PHẦN BA ĐÀO THOÁT VÀO SIÊU KHÔNG GIAN CHƯƠNG MƯỜI KẾT THÚC CỦA VẠN VẬT
[Xem xét] quan điểm hiện nay được phần lớn các nhà vật lý duy trì, cụ thể là Mặt Trời với tất cả các hành tinh theo thời gian sẽ dần dần trở nên quá lạnh lẽo đối với sự sống, trừ phi có một vật thể lớn nào đó lao vào mặt trời và cho nó một đời sống mới - hãy tin, như tôi tin, rằng con người trong tương lai xa sẽ là một sinh vật hoàn hảo hơn rất nhiều so với nó hiện nay, thì thật khó chấp nhận quan niệm cho rằng nó và tất cả các giống có tri giác khác tất yếu phải chịu sự tuyệt diệt hoàn toàn sau một quá trình tiến bộ chậm chạp kéo dài như vậy.
- Charles Darwin
Theo truyền thuyết Bắc Âu, ngày phán xét cuối cùng (Ragnarok), thời kỳ diệt vong của các vị thần, sẽ mang đến những biến động đại họa. Thế gian Giữa (Midgard) cũng như bầu trời sẽ bị mắc vào sự cùm chặt của sương giá lạnh thấu xương. Gió rét buốt, các trận bão tuyết mù mịt, các trận động đất điêu tàn, và nạn đói sẽ tràn qua mặt đất, khi rất nhiều đàn ông và đàn bà bỏ mạng trong sự bất lực. Ba mùa đông như vậy sẽ làm tê liệt thế gian, không có bất kỳ cứu trợ nào, trong khi những con sói đói khát ngốn sạch mặt trời và mặt trăng, nhận chìm vũ trụ vào tăm tối hoàn toàn. Các ngôi sao trên trời sẽ rơi rụng, Trái Đất sẽ rung chuyển, các ngọn núi sẽ đổ sụp. Các quái vật sẽ xổ lồng, khi vị thần của hỗn độn Loki thoát ra, làm chiến tranh, nhầm lẫn và bất hòa lan rộng trên vùng đất lạnh lẽo hoang vắng.
Odin, cha của các vị thần, sẽ tập hợp các chiến binh dũng cảm ở Valhalla chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng. Sau cùng, khi từng vị thần ngã xuống, ác thần Surtur sẽ thở ra lửa và diêm sinh, làm bốc cháy một địa ngục khổng lồ để rồi nó sẽ nhận chìm cả trời và đất. Khi toàn thể vũ trụ bị nhấn chìm trong ngọn lửa, mặt đất chìm xuống các đại dương, thì thời gian tự nó cũng ngừng lại.
Nhưng trong đám tro tàn ấy, một khởi đầu mới bắt đầu cựa quậy. Một mặt đất mới, không giống như mặt đất cũ, dần dần hiện lên trên mặt biển, khi các trái quả mới và những cây cối kỳ dị xuất hiện dồi dào từ vùng đất màu mỡ, khai sinh ra một loài người mới.
Truyền thuyết của người Viking về một vụ đóng băng khổng lồ tiếp sau là màn lửa và một trận chiến cuối cùng miêu tả một câu chuyện nghiệt ngã về ngày tận diệt của thế giới. Trong các thần thoại trên khắp thế giới, có thể tìm thấy các câu chuyện tương tự. Ngày tận thế kèm theo là các thảm họa khí hậu lớn, thường là một đám cháy lớn, các trận động đất, hoặc một trận bão tuyết, theo sau là trận chiến cuối cùng giữa thiện và ác. Nhưng ở đó cũng có một thông điệp của niềm hy vọng. Sự hồi sinh nổi lên từ đám tro tàn.
Các nhà khoa học, đang đối mặt với các định luật vật lý lạnh lùng, bây giờ phải đương đầu với các chủ đề tương tự. Các dữ liệu rành rành, chứ không phải thần thoại thì thầm quanh các đống lửa trại, đã chỉ đạo cách thức các nhà khoa học nhìn nhận kết thúc cuối cùng của vũ trụ. Các chủ đề tương tự có thể thắng thế trong thế giới khoa học. Trong số các lời giải cho các phương trình Einstein, chúng ta cũng thấy trước những tương lai giá lạnh rét mướt, hỏa hoạn, tai ương và một kết thúc của vũ trụ. Nhưng liệu sẽ có một sự tái sinh cuối cùng không?
Theo hình ảnh xuất hiện từ vệ tinh WMAP, một lực phản hấp dẫn bí ẩn đang gia tốc sự dãn nở của vũ trụ. Nếu nó vẫn tiếp tục trong hàng tỉ hay nghìn tỉ năm, vũ trụ chắc chắn sẽ tiến tới vụ đóng băng lớn tương tự như trận bão tuyết báo trước thời kỳ diệt vong của các vị thần, sự kết thúc của mọi sự sống như chúng ta biết. Lực phản hấp dẫn đang đẩy vũ trụ ra xa này tỉ lệ thuận với thể tích của vũ trụ. Vì vậy, vũ trụ càng trở nên lớn hơn thì lực phản hấp dẫn càng lớn hơn để đẩy các thiên hà ra xa, và làm tăng thể tích của vũ trụ. Cái vòng luẩn quẩn này lặp đi lặp lại vô cùng tận, cho đến khi vũ trụ nở rộng và phát triển nhanh chóng theo cấp số mũ.
Cuối cùng, điều này sẽ có nghĩa rằng 36 thiên hà trong cụm thiên hà địa phương sẽ hợp thành toàn thể vũ trụ có thể nhìn thấy được, vì hàng tỉ thiên hà lân cận đã vượt qua chân trời sự kiện của chúng ta. Với không gian giữa các thiên hà dãn nở nhanh hơn tốc độ ánh sáng, vũ trụ sẽ trở nên cô quạnh khủng khiếp. Nhiệt độ sẽ giảm mạnh, khi năng lượng còn lại bị trải ra ngày càng mỏng hơn trong không gian. Khi nhiệt độ rơi xuống tới gần độ không tuyệt đối, các loài có trí tuệ sẽ phải đối mặt với số phận cuối cùng của chúng: bị đóng băng đến chết.
BA ĐỊNH LUẬT NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC
Nếu cả thế giới là một sân khấu, như Shakespeare đã nói, thì cuối cùng phải có một hồi III. Trong hồi I, chúng ta đã có vụ nổ lớn và sự nổi lên của sự sống và ý thức trên Trái Đất. Trong hồi II, có lẽ chúng ta sẽ sống để thám hiểm các ngôi sao và các thiên hà. Cuối cùng, trong hồi III, chúng ta đối mặt với cái chết cuối cùng của vũ trụ trong vụ đóng băng lớn.
Cuối cùng, chúng ta thấy rằng kịch bản phải tuân theo các định luật nhiệt động lực học. Trong thế kỷ 19, các nhà vật lý đã phát biểu rõ ràng ba định luật nhiệt động lực học chi phối vật lý nhiệt và bắt đầu suy ngẫm về cái chết cuối cùng của vũ trụ. Năm 1854, nhà vật lý vĩ đại người Đức là Hermann von Helmholtz đã nhận ra rằng các định luật nhiệt động lực học có thể được áp dụng cho vũ trụ như một tổng thể, nghĩa là tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta, bao gồm các ngôi sao và các thiên hà, cuối cùng sẽ phải chết.
Định luật một phát biểu rằng tổng lượng vật chất và năng lượng được bảo toàn [193] . Mặc dù năng lượng và vật chất có thể chuyển hóa qua lại (thông qua phương trình nổi tiếng của Einstein E = mc² ), nhưng tổng lượng vật chất và năng lượng không bao giờ có thể được tạo ra hoặc bị phá hủy.
Định luật hai là bí ẩn nhất và sâu sắc nhất. Nó phát biểu rằng tổng lượng entropy (hỗn độn hoặc rối loạn) trong vũ trụ luôn luôn tăng. Nói cách khác, mọi thứ cuối cùng phải già đi và suy kiệt. Cháy rừng, máy móc han gỉ, các đế quốc sụp đổ và cơ thể người trở nên lão hóa tương ứng với lượng entropy gia tăng trong vũ trụ. Chẳng hạn, rất dễ dàng đốt một mẩu giấy. Điều này thể hiện sự gia tăng ròng trong tổng hỗn độn. Tuy nhiên, không thể tái lắp ráp khói lại thành tờ giấy. (Entropy có thể được làm giảm xuống với việc bổ sung công cơ học, như trong một tủ lạnh, nhưng chỉ trong một vùng lân cận cục bộ nhỏ; entropy tổng cộng cho toàn bộ hệ thống - tủ lạnh cộng với tất cả những gì bao quanh nó - luôn luôn tăng.)
Arthur Eddington đã từng nói về định luật hai: “Định luật cho rằng entropy luôn tăng - định luật hai nhiệt động lực học - như tôi nghĩ, giữ vị trí tối cao trong số các quy luật của Tự nhiên… Nếu thuyết mà bạn tìm thấy trái ngược lại với định luật hai nhiệt động lực học, thì tôi có thể nói là bạn không có hy vọng; sẽ chẳng có gì cả ngoài sự sụp đổ trong sự ê chề nhất.” [194]
(Thoạt nhìn, dường như sự tồn tại của các hình thức sự sống phức tạp trên Trái Đất vi phạm định luật hai. Thật đáng ngạc nhiên khi trong sự hỗn nguyên của Trái Đất thuở sơ khai đã nổi lên một sự đa dạng lạ thường của các hình thức sự sống phức tạp, thậm chí nuôi dưỡng cả trí tuệ và ý thức, làm giảm lượng entropy. Một số người đã coi điều huyền diệu này là ngụ ý bàn tay của một Đấng Sáng thế bao dung. Nhưng nhớ rằng sự sống được dẫn dắt bằng các quy luật tiến hóa tự nhiên, và tổng entropy vẫn tăng, vì năng lượng bổ sung thúc đẩy sự sống được Mặt Trời liên tục thêm vào. Nếu chúng ta gộp cả Mặt Trời và Trái Đất, thì tổng entropy vẫn tăng.)
Định luật ba phát biểu rằng không có thiết bị làm lạnh nào có thể đạt đến độ không tuyệt đối. Người ta có thể đạt tới nhiệt độ chỉ hơn độ không tuyệt đối một phần nhỏ độ, nhưng không bao giờ có thể đạt đến trạng thái chuyển động bằng không. (Nếu chúng ta kết hợp cả nguyên lý lượng tử, thì điều này ngụ ý rằng các phân tử sẽ luôn luôn có một lượng nhỏ năng lượng, vì năng lượng bằng không ngụ ý rằng chúng ta biết chính xác vị trí và vận tốc của mỗi phân tử, mà đây là điều vi phạm nguyên lý bất định.)
Nếu định luật hai được áp dụng cho toàn thể vũ trụ, nó có nghĩa rằng vũ trụ cuối cùng sẽ suy kiệt. Các ngôi sao sẽ cạn kiệt nhiên liệu hạt nhân của chúng, các thiên hà sẽ ngừng chiếu sáng bầu trời, và vũ trụ sẽ chỉ còn là một tập hợp không sự sống của các sao lùn, các sao nơtron và các lỗ đen chết chóc. Vũ trụ sẽ chìm vào tăm tối vĩnh cửu.
Một số nhà vũ trụ học đã cố gắng tránh “cái chết nhiệt này bằng việc viện dẫn một vũ trụ dao động. Entropy sẽ tăng liên tục khi vũ trụ dãn nở và cuối cùng co lại. Nhưng sau vụ co lớn, entropy trong vũ trụ sẽ ra sao vẫn chưa được biết rõ. Một số người ấp ủ ý tưởng rằng có lẽ vũ trụ có thể đơn giản lặp lại chính nó một cách chính xác trong chu kỳ kế tiếp. Thực tế hơn sẽ là khả năng entropy được chuyển sang chu kỳ tiếp theo, có nghĩa là tuổi thọ của vũ trụ sẽ dần dần kéo dài cho mỗi chu kỳ. Nhưng bất kể người ta xem xét câu hỏi này như thế nào, một vũ trụ dao động, giống như các vũ trụ mở và đóng, cuối cùng sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt của tất cả sự sống có trí tuệ.
VỤ CO LỚN
Một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm áp dụng vật lý để giải thích cái chết của vũ trụ là bài báo viết năm 1969 của Tôn ông Martin Rees nhan đề “Sự suy sụp của vũ trụ: Một nghiên cứu về mạt thế.” [195] Khi đó, giá trị của omega vẫn chưa được biết đến rộng rãi, nên ông đã giả định nó bằng hai, nghĩa là vũ trụ cuối cùng sẽ ngừng dãn nở và chết trong một vụ co lớn thay vì một vụ đóng băng lớn.
Ông đã tính toán rằng sự dãn nở của vũ trụ cuối cùng sẽ dừng lại, khi các thiên hà cách xa nhau gấp hai lần so với hiện nay, khi cuối cùng lực hấp dẫn thắng được sự dãn nở ban đầu của vũ trụ. Dịch chuyển đó chúng ta thấy trên bầu trời sẽ trở thành dịch chuyển xanh, khi các thiên hà bắt đầu phóng nhanh về phía chúng ta.
Trong kịch bản này, sau khoảng 50 tỉ năm nữa, các biến cố thảm họa sẽ diễn ra, báo hiệu sự giãy chết cuối cùng của vũ trụ. Một trăm triệu năm trước vụ co cuối cùng, các thiên hà trong vũ trụ, bao gồm cả Ngân Hà của chúng ta sẽ bắt đầu va chạm với nhau và cuối cùng hợp nhất. Điều kỳ quặc là Rees đã phát hiện ra rằng các ngôi sao riêng lẻ sẽ tan rã, thậm chí trước cả khi chúng bắt đầu va vào nhau, vì hai lý do. Thứ nhất, bức xạ từ các ngôi sao khác trên bầu trời sẽ thu nhận được năng lượng khi vũ trụ co lại, vì thế, các ngôi sao sẽ tắm mình trong ánh sáng dịch chuyển xanh nóng bỏng của các ngôi sao khác. Thứ hai, nhiệt độ của bức xạ nền vi sóng sẽ gia tăng khủng khiếp khi nhiệt độ của vũ trụ tăng lên vùn vụt. Sự kết hợp của hai hiệu ứng này sẽ tạo ra các nhiệt độ vượt quá nhiệt độ bề mặt của các ngôi sao, làm cho chúng sẽ hấp thụ nhiệt nhanh hơn so với tỏa nhiệt. Nói cách khác, các ngôi sao có lẽ sẽ tan rã và tan tác trong các đám mây khí siêu nóng.
Sự sống có trí tuệ, trong các hoàn cảnh này, chắc chắn sẽ diệt vong, do bị khô héo đi vì nhiệt vũ trụ rót vào từ các ngôi sao và các thiên hà gần đó. Không có lối thoát. Như Freeman Dyson đã viết: “Thật đáng tiếc là tôi phải đồng tình rằng trong trường hợp này chúng ta không thoát khỏi bị chiên giòn. Dù có đào bới sâu thế nào đi nữa vào lòng đất để che chắn bản thân khỏi bức xạ nền dịch chuyển xanh, chúng ta chỉ có thể trì hoãn sự kết thúc khốn khổ của mình vài triệu năm.” [196]
Nếu vũ trụ lao đầu vào một vụ co lớn, thì câu hỏi còn lại là liệu vũ trụ có thể suy sụp và sau đó nảy bật trở lại hay không, như trong một vũ trụ dao động. Đây là kịch bản được chấp nhận trong tiểu thuyết Tau Zero của Poul Anderson. Giả sử vũ trụ thuộc kiểu Newton, trường hợp này có thể xảy ra nếu có chuyển động lệch sang bên đủ mức khi các thiên hà bị nén vào nhau. Trong trường hợp này, các ngôi sao có thể không bị nén chặt thành một điểm duy nhất mà có thể đi chệch nhau, sau đó nảy bật trở lại mà không va chạm nhau.
Tuy nhiên, vũ trụ không phải là kiểu Newton, nó tuân theo các phương trình Einstein. Roger Penrose và Stephen Hawking đã chỉ ra rằng, trong các hoàn cảnh rất phổ biến, một tập hợp đang suy sụp của các thiên hà nhất thiết sẽ bị nén xuống thành một điểm kỳ dị. (Đó là do chuyển động lệch sang bên của các thiên hà chứa năng lượng và do đó tương tác với hấp dẫn. Vì thế, sức hút hấp dẫn trong thuyết Einstein lớn hơn nhiều sức hút trong thuyết Newton về các vũ trụ suy sụp, và vũ trụ suy sụp thành một điểm duy nhất.)
NĂM GIAI ĐOẠN CỦA VŨ TRỤ
Tuy nhiên, các dữ liệu gần đây từ vệ tinh WMAP lại thiên về vụ đóng băng lớn. Để phân tích lịch sử sự sống của vũ trụ, các nhà khoa học như Fred Adams và Greg Laughlin từ Đại học Michigan đã thử phân chia cuộc đời của vũ trụ thành năm trạng thái khác biệt. Vì chúng ta đang thảo luận các thang thời gian thiên văn có quy mô rất lớn, chúng ta sẽ áp dụng giá trị thời gian lôgarit. Như vậy, 10 20 năm sẽ được thể hiện là 20. (Biểu thời gian này đã được thảo ra trước khi người ta đánh giá đầy đủ các hệ lụy của một vũ trụ tăng tốc. Nhưng sự phân chia tổng quát các giai đoạn của vũ trụ vẫn giữ nguyên.)
Câu hỏi ám ảnh chúng ta là: liệu sự sống có trí tuệ có thể sử dụng tài trí của mình để tồn tại trong hình thức nào đó qua các giai đoạn này, qua một loạt các thảm họa tự nhiên và thậm chí cả cái chết của vũ trụ hay không?
GIAI ĐOẠN 1: KỶ NGUYÊN KHỞI THỦY
Trong giai đoạn đầu tiên (giữa -50 và 5, hoặc giữa 10⁻⁵⁰ và 10⁵ giây*), vũ trụ dãn nở nhanh chóng nhưng cũng nguội đi nhanh chóng. Khi nó nguội đi, các lực khác nhau, mà đã từng hợp nhất thành một “siêu lực” tổng thể, dần dần bị tách rời, sinh ra bốn lực quen thuộc ngày nay. Lực hấp dẫn rời ra đầu tiên, sau đó là lực hạt nhân mạnh, và cuối cùng là lực hạt nhân yếu. Lúc đầu, vũ trụ mờ đục và bầu trời có màu trắng, vì ánh sáng bị hấp thu ngay sau khi nó được tạo ra. Nhưng 380,000 năm sau vụ nổ lớn, vũ trụ đã nguội đủ để các nguyên tử hình thành mà không bị đập tan vì nhiệt quá cao. Bầu trời chuyển thành màu đen. Bức xạ nền vi sóng có từ thời kỳ này.
Trong kỷ nguyên này, hyđrô nguyên thủy hợp hạch thành hêli, tạo ra hỗn hợp nhiên liệu hiện tại trong các ngôi sao đã rải ra khắp vũ trụ. Tại giai đoạn tiến hóa này của vũ trụ, sự sống như chúng ta biết là không thể có. Nhiệt quá mãnh liệt; bất kể phân tử ADN nào hay các phân tử tự xúc tác khác đã được hình thành sẽ bị nổ tung ra xa do các va chạm ngẫu nhiên với các nguyên tử khác, làm cho các hóa chất ổn định của sự sống không thể tồn tại.
GIAI ĐOẠN 2: KỶ NGUYÊN PHỦ SAO
Ngày nay, chúng ta sống trong giai đoạn 2 (từ 6 đến 14, tức là từ 10⁶ đến 10¹⁴ năm*), khi khí hyđrô bị nén và các ngôi sao đã phát cháy, chiếu sáng bầu trời. Trong kỷ nguyên này, chúng ta thấy các ngôi sao giàu hyđrô cháy sáng trong hàng tỉ năm cho đến khi cạn kiệt các nhiên liệu hạt nhân. Kính thiên văn không gian Hubble đã chụp ảnh các ngôi sao trong tất cả các giai đoạn tiến hóa, kể cả các ngôi sao trẻ được bao quanh bằng một đĩa bụi và mảnh vỡ xoáy tít, có lẽ là tiền thân của các hành tinh và một hệ Mặt Trời.
Trong giai đoạn này, các điều kiện là rất lý tưởng để tạo ra ADN và sự sống. Dựa vào số lượng khổng lồ các ngôi sao trong một vũ trụ có thể nhìn thấy được, các nhà thiên văn đã thử đưa ra các lập luận đáng tin cậy, dựa trên các định luật đã biết của khoa học, cho sự xuất hiện của sự sống có trí tuệ trên các hệ hành tinh khác. Nhưng bất kỳ hình thức sự sống có trí tuệ nào cũng sẽ phải đối mặt với một số trở ngại vũ trụ, mà phần nhiều trong số đó là do nó tự gây ra, chẳng hạn như ô nhiễm môi trường, ấm lên toàn cầu và các vũ khí hạt nhân. Giả sử rằng sự sống có trí tuệ đã không tự tiêu diệt chính nó, thì nó phải đối mặt với một loạt các thiên tai tự nhiên khắc nghiệt, mà bất kỳ một thiên tai nào trong số đó đều có thể kết thúc trong thảm họa.
Trên thang thời gian hàng vạn năm, có thể có một thời đại băng hà, tương tự như một thời kỳ đã chôn vùi Bắc Mỹ bên dưới lớp băng giá dày gần 1 dặm, làm cho nền văn minh của con người là không thể phát sinh. Một vạn năm trước đây, loài người đã sống như những bầy sói, tìm kiếm thức ăn trong các bộ lạc nhỏ tách biệt. Không có sự tích lũy kiến thức hay khoa học, Không có chữ viết. Con người lúc đó chỉ quan tâm tới một mục tiêu: sự sinh tồn. Sau đó, vì các lý do mà chúng ta vẫn chưa hiểu, thời đại băng hà đã kết thúc, và con người đã nổi lên nhanh chóng từ băng giá tới chỗ chinh phục các vì sao. Tuy nhiên, thời kỳ xen giữa băng hà ngắn ngủi này không thể kéo dài mãi mãi. Có lẽ trong 1 vạn năm tới, một thời đại băng hà khác sẽ che phủ phần lớn thế giới. Các nhà địa chất tin rằng hiệu ứng của các biến thiên nhỏ trong sự quay quanh trục của Trái Đất cuối cùng sẽ tích tụ lại, làm các dòng băng từ những chỏm băng chảy xuống các vĩ độ thấp hơn, che phủ Trái Đất trong băng giá. Lúc đó, chúng ta có thể phải sống dưới lòng đất để giữ ấm. Trái Đất đã từng có thời bị băng giá che phủ hoàn toàn. Điều này có thể xảy ra lần nữa.
Trên thang thời gian hàng nghìn tới hàng triệu năm, chúng ta phải chuẩn bị đón nhận các va chạm của thiên thạch và sao chổi. Nhiều khả năng là một vụ thiên thạch hay sao chổi va chạm đã tiêu diệt khủng long 65 triệu năm trước. Các nhà khoa học tin rằng một vật thể ngoài Trái Đất, có lẽ có kích thước dưới 10 dặm (16 km), đã cày xới bán đảo Yucatan của Mexico, khoét một hố va chạm rộng 180 dặm (290 km) và bắn các mảnh vỡ vào bầu khí quyển, đủ để che lấp ánh Mặt Trời và làm Trái Đất tối sầm, khiến nhiệt độ lạnh giá tiêu diệt thảm thực vật và dạng sinh vật thống trị trên Trái Đất ở thời đó là khủng long. Chưa tới một năm, khủng long và phần lớn các loài trên Trái Đất đã bị diệt vong.
Đánh giá theo tỉ lệ các va chạm trong quá khứ, có xác suất 1/100.000 trong 50 năm tiếp theo sẽ xảy ra một vụ va chạm với một tiểu hành tinh gây ra thiệt hại quy mô toàn thế giới. Xác suất xảy ra một va chạm lớn hơn trên qua hàng triệu năm có thể tăng lên tới gần 100%.
(Ở phần phía trong của hệ Mặt Trời, nơi Trái Đất cư trú, có lẽ có từ 1.000 đến 1.500 tiểu hành tinh có kích thước từ 1 km trở lên, và 1 triệu tiểu hành tinh có kích thước từ 50 m trở lên. Các dữ liệu quan sát tiểu hành tinh đổ về Đài quan sát vật lý thiên văn Smithsonian ở Cambridge với mức độ khoảng 15.000 vụ việc mỗi ngày. May mắn là chỉ 42 tiểu hành tinh đã biết có xác suất nhỏ nhưng hữu hạn va chạm với Trái Đất. Trong quá khứ, đã từng có một số cảnh báo sai về các tiểu hành tinh này, nổi tiếng nhất là vụ tiểu hành tinh 1997XF11; các nhà thiên văn đã tuyên bố sai lầm rằng nó có thể va vào Trái Đất trong vòng 30 năm tới*, làm rộ lên các dòng tít tin tức gây chú ý trên toàn thế giới. Nhưng bằng việc kiểm tra cẩn thận quỹ đạo của một tiểu hành tinh gọi là 1950DA, các nhà khoa học đã tính toán rằng chỉ có một xác suất nhỏ - nhưng không bằng 0 - là nó có thể va vào Trái Đất vào ngày 16 tháng 3 năm 2880. Các giả lập máy tính được thực hiện tại Đại học California ở Santa Cruz chỉ ra rằng, nếu tiểu hành tinh này va vào đại dương, nó sẽ tạo ra một con sóng thủy triều cao 400 feet (122 m), làm ngập lụt và tàn phá hầu hết các vùng duyên hải [197] .)
Trên thang hàng tỉ năm, chúng ta sẽ phải lo lắng về việc Mặt Trời nuốt chửng Trái Đất. Mặt Trời ngày nay đã nóng hơn 30% so với khi còn ở thuở khởi thủy của nó. Các nghiên cứu máy tính đã chỉ ra rằng, trong 3,5 tỉ năm tới, Mặt Trời sẽ sáng hơn ngày nay 40%, có nghĩa là Trái Đất sẽ dần dần nóng lên. Ban ngày, Mặt Trời sẽ xuất hiện ngày càng to lớn hơn, cho đến khi nó che lấp phần lớn bầu trời từ chân trời này đến chân trời kia. Trong ngắn hạn, các sinh vật sống, khi cố gắng trong tuyệt vọng để thoát khỏi cái nóng như thiêu như đốt của Mặt Trời, có thể buộc phải quay trở lại các đại dương, đi ngược lại tiến trình tiến hóa trên hành tinh này trước đây. Cuối cùng, bản thân các đại dương sẽ sôi lên ùng ục, làm cho sự sống như chúng ta biết trở nên không thể tồn tại. Trong khoảng 5 tỉ năm tới, lõi của Mặt Trời sẽ cạn kiệt nguồn cung cấp khí hyđrô và biến thành một sao kềnh đỏ. Một số sao kềnh đỏ lớn tới mức chúng có thể nuốt chửng sao Hỏa nếu chúng nằm tại vị trí của Mặt Trời chúng ta. Tuy nhiên, Mặt Trời có lẽ sẽ dãn nở chỉ tới kích thước của vòng quỹ đạo Trái Đất, nuốt chửng sao Thủy và sao Kim rồi làm tan chảy các dãy núi trên Trái Đất. Vì thế có lẽ Trái Đất của chúng ta sẽ chết trong biển lửa, hơn là trong biển băng, để lại một cục xỉ cháy hết quay xung quanh Mặt Trời.
Một số nhà vật lý đã cho rằng trước khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ có thể sử dụng công nghệ tiên tiến để di chuyển Trái Đất tới một quỹ đạo lớn hơn xung quanh Mặt Trời, nếu chúng ta vẫn chưa di cư từ Trái Đất tới các hành tinh khác trong những phi thuyền không gian khổng lồ. “Miễn là con người trở nên thông minh nhanh hơn so với tốc độ Mặt Trời trở nên sáng hơn, Trái Đất sẽ thịnh vượng,” nhà thiên văn kiêm nhà văn là Ken Croswell nhận xét. [198]
Các nhà khoa học đã đề xuất một vài cách để di chuyển Trái Đất khỏi quỹ đạo hiện tại của nó xung quanh Mặt Trời. Một cách đơn giản có thể là cẩn thận chuyển hướng một loạt các tiểu hành tinh từ vành đai tiểu hành tinh sao cho chúng được lùa tập trung xung quanh Trái Đất. Hiệu ứng súng cao su này sẽ đẩy quỹ đạo Trái Đất thật mạnh, làm tăng khoảng cách giữa nó với Mặt Trời. Mỗi cú đẩy mạnh sẽ chỉ dịch chuyển Trái Đất một chút, nhưng ta sẽ có vô khối thời gian để chuyển hướng hàng trăm tiểu hành tinh nhằm thực hiện kỳ công này. “Trong một vài tỉ năm trước khi Mặt Trời phình lên thành một sao kềnh đó, con cháu chúng ta có thể giăng bẫy một ngôi sao bay ngang qua vào một quỹ đạo quanh Mặt Trời, sau đó chuyển dịch Trái Đất từ quỹ đạo quanh Mặt Trời vào một quỹ đạo quanh ngôi sao mới,” Croswell bổ sung. [199]
Mặt Trời của chúng ta sẽ phải chịu một số phận khác với Trái Đất, nó sẽ chết trong biển băng, chứ không phải trong biển lửa. Cuối cùng, sau khi đốt cháy hết hêli trong 700 triệu năm làm một sao kềnh đỏ, Mặt Trời sẽ cạn kiệt phần lớn nhiên liệu hạt nhân của nó, và lực hấp dẫn sẽ nén nó thành một sao lùn trắng có kích thước cỡ như Trái Đất. Mặt Trời của chúng ta quá nhỏ nên không trải qua biến cố tai họa được mệnh danh là một sao siêu mới rồi chuyển thành một lỗ đen. Sau khi Mặt Trời biến thành một sao lùn trắng, cuối cùng nó sẽ nguội đi, do đó phát ra màu đỏ nhạt, rồi màu nâu và cuối cùng là màu đen. Nó sẽ trôi trong khoảng không trống rỗng của vũ trụ dưới dạng một cục tro hạt nhân chết. Tương lai của gần như tất cả các nguyên tử xung quanh chúng ta, kể cả bản thân các nguyên tử của cơ thể chúng ta và những người thân yêu, sẽ kết thúc trong một cục xỉ cháy hết quay quanh một sao lùn đen. Vì ngôi sao lùn này sẽ chỉ nặng bằng 0,55 lần khối lượng Mặt Trời, những gì còn lại của Trái Đất sẽ lắng đọng vào một quỹ đạo xa hơn quỹ đạo hiện thời khoảng 70%. [200]
Trên thang này, chúng ta thấy rằng sự nảy nở của động thực vật trên Trái Đất sẽ chỉ kéo dài 1 tỉ năm (và ngày nay chúng ta đang ở giữa chừng của kỷ nguyên hoàng kim này). “Mẹ Tự nhiên không có ý định làm cho chúng ta hạnh phúc,” [201] nhà thiên văn Donald Brownlee nói. So với tuổi thọ của toàn thể vũ trụ, thời kỳ cực thịnh của sự sống chỉ là một khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi.
GIAI ĐOẠN 3: KỶ NGUYÊN SUY BIẾN
Trong giai đoạn 3 (từ 15 đến 39*), năng lượng của các ngôi sao trong vũ trụ cuối cùng sẽ cạn kiệt. Quá trình đốt cháy hyđrô và sau đó đến hêli tưởng như vĩnh cửu cuối cùng cũng phải ngừng lại, để lại phía sau các khối vật chất hạt nhân khổng lồ đã chết dưới dạng các sao lùn, sao nơtron và lỗ đen. Các ngôi sao trên trời không còn chiếu sáng, vũ trụ dần dần rơi vào tăm tối.
Nhiệt độ sẽ giảm đột ngột trong giai đoạn 3, khi các ngôi sao mất các nguồn năng lượng hạt nhân của chúng. Bất cứ hành tinh nào xoay xung quanh một ngôi sao chết sẽ đóng băng. Giả sử Trái Đất vẫn còn nguyên vẹn, thì những gì còn lại trên bề mặt của nó sẽ trở thành một lớp băng đông cứng, buộc các dạng sự sống thông minh phải tìm kiếm một quê hương mới.
Trong khi các ngôi sao kềnh chỉ sống vài triệu năm và các ngôi sao đốt hyđrô như Mặt Trời của chúng ta chỉ vài tỉ năm, thì các ngôi sao lùn đỏ nhỏ xíu có thể cháy hàng nghìn tỉ năm. Đây là lý do tại sao nỗ lực di chuyển quỹ đạo của Trái Đất tới xoay quanh một ngôi sao lùn đỏ về lý thuyết là rất có ý nghĩa. Ngôi sao hàng xóm gần Trái Đất nhất là Proxima* Centauri*, một sao lùn đỏ chỉ cách Trái Đất 4,3 năm ánh sáng. Hàng xóm gần nhất của chúng ta nặng chỉ bằng 15% khối lượng của Mặt Trời và mờ hơn Mặt Trời 400 lần, do đó bất kỳ hành tinh nào quay xung quanh nó sẽ phải ở cực kỳ gần để tận dụng ánh sáng mờ nhạt của nó. Trái Đất sẽ phải quay trên quỹ đạo gần ngôi sao này hơn 20 lần so với quỹ đạo hiện nay của nó gần Mặt Trời để nhận được một lượng ánh sáng như nhận từ Mặt Trời. Nhưng được cái khi ở trên quỹ đạo xung quanh một sao lùn đỏ, một hành tinh sẽ có năng lượng để sống lâu hàng nghìn tỉ năm.
Cuối cùng, các ngôi sao duy nhất còn tiếp tục đốt nhiên liệu hạt nhân sẽ là các sao lùn đỏ. Tuy nhiên, sớm hay muộn thì ngay cả chúng rồi cũng sẽ tắt ngóm. Sau 100.000 tỉ năm, các sao lùn đỏ còn lại rốt cuộc cũng sẽ chết.
GIAI ĐOẠN 4: KỶ NGUYÊN LỖ ĐEN
Trong giai đoạn 4 (từ 40 đến 100), nguồn năng lượng duy nhất sẽ là sự bay hơi chậm chạp của năng lượng từ các lỗ đen. Jacob Bekenstein và Stephen Hawking chỉ ra rằng các lỗ đen không thực sự là đen; chúng thực sự tỏa ra một lượng năng lượng mờ nhạt, được gọi là sự bay hơi. (Trên thực tế, sự bay hơi lỗ đen này quá nhỏ để có thể quan sát bằng thực nghiệm, nhưng ở các thang thời gian dài thì quá trình bay hơi cuối cùng sẽ quyết định số phận của một lỗ đen.)
Các lỗ đen đang bay hơi có thể có các cuộc đời khác nhau. Một lỗ đen mini kích thước cỡ một proton có thể phát ra 10 tỉ oát năng lượng cho suốt cuộc đời của hệ Mặt Trời [202] . Một lỗ đen nặng bằng Mặt Trời sẽ bay hơi trong 10⁶⁶ năm. Một lỗ đen nặng bằng một quần thiên hà sẽ bay hơi trong 10¹¹⁷ năm. Tuy nhiên, khi cuộc đời của một lỗ đen sắp hết, sau khi từ từ tiêu tán hết bức xạ, nó đột ngột phát nổ. Có thể là sự sống có trí tuệ, giống như những người vô gia cư túm tụm cạnh các cụm than hồng trong đám lửa sắp tắt, sẽ tụ tập xung quanh sức nóng mờ nhạt phát ra từ các lỗ đen đang bay hơi để bòn mót một chút hơi ấm từ chúng, cho đến khi chúng bay hơi hết.
GIAI ĐOẠN 5: KỶ NGUYÊN TĂM TỐI
Trong giai đoạn 5 (trên 101*), chúng ta đi vào kỷ nguyên tăm tối của vũ trụ, khi tất cả các nguồn nhiệt cuối cùng cũng cạn kiệt. Trong giai đoạn này, vũ trụ trôi dạt chậm chạp về phía cái chết nhiệt cuối cùng, khi nhiệt độ tới gần độ không tuyệt đối. Tại thời điểm này, bản thân các nguyên tử gần như cũng dừng lại. Có lẽ ngay cả bản thân các proton sẽ phân rã, để lại một biển photon trôi dạt và món xúp loãng của các hạt tương tác yếu (các nơtrino, các electron và phản hạt của chúng là positron). Vũ trụ có thể bao gồm một kiểu “nguyên tử” mới gọi là positronium, hợp thành từ các electron và các positron quay xung quanh nhau.
Một số nhà vật lý đã suy đoán rằng các “nguyên tử” gồm các electron và các phản electron này có thể có khả năng tạo thành các “viên gạch xây dựng” mới cho sự sống có trí tuệ trong kỷ nguyên tăm tối này. Tuy nhiên, ý tưởng này gặp phải trở ngại ghê gớm. Một nguyên tử positronium về kích thước có thể so với một nguyên tử bình thường. Nhưng một nguyên tử positronium trong kỷ nguyên tăm tối sẽ có kích thước khoảng 10¹² megaparsec*, lớn hơn hàng triệu lần vũ trụ có thể quan sát được ngày nay. Vì vậy, trong kỷ nguyên tăm tối này, các nguyên tử có thể hình thành, nhưng chúng sẽ có kích thước của toàn thể vũ trụ. Vì vũ trụ trong kỷ nguyên tăm tối sẽ được dãn nở tới các khoảng cách rất lớn, nó sẽ dễ dàng có thể chứa các nguyên tử positronium khổng lồ này. Nhưng vì các nguyên tử positronium này quá lớn, có nghĩa rằng bất cứ hoạt động “hóa học” nào liên quan tới các “nguyên tử” này sẽ ở các thang thời gian khổng lồ hoàn toàn khác với bất kỳ điều gì chúng ta từng biết.
Như nhà vũ trụ học Tony Rothman viết: “Và như thế, cuối cùng, sau 10¹¹⁷ năm, vũ trụ sẽ chỉ bao gồm vài electron và positron bị khóa trong các quỹ đạo nặng nề của chúng, các nơtrino và photon còn sót lại từ phân rã baryon, và các proton đi lạc còn lại từ sự hủy diệt positronium và các lỗ đen. Vì điều này cũng được viết trong cuốn Book of Destiny (Sách bói số phận).” [203]
SỰ SỐNG CÓ TRÍ TUỆ CÓ THỂ SỐNG SÓT?
Với các điều kiện cực kỳ u ám tìm thấy ở cuối vụ đóng băng lớn, các nhà khoa học đã tranh luận liệu có bất kỳ dạng sự sống có trí tuệ nào có khả năng sống sót hay không. Ban đầu, dường như thật vô nghĩa khi thảo luận về khả năng sống sót của sự sống có trí tuệ trong giai đoạn 5, khi nhiệt độ xuống tới gần độ không tuyệt đối. Tuy nhiên, đã thực sự có một cuộc tranh luận hăng say giữa các nhà vật lý về chủ đề này.
Cuộc tranh luận tập trung vào hai câu hỏi then chốt. Thứ nhất là: liệu các sinh vật có trí tuệ có thể vận hành các máy móc của họ khi nhiệt độ tới gần độ không tuyệt đối? Theo các định luật nhiệt động lực học, vì năng lượng chuyển từ một nhiệt độ cao hơn xuống tới một nhiệt độ thấp hơn nên chuyển dịch này được sử dụng để tạo ra công cơ học hữu ích. Chẳng hạn, công cơ học có thể thu được từ một động cơ nhiệt nối hai vùng ở các nhiệt độ khác nhau. Độ chênh lệch về nhiệt độ càng lớn thì hiệu suất của động cơ lại càng lớn. Đây là cơ sở chế tạo các máy móc trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, chẳng hạn như động cơ hơi nước và đầu máy xe lửa. Thoạt nhìn, dường như không thể thu được bất kỳ công nào từ một động cơ nhiệt trong giai đoạn 5, vì mọi nhiệt độ sẽ là như nhau.
Câu hỏi thứ hai là: liệu một dạng sự sống có trí tuệ có thể trao đổi thông tin? Theo thuyết thông tin, đơn vị nhỏ nhất có thể gửi và nhận tỉ lệ thuận với nhiệt độ. Khi nhiệt độ xuống gần độ không tuyệt đối, khả năng xử lý thông tin cũng suy yếu nghiêm trọng. Các bit thông tin có thể truyền tải khi vũ trụ nguội đi sẽ phải ngày càng nhỏ hơn.
Nhà vật lý Freeman Dyson và những người khác đã tái phân tích vật lý của sinh vật có trí tuệ đối phó với môi trường trong một vũ trụ hấp hối. Họ đặt nghi vấn liệu có thể tìm ra các cách tài tình nào cho sinh vật có trí tuệ tồn tại ngay cả khi nhiệt độ xuống gần độ không tuyệt đối hay không?
Khi nhiệt độ bắt đầu xuống thấp trong khắp vũ trụ, trước hết các sinh vật có thể cố hạ thấp nhiệt độ cơ thể của chúng bằng cách sử dụng kỹ thuật di truyền. Bằng cách này, chúng có thể sử dụng nguồn cung cấp năng lượng đang yếu dần một cách hiệu quả hơn. Nhưng cuối cùng, nhiệt độ cơ thể sẽ đạt tới điểm đóng băng của nước. Đến lúc này, các sinh vật có trí tuệ có thể phải từ bỏ cơ thể mong manh tạo từ da thịt và máu để sống trong các cơ thể kiểu người máy. Các cơ thể người máy có thể chịu lạnh tốt hơn nhiều so với da thịt. Nhưng máy móc cũng phải tuân theo định luật của thuyết thông tin và nhiệt động lực học, nên sự sống sẽ vô cùng khó khăn, ngay cả đối với các người máy.
Ngay cả khi các sinh vật có trí tuệ từ bỏ các cơ thể kiểu người máy và biến bản thân mình thành ý thức thuần túy, thì vẫn còn vấn đề xử lý thông tin. Khi nhiệt độ tiếp tục hạ xuống, cách duy nhất để tồn tại sẽ là “tư duy” chậm hơn. Theo Dyson, một dạng sự sống tài tình vẫn có thể suy nghĩ trong một lượng thời gian vô hạn bằng cách trải rộng thời gian cần thiết để xử lý thông tin và cả bằng cách ngủ đông để bảo tồn năng lượng. Mặc dù thời gian tự nhiên cần thiết để suy nghĩ và xử lý thông tin có thể được trải rộng qua hàng tỉ năm, nhưng “thời gian chủ quan”, được chính các sinh vật có trí tuệ đó cảm nhận, vẫn sẽ như nhau. Chúng sẽ không bao giờ nhận thấy sự khác biệt. Chúng vẫn sẽ có thể suy nghĩ các ý tưởng sâu sắc, nhưng chỉ trên thang thời gian chậm hơn vô cùng nhiều. Dyson kết luận, dựa trên một lưu ý kỳ lạ nhưng lạc quan, rằng theo kiểu này sự sống có trí tuệ sẽ có thể xử lý thông tin và “suy nghĩ” vô thời hạn. Xử lý một ý nghĩ đơn lẻ có thể mất hàng nghìn tỉ năm, nhưng đối với thời gian chủ quan”, quá trình tư duy sẽ tiếp diễn bình thường.
Nhưng nếu các sinh vật có trí tuệ suy nghĩ chậm hơn, có lẽ chúng có thể chứng kiến các chuyển tiếp lượng tử diễn ra trong vũ trụ. Thông thường, các chuyển tiếp vũ trụ như vậy, chẳng hạn như sự tạo ra các vũ trụ con hoặc sự chuyển tiếp tới một vũ trụ lượng tử khác, diễn ra trong hàng nghìn tỉ năm và vì thế chỉ là thuần túy lý thuyết. Tuy nhiên, trong giai đoạn 5, hàng nghìn tỉ năm trong “thời gian chủ quan” sẽ bị nén lại và có thể xuất hiện chỉ như một vài giây đối với các sinh vật này, chúng sẽ suy nghĩ quá chậm chạp tới mức chúng có thể thấy các sự kiện lượng tử kỳ quái xảy ra luôn luôn. Chúng có thể thường xuyên thấy các vũ trụ bong bóng xuất hiện từ hư không hoặc các bước nhảy lượng tử vào các vũ trụ thay thế.
Nhưng nhờ thành tựu của các khám phá gần đây về vũ trụ đang tăng tốc, các nhà vật lý đã kiểm chứng lại công trình của Dyson và lại làm bùng lên một cuộc tranh luận mới, dẫn tới các kết luận trái ngược - sự sống có trí tuệ nhất thiết sẽ diệt vong trong một vũ trụ đang tăng tốc. Hai nhà vật lý Lawrence Krauss và Glenn Starkman đã kết luận: “Hàng tỉ năm trước, vũ trụ quá nóng để sự sống có thể tồn tại. Trải qua vô số liên đại* kể từ đây, nó sẽ trở nên quá lạnh và trống rỗng tới mức sự sống, dù có tài tình thế nào đi nữa, vẫn sẽ bị diệt vong.” [204]
Trong công trình gốc của Dyson, ông giả định rằng bức xạ vi sóng 2,7 độ trong vũ trụ sẽ tiếp tục hạ xuống vô hạn định, do đó các sinh vật có trí tuệ có thể rút ra công có ích từ các khác biệt nhiệt độ rất nhỏ này. Hễ nhiệt độ còn tiếp tục giảm, thì luôn luôn có thể rút ra được công có ích. Tuy nhiên, Krauss và Stackman chỉ ra rằng nếu vũ trụ có một hằng số vũ trụ, thì nhiệt độ sẽ không hạ xuống mãi mãi, như Dyson đã giả định, mà cuối cùng sẽ đạt tới một giới hạn thấp hơn, là nhiệt độ Gibbons-Hawking (khoảng 10⁻²⁹ độ). Một khi đã đạt tới nhiệt độ này, nhiệt độ trong khắp vũ trụ sẽ như nhau, vì thế các sinh vật có trí tuệ sẽ không có khả năng rút ra năng lượng có ích bằng cách khai thác các khác biệt nhiệt độ. Một khi toàn thể vũ trụ đạt tới một nhiệt độ đồng nhất, mọi quá trình xử lý thông tin sẽ dừng lại.
(Trong thập niên 1980, người ta đã thấy rằng các hệ thống lượng tử nhất định, chẳng hạn như chuyển động Brown trong một chất lưu, có thể làm cơ sở cho một máy tính hoạt động, bất kể nhiệt độ bên ngoài lạnh như thế nào. Vì vậy, ngay cả khi nhiệt độ giảm xuống rất sâu, các máy tính này vẫn có thể tính toán bằng cách sử dụng ngày càng ít năng lượng hơn. Điều này là tin tốt với Dyson. Nhưng có một trở ngại tiềm ẩn. Hệ thống phải thỏa mãn hai điều kiện: nó phải ở trạng thái cân bằng với môi trường chứa nó, và không bao giờ loại bỏ thông tin. Nhưng nếu vũ trụ dãn nở, trạng thái cân bằng là không thể, vì bức xạ sẽ yếu đi và bước sóng bị kéo dài. Một vũ trụ đang tăng tốc thay đổi quá nhanh khiến hệ thống này khó có thể đạt được trạng thái cân bằng. Còn yêu cầu thứ hai, là nó không bao giờ loại bỏ thông tin, có nghĩa là một sinh vật có trí tuệ không bao giờ được quên. Rốt cuộc, một sinh vật có trí tuệ không thể loại bỏ những kỷ niệm cũ, sẽ thấy bản thân nó cứ luôn sống đi sống lại với chúng. “Sự trường tồn sẽ giống như một nhà tù, hơn là một chân trời sáng tạo và thám hiểm vô cùng tận cứ lùi dần. Nó có thể là niết bàn, nhưng có phải nó vẫn đang sống?” [205] Krauss và Starkman đặt câu hỏi.)
Nói tóm lại, chúng ta thấy rằng nếu hằng số vũ trụ là gần bằng không, sự sống có trí tuệ có thể “suy nghĩ” vô hạn định khi vũ trụ nguội đi bằng cách ngủ đông và tư duy chậm hơn. Nhưng trong một vũ trụ đang tăng tốc như của chúng ta thì điều này là không thể. Mọi sự sống có trí tuệ phải chịu số phận diệt vong, theo các định luật của vật lý.
Từ cao điểm lợi thế này của viễn cảnh vũ trụ, chúng ta thấy rằng các điều kiện cho sự sống như chúng ta biết chỉ là một tình tiết thoáng qua trong một tấm thảm thêu lớn hơn nhiều. Chỉ có một cửa sổ nhỏ, nơi nhiệt độ “vừa đủ” để hỗ trợ sự sống, không quá nóng mà cũng không quá lạnh.
RỜI BỎ VŨ TRỤ
Cái chết có thể được định nghĩa là sự ngưng hoạt của mọi quá trình xử lý thông tin. Bất kỳ loài có trí tuệ nào trong vũ trụ, khi nó bắt đầu hiểu được các định luật nền tảng của vật lý, sẽ buộc phải đối mặt với cái chết tối hậu của vũ trụ cũng như của bất cứ vật nào mà nó chứa.
Thật may mắn, vẫn còn nhiều thời gian để thu thập năng lượng cho một chuyến hành trình, và cũng có các lựa chọn khác, như chúng ta sẽ thấy trong chương kế tiếp. Câu hỏi chúng ta sẽ tìm hiểu là: các định luật vật lý có cho phép chúng ta đào thoát vào một vũ trụ song song hay không?