← Quay lại trang sách

Chương 2 .

Cuối tháng 9, hoạt động quân sự của ta ở miền Nam đã ngừng lại. Sau một thời gian dài liên tục tấn công vào đô thị - chỗ mạnh của địch trong điều kiện chúng đã bố phòng, lực lượng ta bị tiêu hao, bổ sung không kịp, tiếp tế khó khăn, phải rút về củng cố. Sự uy hiếp qua khu phi quân sự cũng không còn nữa. Hơn nữa, ta lại để vùng nông thôn sơ hở kéo dài. Địch liên tiếp phản kích, tăng cường bình định, làm cho vùng giải phóng bị thu hẹp. Rõ ràng phía Việt Nam không còn khả năng giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 nữa. Chính lúc này Mỹ cho rằng “Hà Nội đã chuyển từ chiến trường sang bàn Hội nghị" (L.B.Jonhson. Ma vie de President. Edition Buchet/Chastel Paris, 1972, tr. 619.).

Mặt khác Hà Nội cũng cho rằng Mỹ không thể thắng ở Việt Nam được và phải đi vào con đường chấm dứt chiến tranh để giải quyết những vấn đề trong chiến lược toàn cầu của họ. Nhưng dù phải kết thúc chiến tranh, Mỹ phải bảo vệ quyền lợi của họ cũng như bảo vệ quyền lợi của bọn tay sai và giữ cho miền Nam Việt Nam vẫn trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Đó là điều thống nhất giữa các tập đoàn thống trị Mỹ, giữa Đảng Cộng hoà và Đảng Dân chủ, giữa Humphrey và Nixon. Hà Nội cũng thấy rằng khả năng Humphrey trúng cử còn ít, mà Humphrey thất bại tức là Johnson thất bại, cho nên Johnson phải xuống thang thêm để giúp Humphrey trúng cử và để Johnson được tiếng là "Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ".

Xuất phát từ thực tế chiến trường và nhận định trên, ngày 3 tháng 10, Nguyễn Duy Trinh điện cho đoàn đàm phán của ta ở Paris:

"Trong tình hình hiện nay phương hướng của ta là phải biết kéo Mỹ xuống thang để thắng họ, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị của ta. Ta cần lợi dụng đầy đủ chiều hướng chính sách của Mỹ, lợi dụng mâu thuẫn giữa các tập đoàn thống trị Mỹ, khéo vận dụng sách lược ép Chính quyền Johnson phải xuống thang thêm một bước quan trọng, chấm dứt đánh phá miền Bắc để có thể tìm lối thoát danh dự ra khỏi chiến tranh. ép được Mỹ thực hiện được bước xuống thang này là thắng lợi rất có ý nghĩa chiến lược của ta. Thời gian từ nay đến ngày bầu cử Tổng thống Mỹ là thời cơ thuận lợi để ta ép Mỹ xuống thang”.

Hà Nội chỉ cho Đoàn, 4 điểm đấu tranh trong nói chuyện với đối phương:

1. Phía Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tuyên bố lên điều đó.

2 - Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấm dứt bắn pháo qua khu phi quân sự, tôn trọng khu phi quân sự.

3 - Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho rằng có thể họp một Hội nghị bốn bên để bàn về giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam, nhưng chính quyền Sài Gòn phải công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng, phải công nhận đường lối hoà bình trung lập, phải có thái độ tích cực đối với việc thành lập Chính phủ liên hiệp và phải có thiện chí.

4 - Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tiếp tục bàn với Mỹ về những vấn đề mà mỗi bên đã hoặc sẽ nêu lên. Trong lập trường này có vấn đề về nguyên tắc, có vấn đề về sách lược, có vấn đề lâu dài có thể để lại giai đoạn hai của cuộc nói chuyện, có yêu cầu đúng mức nhưng cũng có đòi hỏi quá cao, và có điểm đã lạc hậu so với diễn biến của cuộc hoà đàm. Vì vậy theo đề nghị của đoàn ta ở Paris, ngày 8 tháng 10, Hà Nội đồng ý để đoàn tuỳ tình hình mà đưa ra, nếu có điều gì chưa cần thì có thể chưa đưa ra, nhưng khẳng định bốn điểm sách lược trên là đúng mức.

Hà Nội mở đường

Cuộc gặp riêng, ngày 11 tháng 10 diễn ra tại nhà riêng của đoàn Mỹ ở phố Touraine, thị trấn Sceaux. Đây là một nhà nhỏ, ở một nơi vắng vẻ yên tĩnh, khách có thể từ trên ô tô bước xuống là vào thẳng trong nhà không ai trông thấy. Chỉ có một điều là không có buồng riêng nên lúc giải lao cũng như lúc hội đàm đều ở cả trong một phòng.

Bắt đầu cuộc gặp gỡ, hai bên trao đổi qua về bài diễn văn hôm qua của Tổng thống Johnson vận động tranh cử cho Humphrey. Sau đó Cố vấn Lê Đức Thọ đi vào thực chất của vấn đề:

- Bây giờ tôi muốn hỏi hai câu:

1- Có phải các ông yêu cầu cho Chính quyền Sài Gòn là một bên tham gia đàm phán và sau khi các ông đã biết rõ trả lời của chúng tôi đối với yêu cầu này thì các ông có chấm dứt ném bom không?

2- Có phải các ông biết trước được như vậy thì như thế chỉ để có lý do để chấm dứt ném bom chứ không phải là điều kiện có đi có lại cho việc chấm dứt ném bom?

Phía Mỹ cảm thấy có điều gì mới rất quan trọng mà họ chờ đợi từ lâu nên yêu cầu nhắc lại. Nghe xong, Harriman không giấu nổi sự vui mừng hiện trên nét mặt ông, nhưng nhường lời cho C Vance trả lời vì ông này vừa về Washington và đã gặp ông chủ Nhà Trắng. C.Vance trả lời câu thứ hai trước, khẳng định rằng đây không phải là điều kiện, không phải yêu cầu có đi có lại mà chỉ là định nghĩa chữ "nói chuyện nghiêm chỉnh" thôi.

Harriman quay lại hỏi Phó đoàn của mình:

- Ông đã được xác định điều này ở Washington chưa?

C.Vance trả lời xác nhận rồi và tiếp:

- Còn về câu hỏi một, chúng tôi phải báo cáo về cho Tổng thống và Chính phủ chúng tôi.

Rồi ông ta nhắc lại lần nữa rằng Hoa Kỳ không coi việc Chính quyền Sài Gòn tham gia đàm phán là điều kiện để chấm dứt ném bom, mà chỉ là để mô tả tình hình làm cho cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh có thể tiến hành được và làm cho việc chấm dứt ném bom có thể tiếp tục được.

Cả Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ đều ghi nhận lời tuyên bố trên của Mỹ về chấm dứt ném bom không điều kiện. Ông Thọ nói thêm:

- Nhưng chúng tôi muốn biết là giả sử như chúng tôi tán thành cho Chính quyền Sài Gòn là một bên tham gia đàm phán nhưng rồi các ông không chấm dứt ném bom thì sao? Ví dụ chúng tôi đồng ý thì các ông có chấm dứt ném bom không?

Harriman:

- Tôi chưa được phép trả lời câu đó... Tôi cũng công nhận quan điểm của các ông là không có nói chuyện nghiêm chỉnh nếu không chấm dứt ném bom.

Cuộc gặp kéo dài độ một tiếng đồng hồ, Harriman cho rằng lời tuyên bố của ông Thọ là rất bổ ích và đưa món trứng cá ra mời khách nói rằng món này là của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Côxưghin tặng ông.

Một chỉ thị quá khó khăn với Lê Đức Thọ

Suốt buổi chiều hôm đó và cả ngày hôm sau, tất cả các cán bộ trong đoàn đàm phán của ta ở Paris đều phải làm việc vất vả, nhưng tỏ ra vui vẻ thoải mái hơn mọi ngày. Ai cũng thấy rằng triển vọng đàm phán trong giai đoạn đầu đã rõ ràng và rất hứa hẹn. Tuy phía ta chỉ nêu ra câu hỏi, mới dùng các ngôn từ giả sử... ví dụ... nhưng không riêng gì phía Mỹ và tất cả mọi người ngồi nghe đều thấy rõ là phía ta đã chấp nhận yêu cầu của đối phương. Vấn đề còn lại là thảo luận việc Mỹ chấm dứt ném bom vào lúc nào, Hội nghị bốn bên họp lúc nào và các thể thức liên quan đến vấn đề này.

Bỗng chiều 13 tháng 10, Cố vấn Lê Đức Thọ nhận được chỉ thị của Hà Nội với nội dung:

1- Nếu Mỹ chấm dứt ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì Việt Nam đồng ý họp Hội nghị bốn bên, nhưng Mỹ phải nói chuyện với Mặt trận và Chính quyền Sài Gòn phải thay đổi chính sách. Như vậy mới có Hội nghị bốn bên được. Vì vấn đề xâm lược và chống xâm lược ở miền Nam trước hết là giữa Mỹ và Mặt trận. Mỹ phải nói chuyện với Mặt trận và Mặt trận đồng ý họp Hội nghị thì mới có Hội nghị bốn bên được.

2 - Thời gian họp Hội nghị bốn bên phụ thuộc vào việc Mỹ bàn với Mặt trận.

Đoàn Hà Nội chưa nên bàn với Mỹ về thời gian”.

Nhận được chỉ thị, Lê Đức Thọ suy nghĩ rất nhiều. Ông đi đi lại lại trong phòng. Bộ trưởng Xuân Thuỷ và các thành viên trong đoàn từ buổi chiều đã họp để thảo luận việc thi hành chỉ thị này. Đòi Mỹ nói chuyện với Mặt trận, đòi Chính quyền Sài Gòn phải thay đổi chính sách trước khi họp Hội nghị bốn bên là quá cao, không thực hiện được... và có nguy cơ làm tan vỡ Hội nghị. Nhiều người nêu lên câu hỏi: Không hiểu ở nhà căn cứ vào yếu tố nào mà đề ra chủ trương đó. Ta cần đề cao vai trò và vị trí của Mặt trận, nhưng trong điều kiện còn trên nửa triệu quân Mỹ cùng với bảy trăm nghìn quân Nguỵ và hệ thống Chính quyền địch kiểm soát phần lớn miền Nam thì chủ trương đó rõ ràng không phản ánh tương quan lực lượng trên chiến trường. Ngay cả nguỵ quyền Sài Gòn cũng không chịu nói chuyện với Mặt trận nữa là Mỹ! Đòi Mỹ nói chuyện với Mặt trận như một điều kiện không có không được, rõ ràng là không thực tế. Và cứ theo chỉ thị trên thì sẽ không lợi dụng được thời cơ như chỉ thị trước, mà còn dồn đối phương vào đường cùng có thể chúng phải liều lĩnh.

Suốt trong đêm đó đoàn họp rất căng thẳng. Tất cả anh em đều rất băn khoăn... Làm thế nào... thời gian không còn bao lâu nữa. Nhiều ý kiến đề xuất cách giải quyết. Cần báo cáo hoả tốc về Hà Nội vì rõ ràng Hà Nội chưa có đủ thông tin. Nhưng làm sao có thể nói hết được tình hình. Ông đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này. Và cuối cùng, Lê Đức Thọ đã quyết định về ngay Hà Nội. Còn kịp!

Tất cả anh em được huy động để thu xếp cho ông về gấp. Sứ quán Việt Nam ở Matxcơva và Bắc Kinh được điện tìm cách dành chỗ cho Lê Đức Thọ vào chuyến máy bay gần nhất.

Sáng 14 ông Thọ cấp tốc rời Paris. Tới Bắc Kinh, đã có một chuyên cơ chờ ông. Ngày 16 đã về tới Hà Nội. Đó là chuyến đi nhanh nhất của Cố vấn Lê Đức Thọ từ Paris về Hà Nội suốt trong thời gian đàm phán ở Paris.

Ngày chấm dứt ném bom và ngày bắt đầu nói chuyện

Tối 15 tháng 10, hai đoàn Việt Nam và Mỹ lại gặp riêng ở đường Touraine. Thấy vắng Lê Đức Thọ, Harriman hỏi:

- Hình như hôm nay ông Thọ đi gặp ông Côxưghin?

Xuân Thuỷ trả lời:

- Phải

Harriman đọc chỉ thị của Washington để trả lời cho phía Việt Nam:

"Quan điểm của chúng tôi là việc chấm dứt ném bom không điều kiện sẽ chỉ được thực hiện và duy trì khi có các "cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh" và “hoàn cảnh" cần phải được duy trì cùng với cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh. Câu trả lời của chúng tôi nêu ra là tuỳ thuộc vào trả lời của các ông về vấn đề đại diện đó. Chúng tôi sẵn sàng ra lệnh chấm dứt ném bom và mọi hành động khác liên quan đến việc dùng vũ lực trên toàn lãnh thổ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nếu các ông đồng ý bắt đầu cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh ngày hôm sau, sau khi Hoa Kỳ chấm dứt ném bom và trong những cuộc thảo luận đó, đại diện Chính phủ Việt Nam Cộng hoà sẽ tham gia bên phía chúng tôi”.

Tuyên bố này còn được bổ sung bằng một đoạn viết tay như

“Nếu các ông trả lời đồng ý về việc tham gia của đại diện của Chính phủ Nam Việt Nam thì chúng tôi có thể nói với ông rằng lệnh chấm dứt ném bom sẽ được ban hành một, hai ngày sau đó. Chúng tôi sẽ liên hệ để nói cho ông biết thời giở chính xác. Chúng tôi hy vọng là chiều mai (15 tháng 10)”.

Sau khi nhắc lại rằng hôm trước Hoa Kỳ đã tuyên bố việc chấm dứt ném bom là không có đi có lại, Xuân Thuỷ cũng đọc một tuyên bố viết sẵn:

“Nếu Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì sau khi Hoa Kỳ làm việc đó chúng tôi đồng ý sẽ có đàm phán bốn bên, trong đó có đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đại diện Chính phủ Hoa Kỳ, đại diện Chính quyền Sài Gòn, để bàn một giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam".

Bộ trưởng nhấn mạnh thêm:

"Hoa Kỳ phải nói chuyện với Mặt trận, và Chính quyền Sài Gòn phải thay đổi chính sách, phải tỏ ra thực sự muốn hoà bình, công nhận Mặt trận, công nhận miền Nam trung lập, nhận lập Chính phủ liên hiệp".

Cách nêu của Xuân Thuỷ cho thấy đây không phải là một điều kiện, mà chỉ là một yêu cầu.

Im lặng một phút. Harriman từ vui vẻ tỏ ra lưỡng lự. Ông ấy cho rằng phía Việt Nam đưa ra điều kiện mới là đòi họp bốn bên. Hai bên tranh luận về vấn đề này. Xuân Thuỷ nói có đại diện bốn bên thì gọi là Hội nghị bốn bên. Còn Harriman thì vẫn giữ ý kiến là họp hai bên, phía Mỹ có đại diện Chính quyền Sài Gòn, phía Việt Nam cho Mặt trận tham gia. Và điều đó sẽ xảy ra ngay hôm sau khi chấm dứt ném bom.

Xuân Thuỷ lại hỏi:

- Bao giờ các ông chấm dứt ném bom, ngày mai hay ngày kia?

Harriman:

- Tôi chưa thể bảo đảm chính xác được. Có thể là khoảng hai mươi tư giờ tới.

Về ngày họp, Harriman đòi họp ngay hôm sau vì ông cho việc đó sẽ gây ấn tượng sâu sắc với Johnson. Ở đây có một sự hiểu lầm của Mỹ về một tuyên bố của Xuân Thuỷ trước đây nói rằng: ngay sau khi chấm dứt ném bom thì Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ bàn các vấn đề có liên quan chứ không phải là họp ngay Hội nghị bốn bên. Sau khi nhắc lại như vậy, Xuân Thuỷ cho rằng việc Mỹ đòi họp Hội nghị bốn bên ngay hôm sau là một điều kiện mới.

Sự hiểu lầm này cũng nhanh chóng được giải quyết. Mỹ muốn biết thời gian nào họp Hội nghị mở rộng. Theo Harriman thì càng nhanh càng tốt, và trong buổi đầu, hai thành viên mới này chưa cần có một đoàn Đại biểu đầy đủ mà mỗi bên có một người đại diện cũng được. Chính quyền Sài Gòn đã có đại sứ ở Paris, còn Mặt trận nếu đại diện (phòng thông tin - Tác giả) ở Paris không đủ thẩm quyền thì đã có đại sứ ở một số nước châu Âu có thể đến ngay Paris được và như vậy là đủ rồi, là đã tượng trưng cho sự tiến bộ rồi. Ông tin là đại diện Chính quyền Sài Gòn sẽ đến họp Hội nghị mở rộng một cách nhanh chóng.

Còn phía Việt Nam thì đòi Mỹ cho biết ngày chấm dứt ném bom. Đoàn cần phải báo cáo về Hà Nội để Hà Nội liên hệ với Mặt trận. Phía Việt Nam cần có thời gian, nhưng cũng cho Mỹ biết là yêu cầu của họ sẽ được đáp ứng. Cuộc thảo luận về khoảng cách và tên gọi của hai việc chấm dứt ném bom và Hội nghị mở rộng, không giải quyết được. Hai bên thống nhất sẽ xin chỉ thị của Chính phủ mình.

Hôm sau, trong giờ giải lao phiên họp công khai thứ 26, Harriman trao cho Việt Nam trả lời, trong đó có đoạn:

“Khi nào ngài cho chúng tôi biết ngày có thể bắt đầu cuộc nói chuyện với sự có mặt của Chính phủ Việt Nam (tức Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) và của Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì chúng tôi sẽ chấm dứt ném bom hôm trước ngày đó”.

Ông nhắc lại rằng Hoa Kỳ thấy không nên để chậm và yêu cầu họp càng sớm càng tốt với đại diện tạm thời của Chính quyền Sài Gòn và Mặt trận cũng được.

Tối hôm sau, 17 tháng 10, trong một cuộc họp ngắn tại nhà riêng đoàn Mỹ, vẫn ở phố Touraine, Harriman nói rằng ông ta đã giải thích lại sự hiểu lầm vừa qua cho Washington, thì bây giờ ngày họp chính xác sau khi chấm dứt ném bom cũng không cứng nhắc như đã nói... “Nếu như các ông cho tôi biết ngày nhất định của cuộc họp sau khi chấm dứt ném bom thì Tổng thống chúng tôi sẽ cho lệnh chấm dứt ném bom hai, ba ngày trước đó”.

Xuân Thuỷ hứa báo cáo ngay về Hà Nội.

Trở lại việc Lê Đức Thọ về Hà Nội. Trong các ngày 17, 18 và 19 tháng 10, các nhà lãnh đạo ở Hà Nội đã liên tục họp để nghe báo cáo và bàn bạc về tình hình đàm phán. Và chỉ thị gửi cho đoàn ở Paris ngày 20 tháng 10 như sau:

1 - Tranh thủ buộc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Nếu Mỹ chịu chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác thì sẽ họp Hội nghị bốn bên, đối với các hành động chiến tranh khác gồm hoạt động liên quan đến việc dùng vũ lực, trinh sát, rải truyền đơn, thả hàng tâm lý chiến... nếu Mỹ chưa chịu thì sau này sẽ tiếp tục đấu tranh.

2 - Vấn đề đòi Mỹ nói chuyện với Mặt trận và đòi Sài Gòn thay đổi chính sách không phải là điều kiện bắt buộc Mỹ phải chấp nhận trước, sau này vào Hội nghị bốn bên ta sẽ tiếp tục đấu tranh.

3 - Về thời gian triệu tập Hội nghị trù bị bốn bên, ta chủ trương từ bảy đến mười ngày, nhưng khi ra đàm phán cần đi từng bước để Mỹ khỏi hiểu là ta chấp nhận dễ dàng. Có thể lúc đầu nêu càng sớm càng tốt, sau nêu mười lăm ngày, cuối cùng mới đưa ra thời gian nói trên.

4 - Về hình thức thoả thuận, dự kiến hai khả năng:

- Cố gắng đấu tranh để hai bên ra một thông cáo chung.

- Nếu Mỹ không chịu, ta ra tuyên bố riêng".

Ngày 26 tháng 10: cởi nút

Ngày 21 tháng 10, tại một địa điểm mới, nhà riêng của đoàn ta ở Le Vesinet, ngoại ô Paris, Xuân Thuỷ báo cho Harriman biết;

“Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau khi đã trao đổi ý kiến với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng đồng ý rằng sau khi Hoa Kỳ chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ có cuộc Hội nghị bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà, nhằm tìm một giải pháp chính trị đúng đắn cho vấn đề Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Muốn cho Hội nghị đó tiến hành được tốt, đại diện bốn bên cần họp trù bị càng sớm càng tốt".

Bộ trưởng cũng đưa ra một dự thảo thông cáo chung về sự thoả thuận giữa hai bên trong vấn đề này. Một phút im lặng rồi đoàn Mỹ xin nghỉ mười phút. Trở lại phòng họp, Harriman trịnh trọng nói với một giọng không vui:

- “Ông (Xuân Thuỷ) đã nêu lên một số vấn đề trong những ngày muộn mằn như thế này và chỗ đó là một điều không khôn ngoan”.

Cuộc tranh luận kéo dài gần bốn tiếng đồng hồ chung quanh các vấn đề:

Chấm dứt ném bom: Mỹ nhắc lại rằng việc chấm dứt đó là không có điều kiện (Without

condition), còn ta nói là việc chấm dứt là không điều kiện (unconditionau).

Phía Mỹ và cả phiên dịch của ta cũng nói là hai chữ đó nghĩa giống nhau - nhưng Mỹ vẫn giữ ý của họ.

Về tên gọi Hội nghị mở rộng: Phía Mỹ vẫn nói rằng đó vẫn là Hội nghị hai phía, phía chúng tôi và phía các ông. Phía Mỹ có hai đoàn Đại biểu, một của Mỹ, một của Chính quyền Nam Việt Nam, nhưng Nam Việt Nam không phải là một bộ phận của đoàn Mỹ. Còn phía Việt Nam tổ chức thế nào là tùy Việt Nam.

Xuân Thuỷ nói:

- Chúng ta cứ gọi theo thực tế. Có bốn đoàn thì gọi là Hội nghị bốn đoàn. Phía Mỹ không phản đối nhưng cũng không thoả thuận. Rốt cục, Mỹ nói theo cách Mỹ, Việt Nam nói theo cách Việt Nam.

Về ngày họp: Lúc đầu Xuân Thuỷ nói chưa định ngày cụ thế được còn chờ ý kiến Mặt trận, sau nói ít nhất vài tuần sau khi chấm dứt ném bom. Harriman muốn biết ngày cụ thể cho phiên họp đầu tiên. Ông lại đề nghị mời đại diện Mặt trận ở châu Âu sang để có thể bắt đầu sớm, hai hoặc ba ngày sau chấm dứt ném bom. Mỹ không muốn có họp trù bị như ta đề nghị mà đi ngay vào bàn các vấn đề thực chất.

Về thông cáo chung: Xuân Thuỷ nói rằng để tránh những cách hiểu khác nhau nên cần có thông cáo chung và thủ tục quốc tế cũng vậy. Phía Mỹ không đồng ý vì như vậy sẽ mất thời gian bàn cãi về câu chữ. Harriman nêu ra bốn hình thức để suy nghĩ:

- Mỗi bên cứ hành động theo như mình hiểu.

- Hai là ra thông cáo chung.

- Ba là mỗi bên cho bên kia xem nội dung những điều mà mình sẽ công bố

- Bốn là sẽ có một biên bản mà hai bên đều thoả thuận nhưng không công bố.

Phía Mỹ ngả về cách cuối cùng này.

Cuộc thảo luận hôm đó chưa giải quyết được. Găng nhất là hai vấn đề: Ngày chấm dứt

ném bom và ngày họp phiên đầu tiên giai đoạn hai.

Ngày 24 tháng 10, Harriman gợi ý là ngày họp đầu tiên sau khi chấm dứt ném bom là ngày 2 tháng 11. Trong trường hợp đó phía Mỹ sẽ chấm dứt ném bom trước đó hai hoặc ba ngày tức là 31 hoặc 30 tháng 10. Ông cũng đề nghị khi công bố việc chấm dứt ném bom thì công bố cả ngày họp phiên đầu tiên của Hội nghị có bốn đoàn.

Xuân Thuỷ cứ đòi chấm dứt ném bom sớm.

- Các ông muốn họp sớm thì chấm dứt sớm. Nếu chỉ chấm dứt ném bom trước hôm họp có hai, ba ngày thì không đủ để cho Mặt trận thu xếp và không đủ để cho nhân dân Việt Nam tin rằng các ông đã chấm dứt ném bom thật sự hay chỉ vì thời tiết xấu.

Harriman cho rằng điều Xuân Thuỷ nói đó là quan trọng chẳng khác gì khi người ta nói "mua lợn khi lợn còn để trong bị".

Xuân Thuỷ đưa ra đề nghị khoảng cách mười ngày từ lúc chấm dứt ném bom đến ngày họp phiên đầu tiên giai đoạn hai.

Ngày 26 tháng 10, hai bên tiếp tục thảo luận về vấn đề trên dựa theo dự thảo một biên bản chung để hai bên sẽ ký. Dự thảo này do phía Mỹ chuẩn bị và thoả thuận được điểm thứ hai về tính chất Hội nghị. Còn lại là vấn đề khoảng cách. Xuân Thuỷ hạ mức từ mười ngày xuống còn tám ngày, và nói với Harriman:

- Nếu ngài chỉ muốn chấm dứt ném bom vào 30 thì ngày 6 hay 7 (tháng 11) mới họp được.

Harriman nói rằng đây không phải vấn đề mặc cả... buôn bán, thêm bớt với chúng tôi một vài giờ. Đây là đứng trước thực tế những vấn đề Tổng thống chúng tôi phải đối phó.

Cuối cùng Xuân Thuỷ nói:

- Nếu ngày 2 tháng 11 các ông muốn họp phiên đầu tiên thì ngày 27 tháng 10 các ông phải chấm dứt ném bom đi. Như vậy chỉ còn năm ngày thôi.

Đoàn Mỹ ngồi tính. Harriman đếm trên đầu ngón tay từ 27 tháng 10 đến 2 tháng 11, rồi nói: Là sáu ngày chứ.

Xuân Thuỷ:

- Ngài tính cả ngày đó nữa à?

Và mọi người cùng cười, trừ Harriman.

Harriman:

- Như thế là ngài muốn nói năm ngày trước ngày họp?

Xuân Thuỷ:

- Đúng thế.

Kết thúc buổi họp, vị trưởng đoàn Mỹ vẫn nằn nì về việc họp bốn đoàn hai, ba ngày sau khi chấm dứt ném bom.

Cuối cùng hai bên thoả thuận được biên bản chung như sau:

1. Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi cuộc oanh tạc bằng không quân, hải quân, pháo binh và mọi hành động khác liên quan tới việc dùng vũ lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu từ... giờ, giờ GMT ngày... tháng 10 năm 1968.

2. Một cuộc họp để tìm một giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam sẽ được tiến hành ở Paris ngày...

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nói rằng sẽ có mặt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; Hoa Kỳ đã nói rằng sẽ có mặt của Việt Nam Cộng hoà.

Do đó cuộc họp sẽ gồm có Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà.

Phía Mỹ vui mừng thấy ta nhận không ghi chữ "không điều kiện" và “mọi hành động chiến tranh khác".

Về việc ký biên bản, C.Vance nói rằng Harriman và cả ông ta nữa sẽ thay mặt Chính phủ Mỹ ký; Phía ta, Bộ trưởng Xuân Thuỷ

Harriman hứa sẽ báo cho ta rất sớm ngày Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc.

Thiệu chống Johnson

Trong hồi ký L.B.Johnson viết: "Khi chúng ta đạt được sự sắp xếp với Hà Nội thì sự hoà hợp với Tổng thống Thiệu lại tan vỡ” (L.B.Johnson. sđd, tr. 621.)

Suốt trong quá trình hội đàm ở Paris với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Washington đều thông báo cho Sài Gòn nội dung và diễn biến các cuộc nói chuyện. Mọi người đều thấy giữa Washington và Sài Gòn từ lâu đã có nhiều mâu thuẫn. Tháng 7 năm đó, Johnson và Thiệu đã gặp nhau ở Honolulu để bàn bạc và dàn xếp.

“Những người Nam Việt Nam (tức Thiệu) đã chấp nhận lập trường của chúng ta đến giữa tháng 10 và sau đó nữa” (L.B.Johnson. Maviede Président. sđd, tr. 621.).

Ngày 28 tháng 10, Thiệu còn nói với đại sứ Mỹ ở Sài Gòn rằng "không thể đòi hỏi hơn được nữa”. Nhưng hôm sau Thiệu đòi thêm thời gian và bảo đảm để họ có thể nói chuyện với Hà Nội chứ không phải với Mặt trận Dân tộc Giải phóng”.

“Hai đòi hỏi đó là không thực tế. Người Nam Việt Nam biết rằng chúng ta phải tuyên bố (về chấm dứt ném bom - tác giả) vào lúc 20 giờ ngày 31 tháng 10. Sau 19 giờ Bunker báo cho chúng ta rằng Thiệu còn đòi thêm hai điều kiện sửa đổi nữa. Chúng ta buộc phải đi một mình”.

Ai cũng biết rằng tập đoàn Thiệu - Kỳ không thể tiếp tục chiến tranh nếu mất sự chi viện tinh thần, chính trị và vật chất của Mỹ. Tại sao họ lại dám đi ngược lại chủ trương chấm dứt ném bom của Johnson? Là những người thực dụng, quen với những thủ đoạn lật lọng trong bầu cử, họ không phải không hiểu thế của Đảng Dân chủ trong năm bầu cử đã giảm sút sau Tết Mậu Thân, và họ tính toán đến người sẽ thay thế Tổng thống Johnson.

Ngay sau ngày 10 tháng 10 năm 1968, sau khi ông Lê Đức Thọ và ông Xuân Thuỷ tuyên bố không phản đối Sài Gòn tham gia các cuộc đàm phán hoà bình, ở cả Sài Gòn và Washington các Cố vấn quân sự và dân sự của Johnson đều thống nhất thúc giục phải nhanh chóng nắm lấy cơ hội này. Trong một bức thư bạn đọc đăng trên New York Times ngày 13 tháng 6 năm 1991, William Bundy, với tư cách trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á - Thái Bình Dương từ 1964 - 1969, Tổng biên tập tờ Foreign Affairs từ 1972 - 1974, đã tham gia các sự kiện hồi tháng 10 năm 1968, cho biết Tổng thống Johnson đã thông báo cho ba ứng cử viên Tổng thống là Nixon, Humphrey và Wallace biết thoả thuận mới về sự tham gia của Chính quyền Sài Gòn; Nixon

khẳng định lại sự ủng hộ của ông ta đối với một thoả thuận trên cơ sở đó.

Clark Clifford, cựu Bộ trưởng Quốc phòng của Johnson, cho biết Tổng thống đã biết qua nhiều bức điện của sứ quán miền Nam Việt Nam, đặc biệt là bức điện ngày 27 tháng 10, rằng bà An na Chennault - người Mỹ gốc Trung Quốc ủng hộ Nixon và quen biết Thiệu - đã chuyển qua Bùi Diễm, đại sứ của Thiệu, những bức thông điệp rõ ràng "có thẩm quyền của Đảng Cộng hoà" thúc giục Thiệu từ bỏ hoặc làm què quặt thoả thuận giữa Washington và Hà Nội bằng cách từ chối không tham gia.

Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã theo dõi bà Chennault và khẳng định các hoạt động của bà ta. Rõ ràng tính toán của Thiệu - Kỳ là đánh canh bạc phút chót để Nixon thắng cử. Họ không muốn cho Humphrey thắng lợi. Johnson viết: "Tôi có đầy đủ lý do để nghĩ rằng người ta đã yêu cầu họ hoãn việc tham gia vào cuộc nói chuyện ở Paris và người ta đã hứa với họ rằng họ sẽ đạt được nhiều điều kiện tốt hơn dưới Chính quyền Nixon” (B.Jonhson. Maviede Président, tr. 622, 624 )

Ở Paris, đoàn Mỹ mừng đã đạt được thoả thuận với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng rất lúng túng trước thái độ của Thiệu-Kỳ.

Đêm 29 tháng 10, Johnson phải gọi cấp tốc tướng Abrams về để tham dự cuộc họp bất thường với các Cố vấn thân cận của Nhà Trắng lúc hơn hai giờ sáng. Tại Paris, Cyrus Vance đã phải hoãn cuộc họp với Hà Văn Lâu hai lần - lúc đầu dự định vào mười sáu giờ, sau hoãn đến mười tám giờ, rồi đến hai mươi giờ. Đây là một cuộc họp khổ sở cho ông ta. Vừa bước vào phòng họp, ông ta đã yêu cầu Negroponte, thư ký, báo ngay số điện thoại nơi họp về sứ quán Mỹ. Ông tỏ ý tiếc phải hoãn cuộc họp và nói: "Tôi biết các ông bận mà chúng tôi cũng bận", rồi ngồi im đợi ta nói.

Hà Văn Lâu hỏi:

- Ngài đã có tin gì chưa?

C. Vance:

- Có, lần trước khi về chúng tôi đã điện ngay cho Chính phủ chúng tôi. Nhưng ông rõ. Mỗi bên chúng ta đều có chuyện phức tạp phải giải quyết. Chúng tôi có nhiều yếu tố phải giải quyết, nhiều sự trao đổi phải làm. Thời gian lại chênh nhau nhiều. Hôm nay tôi đang chờ chỉ thị.

- Nghĩa là bây giờ ông chưa có tin?

- Vâng - C.Vance đáp rồi ngồi im.

- Còn quá ít thời giờ - Hà Văn Lâu nhận xét.

- Vâng, tôi hiểu - Đại sứ Vance đáp rồi lại im lặng.

Khi hỏi về việc ký biên bản, C.Vance nói ông hy vọng sẽ được tin vào đêm khuya nay - hoặc sáng sớm mai. Tôi không dám bảo đảm.

Rồi lại im lặng. Habib ngồi bên cạnh nhắc C.Vance cáo từ ra về Nhưng ông này hình như không nghe thấy gì.

- Vậy lúc nào thì ông có tin? - Hà Văn Lâu hỏi.

- Tôi không thể nào nói chính xác được - C.Vance ngừng lại - Washington đang làm việc rất khẩn trương - Rồi ngồi im.

Lần thứ hai Habib nhắc ông ra về. Ông ta vẫn ngồi đó.

- Nếu ông thấy khó khăn thì ông cho chúng tôi biết - ông Lâu nói.

C.Vance ấp úng:

- Tôi hy vọng đêm nay hoặc sáng mai.

Cả Hà Văn Lâu và Nguyễn Minh Vỹ đều nói:

- Nếu các ông thật có khó khăn thì cứ cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ chiếu cố.

C.Vance và Habib cám ơn rơi rít và nói đó sẽ là một thoả thuận quân tử.

Hai mươi ba giờ, phía Mỹ xin gặp lại ta. Nửa giờ sau, Habib đến báo cho Hà Văn Lâu biết là Mỹ không thể chấm dứt ném bom vào 00 giờ giờ GMT ngày 30 tháng 10 được, và hôm sau cứ họp ở Kléber như thường lệ.

Mặc kệ Thiệu!

Thất vọng quá đáng (L.B.Jonhson: Maviede Président. Sđd, tr 626.) vì sự lần khân của Thiệu, Johnson không đợi được nữa. Nửa đêm 30 tháng 10 năm 1968, đoàn Mỹ xin gặp ta. Hơn nửa giờ sau, Harriman, C.Vance, Habib cùng những người giúp việc kéo đến nơi ở của đoàn ta, nhà số 11 phố Darthé, vùng Choisy le Roi. Cuộc họp bắt đầu hồi 1 giờ 35 và kết thúc sau đó một giờ.

Harriman đọc:

"Tôi được phép tuyên bố với ngài rằng Tổng thống sắp sửa ra những mệnh lệnh vào buổi tối ngày 31 tháng 10, tức là 7 giờ hoặc 8 giờ, giờ Washington, theo giờ GMT là 24 giở GMT ngày 31 tháng 10, hoặc 01 giờ sáng ngày 1 tháng 11 để chấm dứt mọi cuộc oanh tạc bằng không quân, hải quân và pháo binh và mọi hành động khác liên quan đến việc dùng vũ lực chống toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Những mệnh lệnh đó sẽ hoàn toàn có hiệu lực 12 giờ sau đó.

Tống thống sẽ có một công bố về hành động này vào khoảng khi những mệnh lệnh này được ban hành...

Cuộc họp như đã thoả thuận sẽ không tiến hành trước ngày 6 tháng 11 năm 1968.

Hành động này được tiến hành trên cơ sở các cuộc nói chuyện chúng ta đã có, có tính đến những điều các ông đã nói và những điều chúng tôi đã nói”.

Đoàn Việt Nam hội ý. Khi trở lại họp, Bộ trưởng Xuân Thuỷ đọc một bản chuẩn bị sẵn, tóm tắt công việc từ 6 tháng nay, nhấn mạnh rằng phía Việt Nam luôn đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và qua tuyên bố của Harriman, phía Việt Nam hiểu như vậy là không điều kiện.

“Các ngài đã nói thực chất không có một điều kiện có đi có lại nào và còn nói trong tất cả các tuyên bố của Hoa Kỳ không một chỗ nào có chữ “có điều kiện”. Như vậy chúng tôi khẳng định là Hoa Kỳ chấm dứt ném bom không điều kiện”.

Bộ trưởng còn phê phán thái độ kéo dài của Mỹ, không nhất quán trong việc làm biên bản, nói khác, viết khác, làm khác. Xuân Thuỷ tuyên bố không cần ký biên bản thoả thuận, đồng ý họp bốn bên không trước ngày 6 tháng 11 năm 1968 và đòi Mỹ phải thực hiện đúng những điều đã thoả thuận.

Xuân Thuỷ cũng chấp nhận yêu cầu giữ bí mật của Mỹ cho đến khi Johnson đọc diễn văn. Hai bên cùng trao đổi việc báo cho chủ nhà Pháp biết.

Hôm đó, chưa phải là buổi chia tay, nhưng Harriman cũng đã tặng Xuân Thuỷ quyển sách nhan đề "Nhân quyền" do ông ta viết, trong đó có trích dẫn một số thơ và lời đề tặng "Kính tặng Bộ trưởng Xuân Thuỷ, nhà thơ, Paris, ngày 31 tháng 10 năm 1968".

Mọi người đều vui vẻ.

Ngày 31 tháng 10, Johnson vẫn đợi, tuy không nhiều hy vọng, rằng Sài Gòn sẽ cùng tham gia với Mỹ vào bản tuyên bố chung. Nhưng Thiệu vẫn đưa ra những đòi hỏi quá đáng. Cuối cùng, đến 20 giờ ông ta đành phải đọc diễn văn về chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam.

Johnson hy vọng rằng con chủ bài này sẽ nâng cao hình ảnh của ông ta và uy tín của ứng cử viên Humphrey. Điều đó đúng. Nhưng đã quá muộn.

Ngày 6 tháng 11, Nixon, ứng cử viên Đảng Cộng hoà, đã trúng cử Tổng thống Mỹ, với 43,3% tổng số phiếu, còn Humphrey chỉ thua sát nút ông ta, 42,7%, kém Nixon 500.000 phiếu (0,6%).

Nếu như Johnson chấm dứt ném bom miền Bắc sớm hơn năm, bảy ngày thì có lẽ tình hình đã khác.

Đến đây kết thúc một giai đoạn của cuộc đàm phán Việt - Mỹ.