Đức Đạt Lại Lạt Ma cầm đầu, Trung Cộng đã có những cuộc xung đột với Ấn Độ ở biên giới. Đến năm 1962, Trung Cộng lại cho quân vượt sang Ấn Độ chiếm một phần đất của nước này trong hơn một tháng rồi mới rút lui.
Về mặt nội bộ, năm 1957, chánh quyền Trung Cộng đã tung ra phong trào Trăm Hoa Đua Nở cho nhơn dân được phát biểu ý kiến tự do. Nhưng khi thấy phần lớn các ý kiến được phát biểu có tính cách chống lại chủ nghĩa và chế độ cộng sản, họ lại đàn áp những người đã chỉ trích Cộng Sản một cách mạnh mẽ. Để chứng tỏ là họ không hề lầm lạc, họ đã bảo rằng họ đã tung ra phong trào Trăm Hoa Đua Nở để gạt cho những kẻ thù của chế độ lộ diện hầu có thể trừng trị những kẻ thù này.
Trong khi đó, bên trong Đảng Trung Cộng lại có cuộc tranh quyền giữa các nhà lãnh đạo. Năm 1959, ông Lưu Thiếu Kỳ được bầu làm Chủ Tịch Nhà Nước và nắm trọn quyền điều khiển công việc của Chánh Phủ và của Đảng, phần ông Mao Trạch Đông thì chỉ còn giữ chức Chủ Tịch Đảng và thật sự bị dồn vào thế vô quyền. Năm 1965, ông Mao Trạch Đông đã phản công với chiến dịch Cách MạngVăn Hóa và dùng Vệ Binh Đỏ đễ cướp lại chánh quyền, ông Lưu Thiếu Kỳ đã bị bắt giam năm 1968 và chết trong ngục năm sau đó. Vợ Ông Mao Trạch Đông là Bà Giang Thanh đã đóng một vai tuồng tích cực trong việc chống lại Ông Lưu Thiếu Kỳ nên đã có một thế lực mạnh sau khi ông này bị lật đổ.
Giữa Trung Cộng và Liên Sô thì đã bắt đầu có sự bất đồng ý kiến từ năm 1956 với việc hạ bệ Ông Stalin. Sau đó, lại có nhiều điểm bất đồng ý kiến khác. Lúc khởi thủy, cả Liên Sô lẫn Trung Cộng đều còn cố gắng giấu kín sự xung đột giữa hai bên. Nhưng từ năm 1959, với việc Liên Sô đứng về phía Ấn Độ trong vụ xung đột giữa Trung Cộng với Ấn Độ, sự bất hoà đã lần lần được bộc lộ rõ rệt. Sang đến năm 1960 thì Liên Sô với Trung Cộng đã trở thành thật sự thù nghịch nhau sau khi Liên Sô đơn phương rút các chuyên viên Nga mà họ đã gởi sang giúp Trung Cộng xây dựng một nền kỹ nghệ tân tiến.
Các việc trên đây hẳn đã làm cho Kim Dung có một cái nhìn mới về các vấn đề chánh trị căn bản. Ông đã thấy rằng dân tộc Trung Hoa bị các nước vũ nhục và xâm lấn lúc suy nhược đã theo chánh sách lấn hiếp các dân tộc khác khi trở thành hùng cường hơn. Mặt khác, ông đã nhận chân rằng Đảng Cộng Sản Liên Sô cũng như Trung Cộng không phải lo phục vụ đại chúng như ông đã nghĩ. Khi nắm chánh quyền, các đảng ấy đã không ngần ngại dùng võ lực đàn áp nhơn dân nước mình và nước khác.
2. Quan điểm mới của Kim Dung.
Có lẽ nếp sống tự do mà ông được hưởng ở Hongkong và các nhận xét về hành động của Liên Sô và Trung Cộng trong hai thập niên 1950 và 1960 đã làm cho Kim Dung điều chỉnh lại quan điểm của mình. Sự thù ghét các dân tộc Tây Phương mà ông cho là những dân tộc có tinh thần đế quốc và tàn bạo đã dịu lần và ông đã xem các dân tộc đều như nhau. Ổng đã biểu lộ sự thay đổi quan điểm này với việc mô tả Đông Tà và Tây Độc trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Trong tác phẩm này, hai nhân vật đó đã già và dưới ngòi bút của Kim Dung, Tây Độc không còn phải là một người tê hại đáng bị khinh ghét, trong khi Đông Tà đã hiện ra như một người khả ái. Riêng Dương Quá tượng trưng cho Hoa Kỳ lại được Kim Dung mô tả như là một nhơn vật tốt và đáng tôn trọng.
Mặt khác, Kim Dung không còn thiên tả như trước. Tuy vẫn không ưa các nhà lãnh tụ hữu phái độc tài và tham nhũng mà ông mô tả qua hình ảnh của Tả Lãnh Thiền và Nhạc Bất Quần, ông cũng đã biểu lộ sự chỉ trích Trung Cộng và các lãnh tụ của Đảng này trong câu chuyện của Triêu Dương Thần Giáo và Thần Long Giáo với các vị Giáo Chủ Nhậm Ngã Hành, Đông Phương Bất Bại và Hồng An Thông.
Sưu tầm: Sun Ming
Nguồn: http://thaithuyvy.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 11 năm 2014