- III- (C) b. Mơ ước của Kim Dung về sự hòa bình trong nhơn loại
- III- (C)
b. mơ ước của kim dung về sự hòa bình trong nhơn loại
goài mơ ước thấy người quốc gia và người cộng sản Trung Hoa hòa giải hòa hạp với nhau, Kim Dung còn mong mỏi được thấy sự hòa giải hòa hợp giữa các dân tộc trên thế giới. Có lẽ ông là một trong những người đã đặt rất nhiều kỳ vọng nơi tiến trình giảm bớt căng thẳng giữa các đại cường trong thập niên 1970. Lập trường của ông đã biểu lộ qua việc ông mô tả cái chết của Bắc Cái, biểu tượng cho Liên Sô và Tây Độc, biểu tượng cho các nước Tây Phương trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Hai nhơn vật này có lập trường và tâm tánh xung khắc nhau và đã chống chọi nhau từ lúc còn trẻ. Mỗi người đều cố rèn luyện thêm tuyệt nghệ của mình để hơn đối thủ. Nhưng đến lúc đã già, họ lại tỏ ra có sự tôn trọng và phần nào mến phục lẫn nhau, vì nhận chân rằng mình không hơn được đối thủ. Tuy vẫn còn tranh đấu với nhau, họ đã không còn sự thù hằn nhau, và cuối cùng, đã ôm nhau và cười mà cùng chết với nhau. Với hình ảnh này, Kim Dung đã có ý bảo rằng hai Khối Cộng sản và Tây Phương không bên nào có thể thắng được đối phương và hay nhứt là nên chấp nhận sự sống chung hòa bình với nhau.
Về sự hòa giải hòa hợp giữa các dận tộc nói chung thì thông điệp của Kim Dung đã được gói ghém trong hai bộ THIÊN LONG BÁT BỘ và LỤC MẠCH THẦN KIẾM. Chúng ta đã nhận thấy trong đó việc nhóm người Đại Lý do Đoàn Dự lãnh đạo hợp tác với người Hán và người Nữ Chân để ủng hộ Tiêu Phong, một người Khiết Đan có mối thâm tình với người Hán, trong công việc ngăn cản nhà vua nước Đại Liêu thuộc tộc Khiết Đan muốn gây cuộc chiến tranh xâm lược với nước Đại Tống của người Hán. Họ đã thành công. Nhưng muốn đạt mục đích, Tiêu Phong đã phải uy hiếp nhà vua của nước mình và đã phải tự sát để đền tội. Cái chết bi tráng của nhơn vật khả kính và khả ái này cho thấy rằng Kim Dung ý thức là việc xây dựng hòa bình giữa các dân tộc rất khó khăn và sẽ không phải sẽ có thể đạt được gần đây. Nó đòi hỏi một cuộc tranh đấu kiên nhẫn và nhiều sự hy sinh của những người nuôi lý tưởng phục vụ hòa bình.
c. Tinh thần đại hùng, đại lực và đại từ bi của Phật Giáo đối với sự hòa giải hòa hợp hoàn toàn bên trong các dân tộc và sự hòa giải hòa hợp giữa các dân tộc đưa đến một nền hòa bình vững chắc cho loài người.
Ý kiến của Kim Dung xét qua các cốt chuyện của ông là sự hòa giải hòa hợp hoàn toàn bên trong các dân tộc và sự hòa giải hòa hợp giữa các dân tộc đưa đến môt nền hòa bình vững chắc cho loài người, chỉ có thể thực hiện được khi những người hoạt động chánh trị trên thế giới đều thật sự yêu thương người khác, và có đủ sức chế ngự các dục vọng của mình, để không bị lòng tham quyền lực danh vọng lôi cuốn vào con đường độc đoán và tàn ác. Cái đức tánh cần thiết trên đây đã được nhiều triết gia, nhiều học phái đạo đức nêu ra. Nhưng tự cổ chí kim và từ đông sang tây, không trường phái nào có những nhận định và chủ trương thích ứng bằng Phật Giáo về vấn đề này. Đó là vì Phật Giáo có những nguyên tắc căn bản đặc biệt khác với nguyên tắc của các giáo phái khác.
1) Giáo lý nhà Phật không kêu gọi con người phải nhắm mắt tin tưởng theo mình và tuyệt đối tuân hành mạng lịnh các giáo sĩ của môn phái mình để được cứu rổi hay được hưởng phước lành. Trái lại, nó dạy con người phải dựa vào mình trước nhứt và phải cố gắng để tự giải thoát lấy mình. Ngay đến pháp môn Tịnh Độ dạy người tu hành bằng cách niệm Phật cũng không phải là một lối giải thoát hoàn toàn nhờ tha lực, vì việc niệm Phật hàm ý là người tu theo pháp môn Tịnh Độ tự nguyện làm lành lánh dữ và giữ các giới cấm tối thiểu của người Phật tử. Sự tu hành theo Phật Giáo thuộc mọi tông phái đều đòi hỏi con người phải có sự đại hùng đại lực, tức là một sức mạnh tinh thần vững chắc và dồi dào.
Về mặt suy luận, tinh thần đại hùng đại lực mà Phật Giáo đòi hỏi nơi con người đưa đến sự tự do tư tưởng. Người theo Phật Giáo chơn chánh không để cho mình bi cột buộc vào bất cứ tín điều hay định kiến nào mà phải tự mình suy nghĩ để tìm chan lý. Trong bộ kinh Anguttara Nikaya tức là Tăng Nhứt Tập, có chép việc Đức Phật dạy ngưdi Kalama không nên nhắm mắt tin theo dư luận, truyền thống, kinh sách hay một bực đạo hạnh cao siêu mà mình nhận làm thầy, mà chỉ nên tin theo cái phải hay cái quấy mà chính tâm trí mình đã nhận thức được. Trong lịch sử nhơn loại, Đức Phật là vị Giáo Tổ duy nhất nhiều lần căn dặn các đệ tử mình không nên tin ngay tất cả những điều Ngài nói mà phải xét kỹ lại những lời nói của Ngài, chừng nào nhận thấy chắc chắn nó có giá trị thì mới tin theo.
2) Chẳng những tự mình theo đúng nguyên tắc tự do tư tưởng, người theo Phật Giáo chơn chánh còn tôn trọng sự tự do tư tưởng của người khác. Đức Phật đã dạy đệ tử phải đối xử với các giáo lý và giáo phái khác một cách khoan dung. Có lần người cầm đầu một môn phái khác sai đệ tử là Upali đến gặp Đức Phật để đấu lý về thuyết luân hồi. Sau khi thảo luận với Ngài, ông Upali thấy Ngài có lý hơn nên xin làm đệ tử của Ngài. Nhưng Đức Phật đã bảo: “Ông phải suy nghĩ cho thật chính đính về lời nói của tôi chớ không nên vội vã”. Khi thấy ông Upali thiết tha nài nĩ, Đức Phật yêu cầu ông đừng bỏ thầy cũ mà trái lại, phải cung kính phụ giúp người thầy này như trước. Câu chuyện này cho thấy rằng Phật Giáo dạy người phải mở rộng tâm hồn trí não để thông cảm với mọi giáo lý khác, vì chơn lý vốn hiện ra muôn mặt và mỗi học thuyết đều có chỗ sở đắc của nó. Người theo Phật Giáo chơn chánh phải phá trừ kiến chấp, tránh sự cuồng tín hẹp hòi.
3) Nhưng sự khoan dung của Phật Giáo không phải đưa đến sự tiêu cực thụ động trước những hành động tàn bạo của kẻ sai quấy. Tinh thần đại hùng đại lực của Phật Giáo chẳng những được dùng trong việc tự chiến thắng lấy mình để tìm chơn lý và theo chánh đạo, mà còn phải được dùng trong việc chế ngự các lực lượng ác hại. Tuy nhiên, trong sự đối phó với những kẻ sai quấy, tinh thần đại hùng đại lực của người theo Phật Giáo cần phải được hòa hợp với tinh thần đại từ bi. Người theo Phật Giáo chơn chánh dầu phải đứng vào thế đối kháng với một kẻ địch hung bạo, vẫn không nuôi lòng thù hận khinh ghét kẻ địch ấy, mà trái lại, có sự xót thương đối với một con người vì mê muội mà đi vào con đường lầm lạc. Thái độ của người theo Phật Giáo chơn chánh đối với kẻ địch chống lại mình cũng giống như thái độ của xã hội dân chủ tự do hiện nay đối với những kẻ phạm tội ác trong lúc điên cuồng. Tuy xã hội này vẫn phải chế tài hành động tội ác của người điên cuồng, nhưng sự chế tài của nó trong trường hợp này không hàm ý báo oán hay trừng phạt mà hàm ý xót thương và nâng đỡ kẻ phạm tội ác.
Vậy, mục đích chánh yếu của người theo Phật Giáo chơn chánh đối với một kẻ địch hung bạo không phải là quyết tâm trừ diệt kẻ địch ấy mà là cố gắng cảm hóa giác ngộ họ để lôi họ về con đường phải, dầu có phải buộc lòng sát hại họ vì công lợi thì cũng không nuôi lòng thù hận đối với họ. Theo giáo lý Phật Giáo, người phạm tội ác đến ngập đầu mà có lòng ăn năn sám hối một cách chơn thành thì phải được tha thứ, và người theo Phật Giáo cần phải cố gắng đưa những kẻ làm ác đến sự ăn năn sám hối chơn thành đó.
Kim Dung đã nêu rõ vấn đề này khi nói đến việc Pháp Đăng Đại Sư, nguyên là Đoàn Nam Đế, đã kiên nhẫn hết mực để lôi Từ Ân Đại Sư, nguyên là Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, về con đường phải. Như chúng tôi đã trình bày trong Mục I, Chuơng I của sách này, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang vốn được Kim Dung dùng để tượng trưng cho Quốc Xã Đức. Việc ông thành thật ăn năn và cuối cùng đã được bà Lưu Anh Cô tha thứ về tội đã sát hại đứa con nhỏ của bà biểu lộ quan niệm của Kim Dung về việc cải hóa những người theo chủ trương hung bạo. Ngoài Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, còn nhiều cao thủ võ lâm khác đã hối cải và qui y Phật Pháp, từ bỏ giấc mộng tranh bá đồ vương, chấm dứt lòng thù hận đối với kẻ địch đã tàn hại mình hay thân thuộc mình và ăn năn sám hối về những hành động tàn ác của mình như Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, Tạ Tốn.
4) Trong tinh thần Phật Giáo, lòng đại từ bi hết sức cần thiết để cân lại sự đại hùng đại lực. Có đại hùng đạ lực mà thiếu đại từ bi thì con người dễ đi đến chỗ dùng sức mạnh của mình để hiếp đáp kẻ khác và do đó mà gây ra nhiều nghiệp chướng. Điều này đã được Kim Dung nói rõ qua lời dạy của vị sư già mặc áo xám trong chùa Thiếu Lâm. Theo vị sư này, chỉ có người có một sở học cao siêu về Phật Giáo và có đức từ bi hưng thạnh thì mới có thể luyện được nhiều môn võ công thượng thặng. Nếu Phật học không đủ mà tham lam luyện nhiều võ cộng thượng thặng thì bị bại hoại thân thể hay bị nội thương.
Người cầm quyền lãnh đạo một dân tộc vốn có nhiều sức mạnh trong tay. Nếu họ dùng sức mạnh đó để mưu đồ mỡ rộng thế lực hay lấn át dân tộc khác thì chẳng khác nào cố sự đại hùng đại lực mà thiếu đại từ bi. Hành động xâm lăng của họ chẳng những có hại cho dân tộc khác mà cuối cùng cũng làm cho chính dân tộc họ cũng bị nhiều hậu quả không tốt. Ngay cả trong trường hợp người lãnh đạo một dân tộc có lý tưởng mà họ cho là cao đẹp nhưng lại dùng sức mạnh mình có trong tay để cưỡng bách dân tộc mình hay dân tộc khác làm theo ý mình đạt cái được cho là lý tưởng cao đẹp đó, họ cũng chỉ gây ra sự khổ sở cho nhơn dân.
Những người cầm quyền chánh trị như trên đây, dầu có những động cơ ích kỷ hay muốn thực hiện một lý tưởng cao đẹp, cũng đều khó có thể hòa thuận với nhau. Chỉ có thái độ cởi mở khoan dung và chánh sách đặt nền tảng trên sự xót thương và cải hóa những kẻ làm ác như Phật Giáo chủ trương mới có thể đưa các nhà lãnh đạo các dân tộc đến sự hòa giải hòa hợp với nhau và xây dựng nền hòa binh chung cho nhơn loại. Bởi đó, khi Tiêu Phong cùng quần hào đương đầu với người Đại Liêu đuổi đánh mình bên ngoài cửa ải Nhạn Môn, họ đã bảo với nhau rằng: Bao giờ các vị đế vương khắp thiên hạ đều tin ở Phật pháp, lấy từ bi làm hoài bão thì mới hết thảm họa chiến tranh.
5) Nhưng ước vọng trên đây dĩ nhiên là khó có thể đạt được. Đó không phải là vì Phật Giáo chưa phổ biến ở khắp cả các nước mà cũng sẽ không thể nào phổ biến ở khắp cả các nước trên thế giới. Thật sự thì theo Phật Giáo, cả chúng sanh đều có Phật tánh và một người dầu chưa nghe đến giáo lý của Đức Phật, chưa hề qui y Đức Phật, chưa tự xem mình là Phật tử mà có tâm tánh và hành động như lời Đức Phật đã dạy thì cũng đã là người theo Phật Pháp rồi. Vậy, cái khó trong việc đạt ước vọng hòa bình cho cả thế giới không phải phát xuất từ chỗ Phật Giáo chưa phổ biến khắp nơi. Nó phát xuất từ chỗ chính người đã qui y Đức Phật, đã thông hiểu giáo lý của Ngài mà vẫn chưa có được tâm tánh và hành động như lời Ngài dạy.
Kim Dung đã biểu lộ sự thật trên đây trong các bộ truyện võ hiệp của ông bằng cách mô tả nhiều nhơn vật trong giới tăng ni. Trong số này, có những cao thủ võ lâm đã hành động trái lời Phật dạy. Các vị Đại Luân Minh Vương, Kim Luân Pháp Vương đã là những vị cao tăng miền Tây Vực, nhưng đã mưu đồ bành trướng thế lực của mình hay của dân tộc mình. Các tăng ni Trung Hoa cũng có nhiều người còn nặng nghiệp tham, sân và si. Thành Khôn đã qui y với pháp danh Viên Chân đã lợi dụng thế lực chùa Thiếu Lâm mà đoạt chức Minh Chủ Võ Lâm và phục vụ người Mông Cổ. Đến một vị cao tăng làm đến Phương Trượng chùa Thiếu Lâm và có đức hạnh đến mức được giới võ lâm Trung Hoa tôn làm Thủ Lãnh Đại Ca là Huyền Từ Đại Sư mà cũng đã lén tư tình với một phụ nữ và đã che giấu chuyện này suốt mấy mươi năm. Phần Diệt Tuyệt Sư Thái thì rất ngay thẳng và nhiệt tình yêu nước, lại rất dũng cảm. Nhưng bà thiếu hẳn đức từ bi nên đã tỏ ra thù hằn những người có liên hệ đến Minh Giáo đến mức chủ trương giết họ cho tận tuyệt. Đã vậy, bà lại còn nuôi giấc mộng làm cho phái Nga Mi của bà trở thành môn phái số một ở Trung Hoa. Do đó, bà đã dạy đệ tử là Châu Chỉ Nhược dùng đến những thủ đoạn bất chánh và tàn độc để đạt mục đích. Đến những người đã đạt một địa vị tôn quí trong hàng giáo phẩm Phật Giáo, lại có nhiều đức tốt và đáng được tôn trọng như Huyền Từ Đại Sư hay Diệt Tuyệt Sư Thái mà còn như vậy thì các nhà lãnh đạo chánh trị các dân tộc mà ít học về Phật pháp hay không biết đến Phật pháp làm sao có thể đủ đức tánh để lãnh đạo chánh trị theo đúng Phật pháp và đưa nhơn loại đến một nền hòa bình vĩnh cửu và ổn định được?
Vậy, giấc mơ của Kim Dung sẽ rất khó thực hiện. Nhưng đó là một giấc mơ đẹp và nếu những người hoạt động chánh trị chấp nhận giấc mơ đó, lại nuôi ý chí thực hiện nó với tinh thần đại hùng đại lực thì ít ra họ cũng đã đi được vài bước trên con đường ngàn dặm đưa đến một nhơn loại an lạc hòa bình. Mặt khác, người cầm quyền chánh trị một nước, dầu theo chủ nghĩa nào mà chịu bỏ thái độ giáo điều và áp dụng một chánh sách cởi mở, khoan dung đối với người khác và đoàn thể khác thì cũng đáng được khen là đã có đóng góp vào việc xây dựng hòa bình chẳng những cho dân tộc mình mà còn cho toàn thể nhơn loại.
Sưu tầm: Sun Ming
Nguồn: http://thaithuyvy.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 11 năm 2014