Chương 16
Bỏ lại cuộc điều tra về cái chết của Megan Bartlow, Wexford đi bộ về phía Gew-Gaws, cửa hàng nơi cô ta làm việc. Khi anh đẩy cửa mở, chuông cửa của Jimmy Gawson vang lên, triệu hồi vị chủ cửa hàng từ đằng sau đi ra. Wexford biết Gawson một cách qua loa đã hàng năm nay, rất lâu rồi trước khi anh ta mở cửa hàng, và cũng thích nói chuyện với anh ta vì cái chất giọng rất Etonia - hay một tay diễn viên nghiệp dư cường điệu hóa một cách thái quá giọng Etonia.
“Ồ, chào buổi sáng, ngài Chánh thanh tra”, anh ta nói, chìa bàn tay nhợt nhạt và khá ẩm ướt ra. “Tôi đã nói với những người bạn tốt của anh tất cả mọi thứ mình có thể nói về cái buổi sáng định mệnh đó, anh biết mà. Thực tế là, kể đến từng chi tiết. Tôi đã không ở đây và đến lúc tôi ở đây thì Megan bé bỏng tội nghiệp đã biến mất, còn lời nhắn của cô ta thì dán trên cửa.”
“Tôi biết. Tôi không muốn nói về chuyện đó. Tôi muốn nói về cô ta. Anh biết gì về cô ta?”
Gawson vẫy tay mời Wexford ngồi rồi tự mình ngồi xuống phía sau quầy hàng chất đầy mô hình tháp Big Ben, xe buýt Luân Đôn mini bằng nhựa, những lá cờ liên bang, những bức ảnh của Công nương Diana và những con chó bun đầu gật gù. Anh ta lấy một ống hít trên kệ, gắn vào đó một ống nicotine rồi hít mạnh.
“Phê như thuốc lá vậy”, anh ta nói, “nhưng rẻ hơn và tốt cho anh hơn. Thật tuyệt vời, phải không? Tôi đã dính vào nó ba năm nay rồi đấy”.
Nghi ngờ rằng Gawson đang dùng dụng cụ kia đúng theo mục đích nó được thiết kế ra, Wexford không bình luận gì thêm. “Anh sẽ kể cho tôi nghe về Megan.”
“Ý anh là anh nghĩ tôi sẽ kể cho anh về Megan. Câu hỏi là, tôi có biết bất kỳ điều gì về cô ta không? Cô ta hết sức bình thường, anh biết mà. Chính phủ gọi những người kiểu này là những kẻ bị xã hội loại trừ. Diễn tả thật hay, anh có nghĩ thế không? Cô ta chắc chắn sẽ bị bất kỳ tầng lớp nào ruồng bỏ.”
Wexford biết rằng nếu thô lỗ với gã đàn ông này, anh có nguy cơ sẽ không khai thác được gì từ anh ta nữa nhưng lại không kiềm chế được bản thân. “Tôi không biết là mình có mấy hứng thú với quan điểm của anh về các tầng lớp xã hội, Jimmy ạ. Cô ta là loại con gái nào? Anh thích cô ta à? Câu hỏi thật ngu ngốc, tôi nghĩ vậy. Anh quá cao quý để ham mê loại con gái như vậy mà.”
“Nào nào, anh bạn. Anh biết tất cả những gì tôi nói chỉ là đùa thôi mà. Óc hài hước của anh đâu rồi? Không có gì tổn hại đến Megan đâu, tôi tin là thế. Giọng nói của cô ta làm tôi đau màng nhĩ. Tôi thực sự tin rằng một màng nhĩ của mình đã bị hư hại vĩnh viễn bởi những cuộc tra tấn của cô ta.”
Wexford nhìn anh ta hít ống nicotine thứ ba hay bốn gì đó. “Anh đã từng thấy cô ta, chà, tiến hành bất kỳ một vụ giao dịch nào ở đây mà không hoàn toàn liên quan đến chuyện lải nhải về Cung điện Buckingham mini với những du khách không có chút tò mò chưa?”
“Ý anh là ma túy, đúng không? Ồ, tôi biết hết đấy. Có ai không biết chứ? Anh không thể giữ bí mật hoàn toàn về những vụ bắt giữ buôn bán ma túy mình tham gia trong thị trấn này. Nhưng không, tôi thì không như thế. Thành thật mà nói, tôi không nghĩ rằng cô ta có trí khôn.”
Wexford lắc lắc đầu. “Anh làm tôi thắc mắc rằng tại sao anh lại thuê cô ta đấy, Jimmy. Anh đã trả lương cho cô ta dưới mức thấp nhất, đúng chứ? Anh không cần phải trả lời. Quá muộn rồi. Nhưng nếu anh tiếp tục thuê một trợ lý khác, thì tôi sẽ xem xét việc đó. Thế thôi. Bạn trai cô ta có hay đến đây không?”
Hít những hơi ngắn và liên tục đã làm gói nicotine nhanh chóng hết sạch, Jimmy Gawson gắn tiếp một ống nữa vào. “Như tôi đã nói, Megan không quá thông minh nhưng cô ấy là Einstein nếu so sánh với hắn ta. Tôi sẽ không cho hắn ta ở đây. Hắn ta đã thử một hai lần gì đó nhưng tôi bảo với Megan là không đời nào. Mẹ cô ta sẽ muốn tạt qua tán gẫu gì đấy nhưng tôi cũng bác bỏ luôn. Thực tế là, anh bạn ạ, thành viên duy nhất của gia đình đó tôi sẽ không từ chối chính là người bà.” “Bà?”
“Đó là bà Gracie Morgan. Từ rất lâu về trước khi cả thế giới còn trẻ, thanh niên và tất cả lá cây đều màu xanh, và những đứa con nhà Gawson như chúng tôi là những người thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt ở Kingsmarkham, điều đó rất có ý nghĩa, Gracie đã từng mang lại điều đó cho chúng tôi. Bà giờ hẳn đã chín mươi, theo như tôi biết từ Megan, cô ta đã từng đến thăm bà vài lần. Anh có thể nói rằng cùng yêu mến bà Gracie là điểm chung duy nhất giữa tôi và Megan bé bỏng tội nghiệp.”
“Thứ mà anh đang hít”, Wexford nói một cách lạnh nhạt, “được tạo ra để giúp anh cai thuốc lá, không phải để trở thành một loại ma túy thay thế khác”.
Anh rời đi, dáng vẻ trang nghiêm hơi ngượng ngùng khi cúi xuống nhặt một cái Vòng quay Luân Đôn, được làm lại bằng nhựa bạc, thì viền áo bị mắc vào một cái bàn thấp. Sau đó, anh tới gặp Burden và nói, “Jimmy đã đề cập đến một người phụ nữ tên là Grace Morgan. Tôi biết mình từng nghe thấy cái tên đó không lâu trước đây nhưng tôi không thể nhớ nổi là khi nào và ở đâu”.
“Tôi có thể”, Burden nói. “Bà ta là một trong những nhân chứng của chúng ta, hoặc sẽ là nhân chứng nếu bà ta đã nhìn thấy gì đó. Bà ta chín mươi ba tuổi và sống ở căn nhà gỗ trong rừng, nơi chúng ta nghĩ bất kỳ ai muốn ném tảng bê tông vào xe của Amber đều phải đi qua đó.” “Bà ta cũng là bà của Megan Bartlow.” “Ý anh là…? Đợi một chút.”
“Chúng ta không biết là Hannah và Lynn cũng đến gặp bà ta. Jimmy không hứng thú gì với đời sống cá nhân của Megan nhưng bà của cô ta thì có thể.”
“Đúng. Vậy, chúng ta đến nói chuyện với Grace Morgan thôi.”
“Đi nào. Càng nhanh càng tốt. Tôi không muốn tỏ ra nhẫn tâm nhưng khi người ta đã chín mươi ba tuổi thì thần Chết lúc nào cũng sẽ kè kè bên cạnh, vậy nên việc này thực sự rất cấp bách.”
Màn sương mù la đà trên các cánh đồng. Bởi vì trời hạn hán quá lâu và đám cây cối bị thiếu nước trầm trọng, nên lá cây rất dễ rụng. Rừng cây đang chuyển sắc vàng trước khi mùa thu đến và trong khi mặt trời vẫn đang tỏa sức nóng. Mặt trời chiếu rọi qua màn sương, thiêu đốt hơi sương ở khắp mọi nơi ngoại trừ trong những bóng râm và những hố sâu hoắm. Wexford và Burden xuống xe ở đầu đường Yorstone rồi đi bộ dọc theo đường mòn dẫn vào rừng. Các quả mọng trĩu trịt trên cây Wayfarers mọc lên ở đây chuyển từ xanh sang vàng, từ vàng sang đỏ và giờ hầu hết là màu đen. Từ xa đã có thể nghe thấy tiếng của một con chim gõ kiến đang khoan cái mỏ vào thân cây.
“Tôi thắc mắc bà ta sống ở đây bao lâu rồi”, Wexford nói. “Hàng năm trời, dĩ nhiên rồi. Có lẽ cả cuộc đời bà ta đã ở đây. Và mỗi lần bà ta ra ngoài rồi quay trở về nhà, bà ta đều phải đi qua con đường này, mang theo bất cứ cái gì mình phải mang đi, trong đó có cả những đứa con, tôi nghĩ thế.”
“Ừm.” Burden tỏ ra không mấy quan tâm.
“Anh có thể lái một cái xe ô tô dọc theo đường này. Anh có thể nhìn thấy những vết bánh xe con người đã tạo ra. Có thể do tay hung thủ để lại. Và anh có thể lái nó vào rừng - chỉ có thể là thế.” Họ đang đứng giữa đám cây cối và con đường đã hẹp dần lại. “Những thân cây ở đây mọc quá gần nhau nên không để lái xe đi xa hơn được. Hắn chắc phải để nó lại đâu đó.” Wexford chỉ vào một nơi gần giống bãi cỏ, được che phủ bởi táo gai và tán cây mâm xôi. “Để ở chỗ này thì cái xe sẽ gần như được che giấu hoàn toàn.”
“Đặc biệt nếu hắn không nề hà gì về cái thân xe. Những cành lá che phủ cái xe nhưng sẽ gây ra các vết trầy xước.”
Wexford gật đầu. “Đáng tiếc là chúng ta đã không biết về điều này - vậy nên, chúng ta không có lý do gì để nghi ngờ chuyện tảng bê tông rơi từ trên cầu xuống là một âm mưu tước đoạt đi mạng sống của Amber cho đến khi cô ta bị sát hại sáu tuần trước. Chúng ta đã nghĩ đó đơn giản chỉ là một hành động phá hoại. ‘Trả thù xã hội’, theo cách nói của một số người, không nhằm vào một đối tượng cụ thể nào.”
Nhìn thoáng qua, nhà của những người già đều trông không bình thường, như thể không có người ở vậy. Mắt họ đã không còn có thể nhìn thấy bụi bẩn và tình trạng lộn xộn nữa. Đồ trang trí thì đắt tiền và đồ handmade còn hoành tráng hơn. Những chiếc rèm cửa sổ, thường làm bằng ren hay lưới và có màu trắng đơn thuần, dính bụi, mềm rũ bên trong tấm kính bám đầy vết ruồi bậu, những cánh cửa sổ này hiếm khi được mở ra, nếu giờ chúng còn mở được, vì người già thường cảm thấy lạnh. Hầu hết bọn họ đều nghèo nhưng vẫn thường hãnh diện để họ hàng của họ nghĩ đây là sự lựa chọn trong cách sống của họ, chứ không phải chuyện cách sống ấy thực sự ra sao, cái cách bám trụ đầy bấp bênh vào cuộc sống bằng mọi giá.
Những ý nghĩ này lướt qua đầu Wexford khi nhà của Grace Morgan xuất hiện trong tầm mắt, một căn nhà bị chiếm dụng bất hợp pháp, màu nâu, phần thì lợp ngói, phần thì lợp tranh được bao xung quanh bởi một hàng cọc đổ nát. Cổng trước đã tung khỏi bản lề và đang nằm bắc qua một cái hố trên đường đi, rõ ràng được đặt ở đó để dùng như một cái cầu hay lối đi khô ráo khi thời tiết ẩm ướt. Đã quá lâu rồi thời tiết không ẩm ướt cho nên con đường tự nó cũng khô ráo và đầy bụi, một bãi cỏ đã từng xanh mướt trong khoảng rừng thưa cạnh căn nhà gỗ đang dần chuyển sang úa vàng như cỏ khô.
Không hẳn bất kỳ ngôi nhà nào ở những ngôi làng từ Framhurst đến Forby cũng đều đóng cửa sổ ngày hôm nay.
Ngoại trừ nhà của Grace Morgan. Các khung cửa trông quá dặt dẹo, như thể người ta có thể chọc ngón trỏ xuyên qua tấm cửa gỗ, hay bất kỳ nỗ lực nào để mở chúng ra đều sẽ khiến toàn bộ cái cửa sổ sập xuống.
“Tôi nghĩ bà ta ra ngoài rồi”, Burden nói bằng giọng ảm đạm. “Nhưng lại không có điện thoại. Tất cả mọi người”, anh nói thêm một cách bất hợp lý, “đều có điện thoại”.
“Bà ta không ra ngoài.” Wexford đập mạnh búa gõ cửa. “Nếu làm thế, anh sẽ dọa bà ta đến chết đấy.”
“Nếu tôi không làm thế”, Wexford nói, “thì bà ta sẽ chẳng nghe thấy gì”.
Họ sắp sửa bỏ cuộc thì cuối cùng cánh cửa cũng mở ra. Grace Morgan là một phụ nữ có dáng người tí hon, cao chưa đầy mét rưỡi, gầy gò và nhăn nheo. Khuôn mặt đầy nếp nhăn và xám xịt như mạng nhện. Mớ tóc trắng còn lại được búi trên đỉnh đầu và cố định bằng hai cái kẹp tóc màu đen. Ít nhất bà ta trông không có vẻ lúng túng trước sự xuất hiện của hai người đàn ông cao to chưa từng gặp trước đây. “Các vị trông giống cảnh sát nhỉ”, bà ta nói.
“Đúng vậy, thưa bà Morgan.”
Burden chìa thẻ ngành của anh ta ra và Wexford cũng thế. “Không tốt rồi, tôi không nhìn thấy gì cả. Mọi thứ cứ mờ mờ ảo ảo. Tất cả những người tôi biết chỉ có James Mason và Michael Redgrave.”
Sau khi đưa ra bằng chứng về việc mình đã từng đi xem phim xa, Grace Morgan mở rộng cửa và lùi lại để họ bước vào. “Lần trước có hai cô gái tới. Trung sĩ hay sĩ quan gì đó, tôi cũng chẳng rõ. Tôi không tán thành để con gái làm cảnh sát. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ bị đánh hay bị bắn?”
Wexford nói rằng anh hy vọng điều đó sẽ không xảy ra và rằng Trung sĩ Goldsmith và Sĩ quan Fancourt là những cảnh sát rất giỏi.
“Có thể nhưng những cô gái mới là những người bị sát hại. Hãy xem đứa cháu tôi kìa, Megan ấy. Nó đã bị bắn.”
Tin rằng không cần thiết phải sửa lại lời bà ta, Wexford nói rằng đó là lý do họ đến đây nói chuyện với bà ta. Họ rất tiếc vì chuyện đó, hẳn đó phải là một cú sốc đối với bà Morgan và là một tai họa. Anh hiểu rằng cháu gái của bà ta thường xuyên ghé thăm ngôi nhà gỗ này.
“Thường xuyên, anh nói thế phải không? Tùy thuộc vào việc anh định nghĩa từ thường xuyên như thế nào. Tôi nghĩ mình đã gặp con bé ba lần kể từ Giáng sinh và hôm đó tôi ở cùng với con gái là Sandra. Tôi nghĩ mình buộc phải đến đó gặp nó. Và khi đến đây, nó đã giở trò ăn trộm.”
“Ăn trộm?”
“Đúng là thế đấy. Nó biết tôi không bao giờ tiêu hết tiền lương hưu để chuyển đến sống ở chỗ khác và ăn những bữa ăn dành cho người tàn tật. Có một cô gái đi cùng xe đạp với nó. Megan đến chỉ để mượn tiền lương hưu của tôi thôi.
Chà, ‘mượn’ là cái cách mà nó nói. Tôi chưa bao giờ thấy nó trả lại, chắc chắn đấy. Tôi cho rằng Sandra chẳng bao giờ biết điều này.”
Bà Morgan dẫn hai người vào một phòng khách màu nâu sẫm chật ních những đồ đạc cùng màu và có mùi của rau luộc, mỡ tái sử dụng cùng long não, còn quần áo thì mặc từ năm này qua năm khác mà không hề được giặt giũ hay làm sạch. Thứ duy nhất trong căn phòng nhìn có niên đại ít hơn cả thế kỷ là cái ti vi. Về sau Burden nói rằng anh ta không thể hiểu được một người có ti vi mà lại không có điện thoại nhưng Wexford phủ nhận. Người ta tìm kiếm sự giải trí và tình bạn thông qua ti vi, trong khi tất cả những gì người ta thu được từ điện thoại chỉ là những lời phàn nàn và mắng chửi.
“Bà Morgan”, anh bắt đầu, “tôi đang băn khoăn liệu Megan có đến gặp bà vào buổi tối mà bà ngồi rình những con lửng hay không?”.
Đó là một câu hỏi liều lĩnh nhưng khi bà ta hỏi lại, “Nó làm gì cơ?”, anh lặp lại câu hỏi và nhắc bà ta về buổi tối mà bà ta đã nhìn thấy bóng cái mũ trùm đầu trong rừng, bà ta nhìn thấy vì đang ngồi rình những con lửng.
“Chúng còn hay hơn cả ti vi, thật sự là thế, giá mà anh có thể thấy chúng. Nếu không có ai xuất hiện và khiến tất cả bọn chúng chạy tán loạn.”
“Megan có làm vậy không, thưa bà Morgan?”
“Nó ở trên lầu. Nó muốn năm mươi bảng từ tôi và tôi bảo nó lên lầu mà lấy, để nó biến khỏi con đường nơi tôi đang ngồi rình những con lửng nhưng tối đó chúng chẳng đến.”
“Người đàn ông đội mũ trùm đầu, thưa bà Morgan”, Wexford cảm thấy tim mình bắt đầu chùng xuống. Liệu anh có phạm sai lầm lần nữa không? “Có thể nào Megan đã nhìn thấy hắn từ trên lầu không? Cô ta có đề cập đến việc nhìn thấy một người đàn ông không?”
“Không. Có hai phòng trên đó. Tôi bảo nó đến phòng đằng sau. Đó là nơi tôi cất tiền lương của mình, hiểu không? Tôi nói nó mang hết xuống đây và tôi sẽ cho nó năm mươi đồng. Thế là nó đi lấy, sau đó kẻ đội mũ trùm đầu xuất hiện rồi biến mất. Nó đi xuống với cái hộp đựng tiền, có một trăm ba mươi lăm bảng trong đó. Tôi cho nó năm tờ mười bảng, thế mà nó còn dám đòi thêm. Vâng, không phải nói xấu người đã chết đâu.”
“Megan đã ở lại với bà bao lâu?”, Burden hỏi. Anh ta đang mặc cái áo jacket gọn nhẹ mới với làn da hơi rám nắng và bắt đầu băn khoăn không biết liệu mùi ở đây có ám vào vải hay không. Phải về giặt khô lần nữa rồi, anh ta nghĩ. “Năm phút? Mười phút? Hay lâu hơn?”
“Tôi đoán chừng hai mươi phút. Trời đã tối. Tôi nói, nếu mày có đèn pin thì hãy đi xuyên qua rừng mà về nhà và nó nói nó có đèn xe đạp.”
“Cô ta đến đây bằng xe đạp à?”
“Đúng vậy đấy. Nó rời đi. Tôi nói với nó, ‘đừng có đến đây làm phiền nữa nếu tất cả những gì mày muốn chỉ là tiền’. Không phải nói xấu người đã chết, đúng chứ?”
Không khí trong rừng có mùi thật tuyệt. Giống như hoa, rơm mới gặt và táo chín, Burden nói, đầy trữ tình dù không phải mùi hương điển hình. Họ quay trở lại con đường, hít thở không khí có mùi thơm với niềm vui sâu sắc.
“Anh nghĩ sao?”, Burden nói, hít hà áo khoác của mình như vẫn làm sau khi vào một quán rượu đầy khói thuốc.
“Tôi nghĩ gì á? Tôi nghĩ Grace đã đúng khi bà ta nói Megan không thể nhìn thấy gã đội mũ trùm đầu từ trên lầu lúc hắn đang trên đường đến cây cầu, nhưng cô ta đã thấy hắn lúc hắn quay lại. Cô ta rời khỏi nhà bà mình vừa vặn đúng thời điểm hắn quay trở lại.”
“Nếu hắn quay lại. Nếu hắn không đi lên cây cầu thì sao.” “Tôi nghĩ hắn đã quay lại, Mike ạ. Hắn muốn trở lại con đường mình đã đi bởi vì đi qua cầu có nghĩa là: (a) Xe của hắn, dù là loại gì đi chăng nữa, cũng phải đậu ở phía bên kia đường và (b) nếu tiếp tục đi thì hắn sẽ phải đi đường vòng dài ít nhất sáu dặm trước khi tìm được lối về chỗ cái xe. Không, Megan đã trông thấy hắn. Đó là những gì tôi nghĩ. Hắn có thấy cô ta hay không thì chúng ta không biết. Cô ta thấy hắn và biết hắn.”
“Làm sao anh nghĩ ra được thế?”
“Bởi vì cô ta đã tìm hắn lần nữa. Cô ta biết chỗ nào để tìm. Tôi không nói rằng cô ta biết rõ hắn hay là chỉ nhìn thấy hắn thôi. Và rồi...”
“Anh nghĩ cô ta đã tống tiền hắn?”, Burden nói.
“Tôi nghĩ là cô ta đã thử. Như bà Morgan đã nói, không phải nói xấu người đã chết, nhưng Megan Bartlow không hoàn toàn là một cô gái ngoan, đúng không? Cô ta vay tiền bà mình, người dường như chẳng còn gì để dựa vào mà sống ngoại trừ vài đồng lương hưu, song không thèm trả lại. Có thể là không chính xác và khôn ngoan để nói như thế này nhưng tôi không quan tâm mấy đến cô gái đang sống chung với một người đàn ông mà lại có thai với người khác. Mặc dù chúng ta không biết cụ thể nó là gì nhưng cô ta đang tiến hành một phi vụ phạm pháp.”
“Vận chuyển ma túy”, Burden nói.
“Anh làm tôi nhớ đến thằng cha ở Roman Senate từng diễn thuyết trước công chúng rằng ‘Carthage phải bị hủy diệt’. Delenda est Carthago.”
“Và?”
“À, cuối cùng thì nó cũng bị hủy diệt. Hết chuyện.” Quay trở về trong xe, nơi Donaldson đang ngồi chờ họ, Burden nói với vẻ đắc thắng, “Đấy, tôi đã bảo mà. Quan điểm của tôi đúng. Đó là ma túy”.
Wexford phớt lờ anh ta. “Tôi không có khúc mắc gì khi tin rằng cô ta đã tống tiền hung thủ.” Chiếc xe nổ máy và không khí mát mẻ bắt đầu tràn vào. “Tốt hơn rồi đấy”, anh nói. “Dự báo là sắp tới sẽ có một trận bão. Tôi nghĩ cô ta đã nhìn thấy hắn từ cầu quay trở lại, có lẽ là trông thấy hắn đang chui vào chiếc xe mà rất có thể đã được hắn giấu ở nơi chúng ta đoán và có lẽ không nghĩ nhiều về nó cho đến khi vụ tai nạn xuất hiện trên tờ Người đưa tin và Lara nói cho cô ta biết hoặc Amber đã bảo cô ta rằng mình có liên quan đến vụ đó. Thậm chí sau đó, cô ta sẽ không nghĩ hung thủ là tên giết người, mà chỉ là một kẻ nổi loạn, loại người mà Megan không ngờ là có dính dáng đến mạng sống của cô ta.”
“Nhưng khi Amber bị giết, cô ta đã nhận thấy có gì đó khác biệt.”
“Chính xác. Dù Jimmy Gawson có nói gì, chúng ta vẫn không có lý do để nghĩ rằng Megan là một cô gái ngốc nghếch. Cô ta đã liên kết hai sự việc với nhau và rút ra kết luận rằng gã đội mũ trùm đầu đã âm mưu giết hại Amber lần đầu bằng tảng bê tông thả từ trên cầu xuống và tới lần thứ hai thì hắn đã thành công.”
“Prinsip liệu có biết gì về vụ này không?”
“Tôi không chắc nhưng chúng ta cứ thử hỏi anh ta xem. Hỏi cả Lara và bà mẹ nữa nhưng những kẻ tống tiền thường không hay giãi bày tâm sự trong những ngày này, chúng ta phải gọi cho người thân của họ hoặc bất cứ ai khác, để tìm ra điều đó. Thật nực cười phải không, ‘những người thân’ thường nói về mối quan hệ với gia đình khi giữa họ không tồn tại tình yêu. Không, Megan biết danh tính của hung thủ và cô ta giấu nhẹm đi. Khi thời cơ chín muồi, cô ta đến gặp hắn và yêu cầu trả giá cho sự im lặng. Một hành động khá liều lĩnh, như chúng ta đều biết. Cô ta hẹn gặp hắn vào sáng thứ Ba. Giờ chúng ta biết cô ta đã chết trong căn nhà đó vào sáng thứ Ba. Cô ta đến cửa hàng Gew-Gaws lúc chín giờ, để lại lời nhắn trên cửa và, biết rằng Jimmy Gawson không bao giờ đến trước mười giờ, nên đã tới Stowerton bằng xe buýt, hy vọng mọi chuyện sẽ suôn sẻ và sẽ quay trở lại trước mười giờ.”
“OK. Rất tốt. Tôi hiểu rồi. Nhưng điều đó có nghĩa là hắn có thể là bất kỳ ai. Gần như bất kỳ ai cũng có thể đến ngôi nhà ở dãy Victoria đó.”
“Cho tôi nghỉ một lát, Mike”, Wexford nói. “Không giống như Bà Hoàng Trắng, tôi không thể nghĩ sáu vấn đề không tưởng cùng lúc trước bữa sáng.”
“Nhắc mới nhớ, tôi đã tham dự vào cuộc điều tra này sớm đến nỗi chưa có gì vào bụng.”
“Cả tôi nữa. Tôi nghĩ chúng ta nên kiếm gì ăn thôi. Thời thế thay đổi rồi, phải không. Ngoại tình giờ không còn là tội ác nữa, mặc kệ mấy vụ ngoại tình đó đi. Đánh người và chưa cần biết người ta có thể đi lại được nữa hay không, anh sẽ phải bóc lịch hai năm. Lái xe khi say và đâm chết hai đứa trẻ, anh sẽ bị tước quyền lái xe một thời gian và bị tuyên án tới chín tháng tù. Hút ma túy là ‘việc mà ai cũng làm’, nhưng chỉ cần hút một điếu thuốc là anh sẽ biến thành kẻ cặn bã dù điều đó chả là gì so với việc ăn sáng trong một quán ăn rẻ tiền. Đó là tội nặng nhất. Thế nào?”
“Tại sao không?”, Burden nói.
Cố gắng tập trung vào đống giấy tờ cần phải được hoàn thành trước khi kết tội John Brooks và em gái anh ta đánh lạc hướng điều tra, Hannah để suy nghĩ trôi dạt trở lại buổi tối trước đó. Lúc bước vào Gooseberry Bush, cô và Bal đã đụng phải sếp, vợ sếp, Trung sĩ Burden và vợ anh ta, một cuộc gặp gỡ hoàn toàn làm cô xấu hổ. Thực sự, việc sẽ còn tồi tệ hơn nếu tất cả bọn họ cùng có mặt ở đó. Bal đã đi mua đồ uống và sau đó, chạm vào tay cô nhưng không nắm lấy, anh nói, “Anh không thề sống độc thân, anh không ‘giữ mình cho cuộc hôn nhân’, cái cách mà nghi lễ trinh tiết mới khuyến khích, mặc dù anh nghĩ cha mẹ mình sẽ thích nó nếu anh làm theo. Với họ, nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Đó là - chà, nếu và khi anh bắt đầu một mối quan hệ, anh muốn nó phải thật nghiêm túc. Anh không muốn kiểu tình một đêm, anh không muốn mặc nó muốn ra sao thì ra, anh không muốn một mối tình ngoài luồng với ai đó bởi vì anh ở đây và cô ấy cũng ở đây. Em có hiểu không?”.
“Em chịu”, Hannah đã nói.
“Anh ước gì mình không phải sử dụng quá nhiều từ khó hiểu. Ý anh là, anh ước gì mình đã không nói về ‘cam kết’ nhưng nó diễn tả đúng điều anh đang muốn nói. Đó là, nếu anh dự định bắt đầu gặp gỡ một ai đó - em chẳng hạn - thì anh muốn hiểu rõ em trước. Anh muốn biết em thích và không thích gì, và anh cũng muốn em biết anh thích và không thích gì. Anh muốn chúng ta hiểu về gia đình của nhau, hiểu được những gì chúng ta tin tưởng và không tin tưởng, điều mà chúng ta đang hướng tới hoặc muốn tránh né. Tất cả những thứ như vậy.”
Hannah gắng sức nói, “Ý anh là anh không muốn làm tình với em cho đến khi anh quen em đủ lâu? Bằng cách ấy, anh có thể không bao giờ phải làm điều đó”.
Anh bật cười. “Không phải đủ lâu. Có thể là một vài tuần thôi. Khủng khiếp vậy sao?”
“Em nghĩ là không”, cô nói. “Điều này, thực sự, có chút xấu hổ.”
“Chỉ bởi vì em không quen với chuyện đó. Anh không quen với chuyện đó. Chúng ta quen làm tình với một ai đó ngay lần đầu tiên hẹn hò nếu chúng ta thích họ. Làm tình trước và nói chuyện sau. Anh đã đạt đến mức mà anh muốn làm điều ngược lại với em, cô trung sĩ yêu quý ạ, bởi vì anh có cảm giác rằng mối quan hệ này có thể sẽ rất nghiêm túc. Vì thế em có sẵn lòng đi xem phim với anh một tối nào đó trong tuần này không?”
Dĩ nhiên cô trả lời là muốn. Anh đưa cô về nhà và hôn cô nhưng không vào nhà. Cô muốn lên giường nằm suy nghĩ về chuyện này song cơn buồn ngủ ập đến trước khi cô có thể làm vậy. Và giờ cô phải xử lý đống văn bản này...
Thịt xông khói và trứng (mà theo lời mô tả của chủ quán Queen’s Cafe, là phong cách của nước Mỹ, tức là “lòng đỏ hướng lên trên”), khoai tây chiên, bánh mỳ nướng, cà chua nướng (“sự lựa chọn cho sức khỏe”) và nấm nướng. Lâu lắm rồi Wexford chưa từng thấy thích thú một bữa ăn nào nhiều đến thế. Điều duy nhất phá hỏng nó là có thể Darren Lovelace sẽ đến uống cappuccino và chứng kiến niềm thích thú của anh. Chạm mặt con gái, Sylvia, ngay khi anh và Burden bước ra ánh mặt trời chói chang của phố Queen là điều không hề được báo trước, mặc dù Sylvia đã ngay lập tức nhận ra đặc điểm của nơi anh vừa mới bước ra.
“Nghe con kể”, anh nói, “và ai cũng sẽ nghĩ bố vừa từ nhà chứa bước ra”.
“Nơi có thể ít gây ảnh hưởng xấu tới tim của bố.”
Cô giới thiệu bố với người đi cùng. “Đây là Mary Beaumont. Mary, đây là bố tôi và đây là Mike Burden.”
“Tôi đã nghe rất nhiều về các anh”, Mary nói, rõ ràng ám chỉ cả hai. “Cảnh sát, đúng không? Tôi không quan tâm mọi người nói gì, tôi nghĩ các anh đang làm một công việc cao quý. Cao quý. Từ đó không hợp với tôi. Anh có thể bị ăn một dao hoặc lãnh một viên đạn xuyên qua người bất kỳ lúc nào.”
“Chúng tôi không quen với việc được khen ngợi nhiều đến thế đâu”, Wexford nói. “Gậy, bọn tôi thường hay ăn chứ đạn thì không. Dù sao thì, cũng chẳng phải thường xuyên.”
Bà ta đặt tay lên cánh tay anh và cười tươi. Bà ta là một phụ nữ da đen rất đầy đặn ở độ tuổi tứ tuần, mặc một chiếc váy đỏ tươi thêu những bông hoa trắng và đen lớn; nụ cười của bà ta giống trong một quảng cáo nha khoa thẩm mỹ. “Tôi chỉ đang giúp Syl đi chợ. ‘Tôi không cần bà, Mary ạ. Tôi có xe mà’, Sylvia đã nói vậy nhưng tôi lại nói, ‘Vậy cô có thể lái xe vào siêu thị à? Cô nó thể mang nó vào trong thang máy của Marks & Sparks à?’.”
Giọng lạnh lùng, Sylvia (chưa bao giờ bị gọi là Syl) nói, “Mary rất tốt bụng”.
“Và đừng nghĩ đó chỉ là vì Naomi yêu cầu tôi. Đây là vinh hạnh của tôi, cô phải biết điều đó.”
Wexford và Burden nói tạm biệt và rằng họ rất vui được gặp bà ta. “Giờ đến chỗ Sandra Warner chứ?”, Burden nói.
“Mike, tôi nghĩ chúng ta sẽ bảo bà ta và Prinsip tới trụ sở. Tôi không thể chịu nổi chỗ của Sandra và chồng bà ta. Nhất là sau khi đã ăn sáng.”