CHƯƠNG MƯỜI HAI BÊN KIA ĐA VŨ TRỤ
Kinh Thánh dạy chúng ta làm thế nào để đi tới thiên đường, chứ không phải các thiên đường đi như thế nào.
- Lời Hồng y Baronius, Galileo nhắc lại trong vụ xử ông
Tại sao luôn tồn tại cái gì đó, chứ không phải hư vô? Sự bồn chồn muốn giữ cho chiếc đồng hồ siêu hình học chạy không bao giờ dừng là ý tưởng cho rằng việc thế giới không tồn tại cũng là một khả năng có thể xảy ra như việc thế giới tồn tại.
- William James
Trải nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có được là cái huyền bí. Đó là cảm xúc nền tảng đứng bên cạnh chiếc nôi nghệ thuật và khoa học chân chính. Bất cứ ai không biết đến nó và có thể không còn ngạc nhiên hay băn khoăn về nó, thì có khác nào đã chết, và đôi mắt anh ta đã mờ mất rồi.
- Albert Einstein
Năm 1863, Thomas H. Huxley đã viết: “Câu hỏi then chốt của mọi câu hỏi đối với nhân loại, vấn đề đứng đằng sau mọi vấn đề khác và thú vị hơn bất kỳ vấn đề nào trong đó, là xác định vị trí của con người trong tự nhiên và mối quan hệ của nó với Vũ trụ.” [218]
Huxley, bị gán cho biệt danh “con chó bulldog của Darwin”, là một người bảo vệ quyết liệt học thuyết tiến hóa trước một xã hội Anh vô cùng bảo thủ thời Victoria. Xã hội Anh coi nhân loại đứng kiêu hãnh ở trung tâm của Sáng thế, không chỉ vì hệ Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ, mà nhân loại cũng là thành tựu quan trọng nhất trong sáng tạo của Chúa, đỉnh cao của công trình thần thánh mà bàn tay Ngài tạo ra. Chúa đã tạo ra chúng ta theo hình ảnh của chính Ngài.
Bằng việc công khai thách thức tính chính thống tôn giáo này, Huxley đã phải bảo vệ học thuyết Darwin chống lại hàng loạt chỉ trích do bộ máy tôn giáo phát động, qua đó giúp thiết lập nên một sự hiểu biết mang tính khoa học hơn về vai trò của chúng ta trong cây phả hệ sự sống. Ngày nay, chúng ta công nhận rằng, trong số những người khổng lồ của khoa học, Newton, Einstein và Darwin giống như những nghĩa binh xác định vị trí chính đáng của chúng ta trong vũ trụ.
Mỗi người trong số họ đã vật lộn với các hệ lụy thần học và triết học trong công trình của mình để xác định vai trò của chúng ta trong vũ trụ. Trong phần kết luận của Những nguyên lý , Newton tuyên bố: “Hệ thống đẹp nhất gồm mặt trời, các hành tinh và các sao chổi chỉ có thể khởi nguồn từ dự định và quyền thống trị của một Đấng Chí tôn thông minh và quyền năng.” Nếu Newton đã phát hiện ra các định luật về chuyển động, thì chắc hẳn phải có một đấng thần linh áp đặt định luật.
Chính Einstein cũng tin vào sự tồn tại của một đấng cao xanh mà ông gọi là Ông Tạo (Old One), nhưng là Ngài đã không can thiệp vào công việc của con người. Mục tiêu của ông, thay vì tôn vinh Chúa, là để “đọc được Ý Chúa”. Ông vẫn thường nói: “Tôi muốn biết Chúa đã tạo ra thế giới này như thế nào. Tôi không quan tâm tới hiện tượng này hay hiện tượng kia. Tôi muốn biết những ý nghĩ của Chúa. Phần còn lại là các tiểu tiết.” [219] Einstein muốn biện minh cho mối quan tâm sâu sắc của ông tới các vấn đề thần học này khi kết luận: “Khoa học không có tôn giáo thì què quặt. Nhưng tôn giáo không có khoa học thì mù quáng.” [220]
Nhưng bản thân Darwin cũng bị chia rẽ vô vọng ở câu hỏi về vai trò của nhân loại trong vũ trụ. Mặc dù được ghi nhận là người đã phế truất loài người khỏi trung tâm của vũ trụ sinh học, nhưng ông đã thú nhận trong tự truyện của mình rằng: “Thật khó hay đúng hơn là không thể hiểu nổi vũ trụ bao la và kỳ diệu này, bao gồm cả con người với năng lực nhìn xa vào quá khứ và tương lai, lại là kết quả của một sự may rủi hoặc quy luật tất yếu.” Ông đã tâm sự với một người bạn: “Thần học của tôi chỉ đơn giản là một mớ lộn xộn.” [221]
Thật không may, việc xác định vị trí của con người trong tự nhiên và trong quan hệ với Vũ trụ” chứa đựng đầy rẫy nguy hiểm, nhất là đối với những ai dám thách thức giáo điều cứng nhắc của tôn giáo chính thống đang thống trị. Không phải ngẫu nhiên mà Nicolaus Copernicus lại viết cuốn sách tiên phong của ông, De Revolutionibus Orbium Coelestium (Bàn về chuyển động của các thiên thể) trên giường bệnh vào năm 1543, ngoài tầm tay bệnh hoạn của Tòa án dị giáo. Cũng là tất yếu việc Galileo, người đã được các nhà bảo trợ quyền uy trong gia tộc Medici bảo vệ quá lâu, cuối cùng cũng phải hứng chịu cơn thịnh nộ của Vatican và truyền bá một công cụ đã tiết lộ một vũ trụ mâu thuẫn sâu sắc với học thuyết của nhà thờ, kính thiên văn.
Sự pha trộn của khoa học, tôn giáo và triết học quả thật có tác động rất mạnh, dễ thay đổi tới mức nhà triết học vĩ đại Giordano Bruno đã bị thiêu sống trên giàn thiêu giữa phố phường Rome vào năm 1600 vì không chịu từ bỏ niềm tin về sự tồn tại của vô số các hành tinh trên trời, là nơi chứa vô số các sinh vật. Ông đã viết: “Như thế thì sự xuất sắc của Chúa đã được khuếch đại và sự vĩ đại của vương quốc của Ngài đã trở nên hiển nhiên; Ngài được tôn vinh không chỉ trong một, mà trong cơ man các mặt trời, không chỉ trên một trái đất duy nhất, một thế giới duy nhất, mà trong hàng nghìn hàng nghìn, ý tôi là trong vô hạn các thế giới.” [222]
Tội lỗi của Galileo và Bruno không phải là họ dám tiết lộ các quy luật của trời cao; tội lỗi thật sự của họ là đã phế truất loài người khỏi vị trí cao quý của nó ở trung tâm vũ trụ. Phải mất trên 350 năm, cho tới năm 1992, Vatican mới đưa ra lời xin lỗi muộn màng đối với Galileo. Cho tới nay không một lời xin lỗi nào được đưa ra đối với Bruno.
VIỄN CẢNH LỊCH SỬ
Kể từ thời Galileo, một loạt các cuộc cách mạng đã lật ngược quan niệm của chúng ta về vũ trụ và vai trò của chúng ta trong đó. Trong suốt thời Trung đại, vũ trụ đã được xem là một cấm địa tăm tối. Trái Đất giống như một sân khấu nhỏ bằng phẳng đầy thối nát và tội lỗi, được một thiên cầu bí ẩn bao quanh, nơi các điềm báo như sao chổi có thể làm vua chúa và dân thường kinh hãi. Và nếu chúng ta thiếu lòng tôn kính Chúa và giáo hội của mình, chúng ta sẽ đối mặt với sự phẫn nộ của các nhà phê bình sân khấu là các thành viên tự cho mình là đúng của Tòa án dị giáo và các công cụ khuất phục gớm ghiếc của họ.
Newton và Einstein đã giải thoát chúng ta khỏi mê tín dị đoan và chủ nghĩa thần bí của quá khứ. Newton đã cho chúng ta các định luật cơ học chính xác dẫn dắt mọi thiên thể, bao gồm cả thiên thể của chính chúng ta. Trên thực tế, các định luật này chính xác tới mức con người đã trở thành những con vẹt học thuộc lòng chúng. Einstein đã cách mạng hóa cách chúng ta xem xét sân khấu cuộc sống. Không những chúng ta không thể định rõ một phép đo thời gian và không gian thống nhất, mà bản thân sân khấu cũng cong. Sân khấu không chỉ được thay thế bằng một tấm cao su bị kéo dãn, mà nó cũng đang dãn nở.
Cuộc cách mạng lượng tử đã vẽ nên một bức tranh thậm chí còn kỳ quái hơn về thế giới. Một mặt, thuyết tất định sụp đổ, có nghĩa là các con rối biểu diễn đã được phép cắt bỏ dây dợ ràng buộc và tự đọc các câu thoại của chính mình. Ý chí tự do đã được khôi phục, nhưng cái giá phải trả là có nhiều kết quả khác nhau và không chắc chắn. Điều này có nghĩa là các diễn viên có thể ở hai nơi cùng một lúc và có thể thoắt ẩn thoắt hiện. Ta không thể đoán trước chắc chắn một diễn viên sẽ xuất hiện ở đâu và vào lúc nào trên sân khấu.
Giờ đây, quan niệm về đa vũ trụ đã làm thay đổi mạnh mẽ thế giới quan của chúng ta, khiến chính khái niệm “vũ trụ” có thể trở nên lỗi thời. Với đa vũ trụ, sẽ có các sân khấu song song, sân khấu này nằm trên sân khấu kia, với các cửa sập và các đường hầm ẩn nối liền chúng. Trên thực tế, các sân khấu lại làm nảy sinh các sân khấu khác, trong một quá trình Sáng thế không ngừng nghỉ. Trên từng sân khấu, lại xuất hiện các định luật mới của vật lý. Và có lẽ chỉ trên một ít các sân khấu này thì các điều kiện cho sự sống và ý thức mới được đáp ứng.
Ngày nay, chúng ta là các diễn viên đang sống trong hồi 1, tại thời kỳ bắt đầu khám phá các kỳ quan vũ trụ của sân khấu này. Trong hồi 2, nếu chúng ta không tự hủy diệt hành tinh của mình bằng chiến tranh hay ô nhiễm, thì chúng ta có thể có khả năng rời khỏi Trái Đất và khám phá các vì sao cùng các thiên thể khác. Nhưng hiện nay chúng ta đang ý thức được rằng có một cảnh cuối, là hồi 3, khi vở kịch kết thúc, và tất cả các diễn viên sẽ bỏ mạng. Trong hồi 3, sân khấu trở nên lạnh tới mức sự sống không thể tồn tại. Sự cứu nguy duy nhất là tất cả rời bỏ sân khấu thông qua một cửa sập và lại bắt đầu từ đầu bằng một vở kịch mới trên sân khấu mới.
NGUYÊN LÝ COPERNICUS ĐỐI LẬP VỚI NGUYÊN LÝ VỊ NHÂN
Rõ ràng, trong quá trình chuyển đổi từ chủ nghĩa thần bí thời Trung đại tới vật lý lượng từ ngày nay, vai trò và vị trí của chúng ta trong vũ trụ đã chuyển dịch mạnh mẽ sau mỗi cuộc cách mạng khoa học. Thế giới của chúng ta đã được mở rộng theo cấp số mũ, buộc chúng ta phải thay đổi quan niệm về bản thân. Khi xem xét tiến trình lịch sử này, đôi khi tôi bị chi phối bởi hai cảm xúc trái ngược, khi tôi chiêm ngưỡng hằng hà sa số các ngôi sao trên trời hoặc suy ngẫm về vô số hình thái sự sống trên Trái Đất. Một mặt, tôi cảm thấy nhỏ bé trước sự bao la của vũ trụ. Khi suy ngẫm về sự mở rộng mênh mông, trống rỗng của vũ trụ, Blaise Pascal từng viết: “Sự im lặng vĩnh cửu của những khoảng không vô hạn này làm tôi khiếp sợ.” [223] Mặt khác, tôi hoàn toàn bị mê hoặc bởi sự sống đa dạng tuyệt vời và tính phức tạp tinh tế của thế giới sinh vật đang tồn tại.
Ngày nay, khi tiếp cận vấn đề xác quyết một cách khoa học vai trò của chúng ta trong vũ trụ, trong cộng đồng vật lý xuất hiện hai quan điểm triết lý ở hai thái cực: nguyên lý Copernicus và nguyên lý vị nhân.
Nguyên lý Copernicus phát biểu rằng vị trí của chúng ta trong vũ trụ không có gì đặc biệt. (Một số người thích đùa đã đặt tên là nguyên lý tính xoàng xĩnh.) Cho đến nay, mọi phát hiện thiên văn dường như xác nhận quan điểm này. Không chỉ riêng Copernicus trục xuất Trái Đất ra khỏi trung tâm vũ trụ, mà Hubble còn hất cẳng cả Ngân Hà ra khỏi vị trí trung tâm vũ trụ, thay vào đó cho chúng ta một vũ trụ đang dãn nở của hàng tỉ thiên hà. Phát hiện gần đây về vật chất tối và năng lượng tối nhấn mạnh một thực tế rằng các nguyên tố hóa học bậc cao tạo nên cơ thể chúng ta chỉ chiếm 0,03% tổng vật chất/năng lượng của vũ trụ. Với thuyết lạm phát, chúng ta phải nhìn nhận rằng vũ trụ có thể nhìn thấy được chỉ giống như một hạt cát nằm trong một vũ trụ phẳng lớn hơn nhiều, và bản thân vũ trụ này có thể đang không ngừng sinh ra những vũ trụ mới. Và cuối cùng, nếu thuyết M được chứng tỏ là đúng, thì chúng ta phải đối mặt với khả năng rằng ngay cả số chiều quen thuộc của không gian và thời gian cũng phải được mở rộng tới mười một chiều. Không chỉ chúng ta đã bị trục xuất khỏi trung tâm vũ trụ, mà ngay cả vũ trụ có thể nhìn thấy được cũng chỉ là một phần nhỏ của một đa vũ trụ lớn hơn nhiều.
Trước quy mô to lớn của nhận thức này, hẳn có người nhớ tới bài thơ của Stephen Crane, trong đó viết:
Trước vũ trụ, con người lên tiếng:
“Kính thưa ngài, tôi đã tới đây.”
Vũ trụ đáp: “Hỡi ôi, anh bạn,
Với ta, nào có khác chi đâu,
Đi hay đến, có là quên lãng?” [224]
(Người ta lại nhớ đến truyện khoa học giả tưởng của Douglas Adams, Hitchhiker’s Guide to the Galaxy , trong đó có một thiết bị được gọi là Máy cuộn xoáy ngoại suy toàn bộ vũ trụ [Total Perspective Vortex], bảo đảm biến đổi bất kỳ người nào có đầu óc bình thường thành một kẻ mất trí. Bên trong buồng máy là bản đồ của toàn thể vũ trụ, có một mũi tên nhỏ đánh dấu “Bạn đang ở đây”.)
Nhưng ở thái cực kia, chúng ta có nguyên lý vị nhân, khiến chúng ta nhận thức rằng một tập hợp thần kỳ các “ngẫu nhiên” đã khiến ý thức có thể xuất hiện trong vũ trụ ba chiều của chúng ta. Có một dải hẹp đến kỳ lạ chứa các tham số làm cho sự sống có trí tuệ trở thành hiện thực, và chúng ta ngẫu nhiên xuất hiện trong dải này. Sự ổn định của proton, kích thước của các ngôi sao, sự tồn tại của các nguyên tố bậc cao, v.v. tất cả dường như được tinh chỉnh để phù hợp với các hình thái phức tạp của sự sống và sự sống có ý thức. Người ta có thể tranh luận liệu hoàn cảnh tình cờ này có phải là một thiết kế hay chỉ là một sự ngẫu nhiên, nhưng không ai có thể bác bỏ sự điều chỉnh tinh tế cần thiết cho sự tồn tại của chúng ta.
Stephen Hawking nhận xét: “Nếu tốc độ dãn nở của vũ trụ [tại] một giây sau vụ nổ lớn nhỏ hơn chỉ một phần một trăm tỉ, nó [vũ trụ] có thể đã suy sụp lại trước khi đạt tới kích thước hiện tại… Quan điểm chống lại việc một vũ trụ như của chúng ta sinh ra từ một thứ đại loại như vụ nổ lớn có cơ thắng thế. Tôi nghĩ rõ ràng là có các hàm ý tôn giáo.” [225]
Chúng ta thường không đánh giá đúng sự sống và ý thức thực sự quý giá như thế nào. Chúng ta thường quên rằng nước là một trong những chất quý báu nhất trong vũ trụ, mà trong hệ Mặt Trời chỉ có ở Trái Đất (và có lẽ ở Europa, một vệ tinh của sao Mộc) mới có nước tồn tại ở thể lỏng với lượng đáng kể, có lẽ thậm chí trong cả khu vực này của thiên hà. Cũng có khả năng bộ não con người là vật thể tự nhiên phức tạp nhất được tạo ra trong hệ Mặt Trời, có lẽ xét trong cả ngôi sao gần nhất. Khi xem những bức ảnh sinh động về địa hình không có sự sống của sao Hỏa hay sao Kim, chúng ta sững người vì những bề mặt đó hoàn toàn không có các thành phố với những ánh đèn, hoặc ngay cả các hóa chất hữu cơ phức tạp của sự sống. Vô số thế giới tồn tại trong không gian sâu thẳm không hề có sự sống, chứ chưa nói đến sự sống có trí tuệ. Điều này lẽ ra phải làm cho chúng ta đánh giá đúng sự sống là mong manh như thế nào và sự sống sinh sôi trên Trái Đất quả thật là một điều kỳ diệu.
Nguyên lý Copernicus và nguyên lý vị nhân ở chừng mực nào đó là các quan điểm đối lập giới hạn các thái cực về tồn tại của loài người và giúp chúng ta hiểu được vai trò thật sự của mình trong vũ trụ. Trong khi nguyên lý Copernicus buộc chúng ta phải đương đầu với sự bao la vô cùng của vũ trụ, và có lẽ cả đa vũ trụ, thì nguyên lý vị nhân buộc chúng ta nhận thức được rằng sự sống và ý thức thực sự khan hiếm như thế nào.
Nhưng cuối cùng cuộc tranh luận giữa nguyên lý Copernicus và nguyên lý vị nhân không thể xác định vai trò của chúng ta trong vũ trụ, trừ phi chúng ta xem xét câu hỏi này từ một góc nhìn thậm chí còn lớn hơn, từ quan điểm của thuyết lượng tử.
Ý NGHĨA LƯỢNG TỬ
Thế giới quan của khoa học lượng tử đã làm khá sáng tỏ câu hỏi về vai trò của chúng ta trong vũ trụ, nhưng từ một quan điểm khác. Nếu ai đó tán thành diễn giải của Wigner cho vấn đề con mèo Schrödinger, thì chúng ta nhất thiết phải thấy tác động của ý thức ở khắp mọi nơi. Một chuỗi vô hạn các nhà quan sát, mỗi một người lại đang quan sát người quan sát trước đó, cuối cùng dẫn tới một người quan sát cả vũ trụ, có lẽ đó là chính Thượng Đế Trong bức tranh này, vũ trụ tồn tại bởi vì có một vị thần quan sát nó. Và nếu diễn giải của Wheeler là đúng thì toàn thể vũ trụ bị ý thức và thông tin chi phối. Trong bức tranh này, ý thức là lực lượng quan trọng nhất xác định bản chất của sự tồn tại.
Quan điểm của Wigner là nguồn cảm hứng để Ronnie Knox sáng tác ra bài thơ về một cuộc gặp bất ngờ giữa một người hoài nghi và Thượng Đế, đang trầm tư suy nghĩ xem một nhành cây có tồn tại trong sân hay không khi chẳng có ai ở đó quan sát nó:
Xưa có người đã nói: “Thượng Đế
Nghĩ suy gì mà kỳ cục thế
Nếu Ngài thấy có một cái cây
Vẫn tiếp tục tồn tại ở đây
Nơi sân vắng chẳng ma nào quan sát.”
Một kẻ thích đùa vô danh liền họa lại:
Người thân mến, ngạc nhiên kỳ thế
Ta vẫn ở sân vắng nơi đấy
Đó chính là lý do cái cây
Sẽ tiếp tục tồn tại ở đây,
Vì Thượng Đế là người quan sát. [226]
Nói cách khác, cái cây tồn tại trong sân vì một nhà quan sát lượng tử luôn ở đó để làm sụp đổ hàm sóng - đó là chính Thượng Đế.
Diễn giải của Wigner đặt ra câu hỏi về ý thức ở chính giữa lòng nền tảng vật lý. Ông lặp lại lời của nhà thiên văn vĩ đại James Jeans, người đã từng viết “Năm mươi năm trước vũ trụ nói chung được nhìn nhận như là một cỗ máy... Khi chúng ta vượt qua các thái cực của kích thước theo bất cứ hướng nào trong hai hướng - toàn thể vũ trụ rộng lớn, hoặc cấu trúc nhỏ trong nguyên tử - thì cách diễn giải cơ học về Tự nhiên thất bại. Chúng ta hiểu được rằng các thực thể và các hiện tượng không hề mang tính cơ học. Đối với tôi chúng dường như ít gợi đến các quá trình cơ học hơn là đến các quá trình tinh thần; vũ trụ dường như gần giống với một tư tưởng lớn hơn là với một cỗ máy lớn.” [227]
Diễn giải này có lẽ đạt được hình thức đầy tham vọng nhất của nó trong thuyết “nó từ bit” của Wheeler. Không chỉ chúng ta thích nghi với vũ trụ. Vũ trụ cũng thích nghi với chúng ta.” [228] Nói cách khác, theo nghĩa nào đó thì chúng ta tạo ra thực tại của chính mình bằng cách thực hiện các quan sát. Ông gọi điều này là “Sáng thế bằng quan sát”. Wheeler tuyên bố rằng chúng ta sống trong một “vũ trụ can dự”.
Những lời này được nhà sinh vật học đạt giải Nobel George Wald hưởng ứng, ông viết: “Thật đáng buồn khi là một nguyên tử trong một vũ trụ không có các nhà vật lý. Và các nhà vật lý được làm từ các nguyên tử. Một nhà vật lý là cách thức để nguyên tử biết về các nguyên tử.” Vị mục sư phái nhất thể Gary Kowalski bày tỏ tóm tắt niềm tin này: Vũ trụ, có thể nói, tồn tại để tán dương nó và say mê vẻ đẹp của chính nó. Và nếu loài người là một mặt của vũ trụ đang phát triển tiến tới nhận thức về chính nó, thì mục đích tồn tại của chúng ta chắc chắn phải là bảo tồn và duy trì mãi mãi thế giới này, cũng như nghiên cứu nó, chứ không phải tước đoạt hay phá hủy những thứ đã phải mất nhiều thời gian để tạo ra.” [229]
Theo cách lập luận này, vũ trụ có một mục đích: tạo ra các sinh vật có tri giác như chúng ta để có thể quan sát nó khiến cho nó tồn tại . Theo góc nhìn này, sự tồn tại thật sự của vũ trụ phụ thuộc vào khả năng nó tạo ra các sinh vật có trí tuệ để quan sát và làm sụp đổ hàm sóng của nó.
Người ta có thể thỏa mãn với diễn giải của Wigner về thuyết lượng tử. Tuy nhiên, có một diễn giải khác, diễn giải đa thế giới, cho chúng ta một quan niệm hoàn toàn khác về vai trò của nhân loại trong vũ trụ. Trong diễn giải đa thế giới, con mèo Schrödinger có thể đồng thời vừa chết vừa sống, đơn giản chỉ vì bản thân vũ trụ đã chia thành hai vũ trụ tách biệt.
Ý NGHĨA TRONG ĐA VŨ TRỤ
Dễ dàng lạc đường trong vô số các vũ trụ của thuyết đa thế giới. Các hàm ý đạo đức của các vũ trụ lượng tử song song này được khám phá trong một truyện ngắn nhan đề “Vạn con đường” (All the Myriad Ways) của Larry Niven. Trong câu chuyện, trung úy trinh thám* Gene Trimble điều tra một chuỗi các vụ tự tử bí ẩn. Đột nhiên, trên toàn thị trấn nọ, những cư dân không hề có tiền sử về các vấn đề tâm thần bỗng nhảy cầu tự tử, tự bắn vỡ đầu mình, hoặc thậm chí phạm tội giết người hàng loạt. Bí ẩn tăng thêm khi Ambrose Harmon, nhà tỉ phú sáng lập của Tập đoàn Crosstime*, nhảy lầu tự tử từ căn hộ sang trọng của mình trên tầng 36 sau khi thắng 500 đô la tại một bàn chơi xì phé. Giàu có, quyền thế, quan hệ rộng, ông ta có mọi thứ để ham sống; do vậy, vụ tự tử của ông ta thật vô lý. Nhưng cuối cùng Trimble phát hiện ra một quy luật. Hai mươi phần trăm phi công của Tập đoàn Crosstime đã tự sát, quả thật, các vụ tự tử đã bắt đầu một tháng sau khi thành lập Crosstime.
Đào sâu hơn vụ việc, thám tử thấy rằng Harmon đã được thừa kế khối tài sản lớn từ ông bà và hoang phí nó vào các vụ đánh cược ngu xuẩn. Ông ta có nguy cơ mất toàn bộ tài sản, nhưng chỉ một canh bạc đã thanh toán hết nợ. Ông đã tập hợp một nhóm các nhà vật lý, kỹ sư và triết gia để nghiên cứu các con đường thời gian song song có thể có. Cuối cùng, họ đã tìm ra một con tàu có thể tiến vào một tuyến thời gian mới, và viên phi công nhanh chóng mang về một phát minh mới từ Hợp bang Hoa Kỳ (Confederate States of America)*. Crosstime sau đó đã cấp vốn cho hàng trăm phi vụ tới tuyến thời gian song song, nơi họ sẽ tìm ra những phát minh mới có thể đem về và xin cấp bằng sáng chế. Rất nhanh chóng, Crosstime trở thành một tập đoàn tỉ đô, nắm giữ các bằng sáng chế đẳng cấp thế giới quan trọng nhất ở thời đại chúng ta. Như thể Crosstime sẽ trở thành tập đoàn thành công bậc nhất, với Harmon là người lãnh đạo.
Mỗi tuyến thời gian họ tìm thấy lại rất khác nhau. Các phi công đã tìm thấy Đế quốc Công giáo, nước Mỹ của thổ dân da đỏ, Đế quốc Nga, và vô số các thế giới đầy phóng xạ chết chóc là tàn tích của chiến tranh hạt nhân. Nhưng cuối cùng, họ đã tìm thấy điều gây lo ngại sâu sắc: các bản sao giống y như chính họ, nhưng với một sự méo mó kỳ quái. Trong các thế giới này, dù họ làm điều gì, mọi chuyện đều có thể xảy ra bất kể họ làm việc cực nhọc như thế nào, họ có thể thấy rõ các ước mơ quái dị nhất của mình hoặc sống qua cơn ác mộng méo mó nhất của mình. Bất cứ điều gì họ làm, trong một số vũ trụ họ thành công, còn trong một số vũ trụ khác họ thất bại hoàn toàn. Bất kể việc làm đó là gì, vô số các bản sao của chính họ đưa ra các quyết định trái ngược và gặt hái tất cả các kết quả có thể. Tại sao không trở thành một kẻ cướp ngân hàng nếu, trong vũ trụ nào đó, bạn sẽ không bị trừng phạt?
Trimble nghĩ: “Chẳng có may mắn ở bất kỳ nơi nào. Mỗi quyết định đã được đưa ra theo cả hai cách. Dù mất nhiều tâm huyết để đưa ra một lựa chọn khôn ngoan, nhưng cùng lúc tất cả các lựa chọn khác cũng được thực hiện. Thế là cứ diễn tiến như vậy, trong suốt lịch sử.” Trimble cảm thấy vô cùng tuyệt vọng khi đạt đến sự nhận thức vặn siết tâm hồn: trong một vũ trụ mà mọi thứ đều có thể xảy ra, không có gì mang ý nghĩa đạo đức cả. Anh không chịu nổi sự tuyệt vọng vì nhận ra rằng cuối cùng chúng ta không kiểm soát nổi số phận của mình, rằng bất kể chúng ta ra quyết định như thế nào, kết quả không nghĩa lý gì.
Cuối cùng, anh quyết định noi theo tấm gương của Harmon. [230] Anh rút khẩu súng ra và nhắm vào đầu mình. Nhưng ngay cả khi anh bóp cò, vẫn có vô số các vũ trụ mà trong đó khẩu súng tịt, viên đạn bắn lên trần nhà, viên đạn giết chết anh, v.v. Quyết định cuối cùng của Trimble chỉ thuộc một trong vô số các vũ trụ ấy.
Khi tưởng tượng về đa vũ trụ lượng tử, chúng ta đối diện, như Trimble trong câu chuyện trên, với khả năng rằng mặc dù các bản thể song song của chúng ta đang sống trong các vũ trụ lượng tử khác nhau có thể có chính xác cùng mã di truyền ấy, nhưng tại các thời khắc quan trọng của cuộc sống, các cơ hội, các ông thầy dẫn đường chỉ lối và những ước mơ của chúng ta có thể dẫn chúng ta xuôi theo những con đường khác nhau, dẫn tới những diễn biến cuộc sống và số phận khác nhau.
Một dạng của thế lưỡng nan này thực sự sẽ xảy đến với chúng ta. Nó chỉ là vấn đề thời gian, có lẽ một vài thập kỷ, trước khi việc nhân bản vô tính di truyền của con người trở thành một thực tế thường nhật của cuộc sống. Mặc dù nhân bản vô tính người là vô cùng khó khăn (trên thực tế, chưa thể nhân bản đầy đủ một động vật linh trưởng, chứ chưa nói tới một con người) và gây ra lo lắng sâu sắc về tính đạo đức, nhưng tất yếu đến một lúc nào đó việc này sẽ xảy ra. Và khi ấy, câu hỏi đặt ra là: các bản sao vô tính của chúng ta có tâm hồn không? Chúng ta có phải chịu trách nhiệm về hành động của các bản sao của mình không? Trong một vũ trụ lượng tử, chúng ta sẽ có vô số các bản sao lượng tử. Vì một vài bản sao trong số đó có thể thực hiện những hành vi xấu xa, vậy khi đó chúng ta có phải chịu trách nhiệm về họ không? Liệu tâm hồn của chúng ta có phải đau khổ vì những lỗi lầm của các bản sao lượng tử ấy?
Có một cách giải quyết cho cuộc khủng hoảng tồn tại lượng tử này. Nếu chúng ta nhìn lướt qua đa vũ trụ của vô số các thế giới, chúng ta có thể bị choáng ngợp trước tính ngẫu nhiên gây sửng sốt của số phận, nhưng trong mỗi thế giới thì các quy luật nhân quả thông thường nói chung vẫn luôn đúng. Trong thuyết đa vũ trụ do các nhà vật lý đề xuất, mỗi vũ trụ khác biệt tuần theo các định luật giống như các định luật Newton ở cấp độ vĩ mô, do đó chúng ta có thể sống một cách thoải mái, vì biết rằng kết quả từ hành động của chúng ta phần nhiều có thể dự đoán được. Trong mỗi vũ trụ, thường thì các quy luật nhân quả vẫn có hiệu lực một cách cứng nhắc. Tức là, nếu chúng ta phạm tội, thì nhiều khả năng chúng ta sẽ đi tù. Chúng ta có thể vui sống mà không cần quan tâm tới tất cả các thực tại song song cùng tồn tại với chúng ta.
Nó làm tôi nhớ đến câu chuyện bịa mà các nhà vật lý thỉnh thoảng vẫn kể cho nhau nghe. Một hôm, một nhà vật lý từ Nga đã được đưa đến Las Vegas. Ông lóa mắt trước sự sang trọng và cám dỗ của chủ nghĩa tư bản mà thành phố tội lỗi này đã phô bày ra. Ông đi ngay tới các bàn cờ bạc và đặt tất cả tiền bạc của mình vào khoản đặt cược đầu tiên. Khi người ta nói với ông rằng đây là một chiến lược chơi ngu ngốc, rằng chiến lược của ông đã đi ngược lại các định luật toán học và xác suất, thì ông đáp: “Vâng, đúng vậy, nhưng trong một vũ trụ lượng tử, tôi sẽ giàu có!” Nhà vật lý người Nga có thể đã đúng và trong thế giới song song nào đó có thể ông đang hưởng thụ sự giàu có vượt quá sức tưởng tượng của mình. Nhưng trong vũ trụ cụ thể này thì ông thua cháy túi. Và chắc chắn ông phải gánh chịu các hậu quả.
CÁC NHÀ VẬT LÝ NGHĨ GÌ VỀ Ý NGHĨA CỦA VŨ TRỤ
Cuộc tranh luận về ý nghĩa của sự sống đã được khuấy động thậm chí còn nhiều hơn bởi tuyên bố khích động của Steven Weinberg trong cuốn sách The First Three Minutes (Ba phút đầu tiên). Ông viết: “Dường như càng hiểu về vũ trụ bao nhiêu, thì nó càng vô nghĩa bấy nhiêu… Nỗ lực để hiểu vũ trụ là một trong số rất ít điều nâng cuộc sống của con người lên trên mức độ hài kịch một chút, và cho nó một chút ân điển của bi kịch.” [231] Weinberg đã thú nhận rằng trong tất cả các câu ông đã viết, câu này làm dấy lên những phản ứng dữ dội nhất. Sau đó ông đã tạo ra một cuộc tranh cãi khác bằng bình luận: “Có hay không có tôn giáo, thì người tốt vẫn có thể cư xử tốt và người xấu có thể làm điều xấu, nhưng việc người tốt làm điều xấu thì cần đến vai trò của tôn giáo.” [232]
Weinberg dường như cảm thấy khoái trá ranh mãnh khi khuấy đảo, chòng ghẹo thái độ tự phụ của những người tự nhận là có hiểu biết sâu sắc về ý nghĩa của vũ trụ. “Trong nhiều năm, tôi đã là một kẻ phàm tục vui nhộn trong các vấn đề triết học,” ông thú nhận. Giống như Shakespeare, ông tin rằng cả thế giới là một sân khấu “nhưng bi kịch không nằm ở kịch bản, mà bị kịch là ở chỗ không có kịch bản.” [233]
Weinberg tán thành những lời nói của nhà sinh vật học Richard Dawkins, thành viên Ban quản trị Đại học Oxford, người từng tuyên bố: “Trong một vũ trụ của các lực vật lý mù quáng… một số người sẽ bị tổn thương, những người khác sẽ gặp may mắn, còn bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ nghĩa lý gì trong nó, và cũng chẳng có công lý nào cả. Vũ trụ mà chúng ta quan sát sẽ có đúng những tính chất mà chúng ta mong đợi nếu, về bản chất, không có bản thiết kế, không có mục đích, không xấu mà cũng không tốt, không có gì ngoài sự dửng dưng mù quáng, tàn nhẫn.” [234]
Về bản chất, Weinberg đang đặt ra một thách thức. Nếu con người tin rằng vũ trụ có một ý nghĩa, thì ý nghĩa đó là gì? Khi các nhà thiên văn ngắm nhìn vũ trụ mênh mông, với các ngôi sao kềnh lớn hơn Mặt Trời gấp bội đang sinh ra và chết đi trong một vũ trụ dãn nở dữ dội trong hàng tỉ năm, thật khó biết được làm sao mà tất cả những thứ này lại có thể được sắp xếp một cách chính xác với mục đích để cho loài người cư trú trên một hành tinh bé tí xoay quanh một ngôi sao mờ nhạt.
Mặc dù các phát biểu của Weinberg đã gây ra nhiều sóng gió, nhưng rất ít các nhà khoa học đứng lên chống lại chúng. Nhưng khi Alan Lightman và Roberta Brawer phỏng vấn một nhóm các nhà vũ trụ học xuất chúng để hỏi xem họ có đồng ý với Weinberg hay không, thì điều thú vị là chỉ một số ít chấp nhận đánh giá khá ảm đạm của Weinberg về vũ trụ. Một nhà khoa học kiên quyết theo phe Weinberg là Sandra Faber từ Đài quan sát Lick và Đại học California tại Santa Cruz đã nói: “Tôi không tin rằng Trái Đất đã được tạo ra cho con người. Nó là một hành tinh được tạo ra bởi các quá trình tự nhiên, trong đó sự sống và sự sống có trí tuệ đã xuất hiện như một phần tiếp tục của tiến trình tự nhiên đó. Cũng đúng như vậy, tôi nghĩ rằng vũ trụ đã được tạo ra từ một quá trình tự nhiên nào đó, và sự xuất hiện của chúng ta trong nó là kết quả hoàn toàn tự nhiên của các định luật vật lý trong phần cụ thể đó của vũ trụ. Tôi nghĩ trong vấn đề này ẩn chứa một động lực nào đó có mục đích vượt lên trên sự tồn tại của con người. Tôi không tin rằng nó được tạo ra cho con người. Vì vậy, tôi nghĩ rốt cuộc mình đồng ý với Weinberg rằng dưới góc nhìn của con người thì nó hoàn toàn vô nghĩa.” [235]
Nhưng số đông các nhà vũ trụ học nghĩ rằng Weinberg đã sai lầm, rằng vũ trụ có một ý nghĩa, ngay cả khi họ không thể nói rõ ràng về điều đó.
Margaret Geller, một giáo sư từ Đại học Harvard, đã nói: “Quan điểm của tôi về cuộc sống là nó rất ngắn ngủi. Như vậy phải tích lũy kinh nghiệm sống càng phong phú càng tốt. Đó là những gì tôi đang cố gắng làm. Tôi đang cố gắng làm một điều gì đó có tính sáng tạo. Tôi cố gắng giáo dục con người.” [236]
Và vài người trong số họ quả thật đã nhìn thấy một ý nghĩa của vũ trụ trong công trình do chính tay Chúa làm. Don Page từ Đại học Alberta, một học trò cũ của Stephen Hawking, đã nói: “Vâng, tôi có thể nói dứt khoát là có một mục đích. Tôi không biết tất cả các mục đích là gì, nhưng tôi nghĩ rằng một trong số các mục đích là Chúa tạo ra con người để làm bạn với Chúa. Một mục đích lớn hơn có lẽ để tôn vinh Chúa.” Ông thậm chí Còn thấy bàn tay của Chúa thể hiện trong các quy tắc trừu tượng của vật lý lượng tử: “Theo một nghĩa nào đó, các định luật vật lý dường như tương tự với thứ ngữ pháp và ngôn ngữ mà Chúa đã chọn để sử dụng.” [237]
Charles Misner từ Đại học Maryland, một trong những người tiên phong phân tích thuyết tương đối rộng của Einstein, có chung lập trường với Page: “Tôi cảm thấy trong tôn giáo có những điều rất nghiêm túc, như sự tồn tại của Chúa và tình bằng hữu của loài người, đó là những chân lý nghiêm túc mà một ngày nào đó chúng ta sẽ biết cách đánh giá đúng, có lẽ bằng một ngôn ngữ khác trên một quy mô khác… Vì vậy, tôi nghĩ rằng có những chân lý thực sự ở đó, và theo nghĩa nào đó thì vẻ hùng vĩ của vũ trụ là có ý nghĩa, và chúng ta mắc nợ Đấng Sáng thế lòng tôn kính và sự nể sợ.” [238]
Hoài nghi về Đấng Sáng thế làm nảy sinh câu hỏi: khoa học có thể nói gì về sự tồn tại của Chúa? Nhà thần học Paul Tillich đã nói rằng các nhà vật lý là các nhà khoa học duy nhất có thể nói từ “Chúa” mà không xấu hổ [239] . Thật vậy, nhà vật lý đơn thương độc mã giữa các nhà khoa học khi giải quyết một trong những câu hỏi lớn nhất của nhân loại: Có một thiết kế vĩ đại hay không? Và nếu có, thì có một nhà thiết kế hay không? Con đường đúng đắn tiến tới chân lý là gì, lý trí hay mặc khải?
Thuyết dây cho phép chúng ta xem xét các hạt hạ nguyên tử như các nốt nhạc trên một dây đàn đang rung, các định luật hóa học tương ứng với các giai điệu mà người ta có thể chơi trên các dây; các định luật vật lý tương ứng với các quy luật hòa âm chi phối các dây; vũ trụ là bản giao hưởng của các dây; và ý nghĩ của Chúa có thể được xem như là bản nhạc vũ trụ đang ngân vang trong khắp siêu không gian. Nếu điều ví von này là xác thực, câu hỏi đặt ra tiếp theo: có một nhà soạn nhạc hay không? Liệu có ai đó đã thiết kế ra một thuyết chấp nhận sự phong phú của các vũ trụ có thể có mà chúng ta thấy trong thuyết dây hay không? Nếu vũ trụ giống như một chiếc đồng hồ đã được tinh chỉnh, liệu có một người thợ làm đồng hồ hay không?
Theo cách hiểu này, thuyết dây rọi một chút ánh sáng vào câu hỏi: Chúa đã có một sự lựa chọn hay không? Bất cứ khi nào Einstein sắp tạo ra các thuyết vũ trụ của mình, ông luôn đặt câu hỏi: tôi sẽ thiết kế vũ trụ như thế nào? Ông nghiêng về phía ý tưởng rằng có lẽ Chúa đã không có sự lựa chọn trong vấn đề này. Thuyết dây dường như xác nhận cách tiếp cận này. Khi chúng ta kết hợp thuyết tương đối với thuyết lượng tử, chúng ta thấy các thuyết chứa đầy các khiếm khuyết ẩn khuất nhưng chí tử: các phân kỳ thổi bay và các dị thường phá hỏng các đối xứng của thuyết. Chỉ bằng cách kết hợp các đối xứng mạnh mới có thể loại trừ các phân kỳ và các dị thường này, và thuyết M sở hữu các đối xứng mạnh nhất trong số này. Như vậy, có lẽ, có thể có một thuyết độc nhất vô nhị tuân theo tất cả các định đề cơ bản mà chúng ta mong muốn trong một thuyết.
Einstein, người thường xuyên viết nhiều về Ông Tạo, từng được hỏi về sự tồn tại của Chúa. Ông cho rằng có hai dạng chúa. Chúa đầu tiên là chúa cá nhân, chúa trả lời những lời cầu nguyện, chúa của Abraham, Isaac, Moses, chúa rẽ các vùng nước và thực hiện các phép màu. Tuy nhiên, đây không phải là Chúa mà phần lớn các nhà khoa học nhất thiết phải tin.
Einstein từng viết ông tin vào “Chúa của Spinoza*, hiện thân trong sự hài hòa có trật tự của những gì tồn tại, không phải một vị Chúa lo toan về những số phận và hành động của con người” [240] . Vị chúa của Spinoza và Einstein là chúa của sự hài hòa, chúa của lý trí và logic. Einstein viết: “Tôi không thể hình dung nổi một vị Chúa lại ban thưởng và trừng phạt các đối tượng mà mình sáng tạo ra… Tôi cũng không tin rằng một cá nhân có thể sống vượt qua cái chết của thể xác anh ta.” [241]
(Trong Inferno (Địa ngục)* của Dante, tầng ngục thứ nhất nằm gần lối vào Địa ngục có những người nhân từ và thuần hậu nhưng không thừa nhận đầy đủ Jesus Christ là Chúa của mình. Trong tầng thứ nhất, Dante thấy có Plato và Aristotle cùng các nhà tư tưởng và các danh nhân khác. Như nhà vật lý Wilczek nhận xét: “Chúng ta ngờ rằng rất nhiều, có lẽ là phần lớn, các nhà khoa học hiện đại sẽ tìm thấy con đường của họ tới tầng thứ nhất.” [242] ) Người ta cũng có thể tìm thấy Mark Twain trong tầng một nổi tiếng đó. Twain đã từng định nghĩa đức tin là “tin vào điều bất kỳ con lừa chết tiệt nào cũng biết là không đúng”. [243]
Cá nhân tôi, từ quan điểm thuần túy khoa học, nghĩ rằng có lẽ luận cứ thuyết phục nhất ủng hộ sự tồn tại của Đức Chúa của Einstein hay Spinoza đến từ mục đích luận (teleology). Nếu thuyết dây cuối cùng được xác nhận về mặt thực nghiệm là thuyết vạn vật, thì chúng ta phải hỏi bản thân các phương trình từ đâu tới. Nếu thuyết trường thống nhất là thật sự duy nhất, như Einstein đã tin, thì chúng ta phải hỏi tính độc nhất vô nhị này đến từ đâu. Các nhà vật lý nào tin vào vị Chúa này đều tin rằng vũ trụ đẹp và đơn giản tới mức các quy luật tối thượng của nó không thể là một sự ngẫu nhiên. Vũ trụ đã có thể là hoàn toàn ngẫu nhiên hay tạo thành từ các electron và nơtrino vô tri vô giác, không có khả năng tạo ra bất kỳ sự sống nào, chưa nói tới sự sống có trí tuệ.
Tôi và một số nhà vật lý khác tin rằng nếu các quy luật tối thượng của thực tại sẽ được miêu tả bằng một công thức có lẽ không dài quá một inch, thì câu hỏi đặt ra là, phương trình này đã đến từ đâu?
Như Martin Gardner đã nói: “Tại sao quả táo rơi? Vì có định luật hấp dẫn. Tại sao có định luật hấp dẫn? Vì các phương trình xác định nào đó là một phần của thuyết tương đối. Cho dù một ngày nào đó các nhà vật lý viết ra được một phương trình cuối cùng mà từ đó có thể rút ra tất cả các định luật vật lý, thì người ta vẫn có thể hỏi: “Tại sao lại là phương trình đó?” [244]
TẠO RA Ý NGHĨA CỦA CHÍNH CHÚNG TA
Cuối cùng, tôi tin một phương trình duy nhất thực sự tồn tại để có thể miêu tả toàn thể vũ trụ theo một khuôn mẫu trật tự, hài hòa, ngụ ý một thiết kế nào đó. Tuy nhiên, tôi không tin rằng thiết kế này đưa ra ý nghĩa dành riêng cho nhân loại. Bất kể công thức cuối cùng của vật lý có thể gây choáng váng hay tao nhã đến như thế nào, nó sẽ không nâng cao linh hồn của hàng tỉ con người và làm cho xúc cảm của họ viên mãn. Không công thức ma thuật nào đến từ vũ trụ học và vật lý sẽ mê hoặc công chúng và làm phong phú đời sống tinh thần của họ.
Đối với tôi, ý nghĩa thực sự trong cuộc sống là việc chúng ta tạo ra ý nghĩa của chính chúng ta. Chính số phận chúng ta khắc họa nên tương lai của chúng ta, chứ không phải nó được trao cho chúng ta từ một thực thể uy quyền cao xa nào đó, Einstein đã thú nhận rằng ông bất lực không thể làm hài lòng hàng trăm người thiện chí đã viết hàng xấp thư nài nỉ ông tiết lộ ý nghĩa của cuộc sống. Nói như Alan Guth: “Thật tốt khi đặt ra các câu hỏi đó, nhưng người ta không nên mong đợi có được một câu trả lời thông thái hơn từ một nhà vật lý. Bản thân tôi cảm thấy cuộc sống có một mục đích nào đó - cuối cùng, tôi nghĩ rằng mục đích ấy là do chúng ta tạo ra cho nó chứ không tới từ bất kỳ thiết kế vũ trụ nào.” [245]
Tôi tin rằng Sigmund Freud, với tất cả các suy đoán của ông về mặt tối của tiềm thức*, đã tiến gần nhất tới sự thật khi nói rằng điều đem lại sự ổn định và ý nghĩa cho tâm trí của chúng ta là công việc và tình yêu. Làm việc giúp chúng ta có ý thức trách nhiệm và mục đích, một sự tập trung cụ thể vào công việc và những ước mơ của chúng ta. Công việc không chỉ đem lại kỷ luật và cấu trúc cho cuộc sống của chúng ta, nó còn cho chúng ta cảm giác tự hào, thành quả và một khuôn khổ để thỏa mãn. Và tình yêu là một thành phần thiết yếu sắp đặt chúng ta trong cơ cấu xã hội. Nếu không có tình yêu, chúng ta là những kẻ lạc lõng trống rỗng không có cội nguồn. Chúng ta trở thành những kẻ lang thang trong vùng đất của chính chúng ta, không gắn với những lo toan của những người khác.
Ngoài công việc và tình yêu, tôi muốn bổ sung thêm hai thành phần khác đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Trước tiên, phát huy hết các năng lực mà chúng ta có từ khi sinh ra. Tuy nhiên với các khả năng và thế mạnh khác nhau mà số phận ban cho, chúng ta nên cố gắng phát triển chúng tối đa, thay vì để chúng teo tóp và thui chột. Tất cả chúng ta đều biết có những cá nhân đã không phát huy được khả năng mà họ đã thể hiện trong thời thơ ấu. Nhiều người trong số họ bị ám ảnh bởi hình tượng mà họ có thể trở thành. Thay vì đổ lỗi cho số phận, tôi nghĩ rằng chúng ta nên chấp nhận những gì mình đang có và cố gắng để hoàn thành bất kể ước mơ nào trong khả năng.
Thứ hai, cố gắng nhằm để lại một thế giới tốt hơn so với khi chúng ta bước vào thế giới ấy. Mỗi cá nhân chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt, cho dù đó là việc thăm dò các bí mật của Tự nhiên, làm sạch môi trường và làm việc vì hòa bình và công bằng xã hội, hoặc nuôi dưỡng tinh thần ham học hỏi, nhiệt huyết của thế hệ trẻ trong vai trò của một cố vấn thông thái và một người dẫn đường.
CHUYỂN TIẾP SANG NỀN VĂN MINH KIỂU I
Trong vở kịch Three Sisters (Ba chị em) của Anton Chekhov, trong hồi 2 đại tá* Vershinin tuyên bố: “Trong một hay hai thế kỷ hoặc trong một thiên niên kỷ tới, mọi người sẽ sống trong một hoàn cảnh mới, hạnh phúc hơn. Chúng ta sẽ không ở đó để thấy nó - nhưng đó là mục đích sống và làm việc của chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta đau khổ. Chúng ta đang tạo ra nó. Đó chính là mục đích tồn tại của chúng ta. Hạnh phúc duy nhất chúng ta có thể biết là làm việc hướng tới mục tiêu đó.”
Cá nhân tôi, thay vì ngã lòng trước tầm mênh mông tuyệt đối của vũ trụ, lại cảm thấy hồi hộp trước ý tưởng về các thế giới hoàn toàn mới lạ tồn tại ngay bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang sống trong thời đại mà công cuộc thăm dò vũ trụ chỉ mới bắt đầu bằng các tàu thăm dò không gian và các kính viễn vọng không gian, các học thuyết và các phương trình.
Tôi cũng cảm thấy vinh dự được sống tại thời điểm thế giới đang trải qua những bước đi anh hùng như vậy. Chúng ta đang sống để chứng kiến sự chuyển tiếp có lẽ là lớn nhất trong lịch sử nhân loại, chuyển sang một nền văn minh kiểu I, chuyển tiếp có lẽ là quan trọng nhất, nhưng cũng nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại.
Trong quá khứ, tổ tiên của chúng ta đã sống trong một thế giới khắc nghiệt và không khoan nhượng. Trong phần lớn lịch sử nhân loại, loài người đã sống cuộc đời ngắn ngủi và tàn bạo, với tuổi thọ trung bình khoảng hai mươi năm. Họ đã sống trong sợ hãi về bệnh tật thường trực, nhờ sự ân sủng của số phận. Các xét nghiệm xương của tổ tiên chúng ta tiết lộ rằng họ đã vô cùng kiệt lực, một bằng chứng rõ ràng về các vật nặng và các gánh nặng mà họ đã mang theo hàng ngày, họ cũng mang các dấu hiệu chỉ báo về bệnh tật và các tai nạn khủng khiếp. Ngay cả trong thế kỷ qua, ông bà của chúng ta đã sống mà không được hưởng phúc lợi từ các hệ thống vệ sinh hiện đại, thuốc kháng sinh, máy bay phản lực, máy tính hay các tuyệt tác điện tử khác.
Tuy nhiên, con cháu chúng ta sẽ sống trong buổi bình minh của nền văn minh hành tinh đầu tiên của Trái Đất. Nếu chúng ta không cho phép bản năng tàn bạo tự hủy hoại chi phối, thì con cháu của chúng ta có thể sống trong một thời đại không còn bị ám ảnh bởi thiếu thốn, đói nghèo và bệnh tật. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chúng ta có cả các phương tiện để tiêu diệt tất cả sự sống trên Trái Đất hoặc tạo ra một thiên đường trên hành tinh.
Thuở ấu thơ, tôi thường tự hỏi sống trong tương lai xa xôi sẽ giống như điều gì. Bây giờ, tôi tin rằng nếu có thể chọn lựa để sống trong kỷ nguyên cụ thể nào đó của nhân loại, tôi sẽ chọn kỷ nguyên này. Chúng ta hiện giờ đang ở thời gian thú vị nhất trong lịch sử nhân loại, ở đỉnh cao của các khám phá vũ trụ và công nghệ tiên tiến vĩ đại nhất mọi thời đại. Chúng ta đang tạo ra một sự chuyển tiếp lịch sử từ những người quan sát thụ động vũ điệu của tự nhiên tới các biên đạo múa cho vũ điệu của tự nhiên, với khả năng điều chỉnh sự sống, vật chất và trí tuệ. Tuy nhiên, quyền năng tuyệt vời này cũng gắn với trách nhiệm lớn lao, để đảm bảo rằng các thành quả từ các nỗ lực của chúng ta được sử dụng một cách sáng suốt và vì lợi ích của toàn thể nhân loại.
Thế hệ đang sống hiện nay có lẽ là thế hệ quan trọng nhất của con người kể từ khi bước đi trên Trái Đất tới nay. Không giống như các thế hệ trước đó, chúng ta nắm giữ trong tay số phận tương lai, hoặc là đạt được nền văn minh kiểu như mong đợi hay rơi xuống vực thẳm của hỗn loạn, ô nhiễm và chiến tranh. Các quyết định của chúng ta sẽ ảnh hưởng sâu rộng trong suốt thế kỷ này. Cách chúng ta giải quyết các cuộc chiến tranh toàn cầu, các loại vũ khí hạt nhân tăng nhanh và các xung đột tôn giáo và sắc tộc hoặc là sẽ đặt nền tảng hoặc sẽ phá hủy các nền móng của một nền văn minh kiểu I. Có lẽ mục đích và ý nghĩa của thế hệ hiện nay là để đảm bảo sự chuyển tiếp sang một nền văn minh kiểu I diễn ra nhẹ nhàng.
Sự lựa chọn là của chúng ta. Đây là di sản của thế hệ hiện nay. Đó cũng là số phận của chúng ta.