PHẦN V
5. Ngày 30 tháng chạp năm bính thân, khi đang ở Tam Điệp, chuẩn bị xuất quân, vua Quang Trung đã họp các tướng và bảo rằng:
- “ Lần này ta ra dẹp giặc Thanh, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua chỉ trong mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm hổ thẹn mà lo mưu báo thù, như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nên nỡ nào ta làm như vậy. Đến lúc ấy phải có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không có Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mươi năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, nước ta đã giàu, quân ta đủ mạnh thì ta có sợ gì chúng.”. Bọn Sở, Lân cùng tùy tướng đều quỳ lạy tạ mà nói: Chúa thượng nhìn xa trông rộng, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ đến chỗ đó.
Chỉ trong vòng năm ngày, Quang Trung đã quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi. Trưa mồng sáu tháng giêng năm Kỷ Dậu, Quang Trung tiến quân vào đóng quân ở Thăng Long, rồi ra lệnh chiêu an. Khoảng mười ngày sau, đã có hơn một vạn quân Thanh ra đầu thú, và đều được cấp phát lương ăn áo mặc. Nhà vua còn ra lệnh thu nhặt hài cốt quân Thanh tử trận chôn thành gò đống, lập đàn cúng tế, sai Vũ Huy Tấn làm văn tế, biểu thị sự thương xót đối với quân dân Trung Quốc chết xa nhà, bài văn tế có đoạn viết:
“Nay ta
Sai thu nhặt xương cốt chôn vùi
Bảo lập đàn bên sông cúng tế
Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc
Xuất của kho mà đắp điếm đống xương khô
Hồn các ngươi không vơ vẩn ở trời nam, hãy lên đường mà quay về nơi hương chí
Nên kính ngưỡng ta đây là chủ, chan chứa lòng thành
Những mong sao đáp lại đạo trời, dạt dào lẽ sống…***
Nhân bắt được chiếu thư của Càn Long và quân ấn do Sĩ Nghị bỏ lại, Quang Trung đưa cho Ngô Thì Nhậm xem và bảo:
-“ Qua tờ chiếu của vua Thanh, ta thấy rõ bụng dạ của họ như thế nào rồi. Nay họ bị ta đánh thua, nhịn thì thẹn, báo thù thì khó. Vậy những tàn quân ta bắt được, đều nên cấp lương và đưa hết lên cửa ải. Ngươi giỏi nghề văn tự, nên thảo một bức thư gửi cho vua Thanh, đại khái nói: Ta là nước nhỏ, một lòng kính thuận, sợ mệnh trời, thờ nước lớn, nào dám có ý khác. Trước đã có biểu văn đệ sang, bị ngài tổng đốc họ Tôn dìm đi, không thể đến bề trên được. Gần đây ta từ miền Nam tới, vốn là muốn biện bạch lòng thật thà với ngài tổng đốc, không ngờ thiên hạ đồn nhảm, làm to thanh thế của ta, khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi, bỏ đội ngũ mà chạy trước, để đến nỗi cầu phao bị đứt, quân thiên triều phải chết đuối, ai cũng tranh đường chạy, dẫm đạp lên nhau, kẻ chết, người bị thương. Đó là do ngài tổng đốc họ Tôn gây nên, không phải là tội của nước nhỏ dám giao chiến. Nay đã thu góp được số tàn quân hơn vạn người, xin cấp đủ lương ăn, áo mặc, gửi trả về cố hương, để tỏ rõ lòng thành”.*
Thì Nhậm theo ý đó, thảo một bức thư gửi cho Càn Long, còn ngầm đưa vàng bạc đút lót Phúc Khang An và Hòa Khôn để mau xong việc. Cuối mùa đông năm ấy, Vua Thang sai sứ sang phong cho Quang Trung làm An Nam quốc vương.
Lê Chiêu Thống lẻo đẻo theo Nghị qua ải Nam Quan, sang Trung Quốc, đến trú ngụ ở thành Nam Kinh, đúng vào lúc Phúc Khang An đến thay chức quan của Tôn Sĩ Nghị, và mưu đồ giảng hòa với Tây Sơn, Khang An đón vua Lê cùng với cả bọn quan lại đi theo cùng, vào nghỉ trong thành của phủ Quế Lâm. Phúc Khang An lừa vua Lê cùng bọn tôi thần gọt đầu gióc tóc, để đuôi sam như người Mãn Thanh, rồi tâu láo với vua Thanh rằng, vua Lê bây giờ không còn muốn phục quốc nữa mà đã gọt đầu gióc tóc, muốn xin ở lại Trung Quốc vĩnh viễn.
Để vua Lê khỏi đòi viện binh phục quốc, Hòa Khôn lập mưu đưa vua Lê về Yên Kinh, cạnh nhà Quốc Tử Giám, trước cửa nơi vua ở có biển đề: “ Tây An Nam doanh”, còn các quan đi theo vua thì ở “ Đông An Nam doanh”. Tháng 3, mùa xuân năm Tân hợi 1791, Hòa Khôn phỉnh họ tập trung, để đưa về vùng biên giới, lo ngày trở lại quê hương, rồi âm thầm đày họ đi mỗi người một nơi, chỉ để một mình Trần Thiện ở lại hầu quốc vương. Lúc ấy, Lê Chiêu Thống mới biết rõ mình bị các quan nhà Thanh lừa, từ ấy, vua Lê, dù trong lòng uất ức, nhưng không dám nói đến chuyện xin viện binh nữa
Mùa hè năm Nhâm Tý 1792, nhà vua nhìn đứa con đầu vĩnh viễn ra đi vì bệnh đậu, việc chôn cất thật sơ sài, còn không bằng con của một kẻ thứ dân, Chiêu Thống mới thấy hết nỗi chua chát của kẻ vong nô, sống vất vưởng trên xứ người, vua lo buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt. Mùa đông, bệnh của vua, ngày càng nặng. Đêm ấy trời Yên Kinh rét đậm, Chiêu Thống gượng ngồi dậy nhìn ra khu vườn nhàn nhạt ánh trăng dưới bầu trời lặng ngắt và xa lạ, nhà vua thở dài: “ Trong hơn hai trăm năm mươi năm, từ thời Trang Tông, tuy bị chúa Trịnh chuyên quyền, sóng gió liên tiếp nổi lên, nhưng bờ cõi vẫn được giữ vững ở phía bắc và mở mang về phía nam, cho đến khi ta cõng quân Thanh vào Thăng Long, lúc đó, ngai vua của ta thì còn, nhưng nước đã mất. Ta hiểu dân An Nam oán hận ta, nguyền rủa ta, giờ đây, ta biết mình quá hèn hạ và tội lỗi. Khi mà một ông vua như ta vì muốn bảo vệ cái ngai vàng mục nát của mình, mà đi rước ngoại bang về để chúng bảo vệ cái ngai cho ta, thì tai họa cho dân tộc sẽ không biết còn truyền bao nhiêu đời. Nhưng dân tộc An Nam rất kỳ lạ, khi sinh ra một Chiêu Thống đốn mạt như ta, thì đồng thời cũng sinh ra một trang hào kiệt như Nguyễn Huệ…”.
Nghĩ đến đó, Chiêu Thống khẽ rùng mình và giấu kín dòng tâm tư đó vào lòng, và cũng sẽ chôn sâu vào chiếc quan tài lại mang nhãn hiệu Trung Hoa.
Hôm sau Chiêu Thống gọi các thị thần vào dặn:
-“ Trẫm gặp phải lúc vận nhà suy kém, không thể giữ được xã tắc, phiêu bạt nơi đất khách quê người, để tính việc khôi phục. Nhưng mơ ước ấy của trẫm chắc không bao giờ thành và cũng không còn cần thiết nữa. Nay ta đành gửi nắm xương tàn này nơi đất khách. Sau này nếu các khanh được về nước thì xin hãy cho ta đi theo, để ta tạ tội với các tiên đế cùng bá tánh và được yên nghỉ ngàn đời bên cạnh tổ tông…”
KIỀU GIANG
SG 30/6/2016
Tham khảo:
* Hoàng Lê Nhất Thống Chí – NXB Văn học 1984
** Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên Q46
*** Quang Trung Nguyễn Huệ, những di sản văn học- NXB Văn Hóa 2006.
và một số tài liệu khác.