I: Thành Phố Bên Bờ Biển.
Dina Dalal chẳng mấy khi cho phép mình hồi tưởng lại cuộc đời với những xúc cảm tiếc nuối hoặc cay đắng, hay tự hỏi tại sao sự thể lại đến nông nỗi này, rồi lừa phỉnh bản thân bằng tương lai xán lạn mà những người xung quanh đã dự báo cho cô từ hồi cô đang đi học, khi tên cô vẫn còn là Dina Shroff. Và nếu có lỡ sa vào một khoảnh khắc hiếm hoi như vậy, cô sẽ lập tức vùng thoát khỏi nó ngay. Nhắc đi nhắc lại chuyện cũ phỏng có ích gì, cô luôn tự vấn bản thân, đằng nào kết cục chẳng như vậy; dù có chọn hành lang nào, rốt cuộc cô cũng sẽ đến cùng một căn phòng mà thôi.
Cha của Dina là một ông đốc tờ, một bác sĩ đa khoa với chuyên môn vừa phải nhưng đã trót khắc cốt ghi tâm lời thề Hippocrates có phần sâu sắc hơn các bạn đồng nghiệp. Trong những năm khởi đầu y nghiệp, lòng tận tụy với công việc của bác sĩ Shroff được các bạn đồng trang lứa, gia đình, cùng các bác sĩ lão thành xem là minh chứng tiêu biểu cho nhiệt tâm và sức sống tuổi trẻ. “Nhiệt huyết thanh xuân thật đáng quý biết mấy,” họ mỉm cười và gật gù với nhau, trong bụng chắc mẩm rằng thời gian sẽ dập bớt ngọn lửa lý tưởng ấy bằng một liều vừa phải hoài nghi pha trộn những gánh nặng gia đình.
Song cuộc hôn nhân, và sự ra đời của một cậu con trai, nối tiếp bằng một cô con gái mười một năm sau đó, chẳng tạo ra chút khác biệt nào đối với bác sĩ Shroff. Thời gian chỉ càng khoét sâu hơn tình trạng bất cân xứng giữa một bên là khát vọng xoa dịu những khổ đau của ông và bên kia là mong ước kiếm được một nguồn thu nhập dễ chịu.
“Thật đáng thất vọng,” bạn bè và người thân lắc đầu, đổi giọng. “Chúng ta đã đặt bao nhiêu hi vọng vào anh ta. Ấy thế mà anh ta cứ làm việc quần quật như một gã thầy ký, như một thằng loạn óc, chẳng thèm biết đến hưởng thụ cuộc sống là cái gì. Rõ khổ nhà chị Shroff. Nghỉ mát không, tiệc tùng không, rồi đến mãn đời cũng chả biết tí mùi vui thú nào mất.”
Bước sang tuổi năm mươi mốt, khi đa số các bác sĩ đa khoa đã bắt đầu tính đến những phương kế như giảm phân nửa thời gian làm việc, thuê một bác sĩ giúp việc với giá rẻ mạt, hoặc thậm chí bán cả phòng khám đi để nghỉ hưu sớm, thì bác sĩ Shroff lại chẳng có nổi một tài khoản ngân hàng lẫn lòng dạ để cho phép mình nuông chiều bản thân như thế. Thay vào đó, ông xung phong dẫn đầu một chiến dịch đưa sinh viên y khoa đến các vùng sâu vùng xa. Ở đó, nơi thương hàn và dịch tả, chưa hề bị thách thức bởi khoa học và công nghệ, vẫn đều đặn gặt hái nạn nhân qua từng năm, bác sĩ Shroff sẽ gắng hết sức để ghìm giữ lưỡi hái tử thần hay chí ít cũng khiến nó cùn mòn đi chút ít.
Còn bà Shroff lại tiến hành một chiến dịch khác hẳn: thuyết phục ông chồng khỏi dấn thân vào chỗ mà bà cho là nanh vuốt của cái chết không đường thoát. Bà quyết huấn luyện Dina nói năng làm sao để lay chuyển được ông bố. Nói gì thì nói, Dina, lúc ấy mười hai tuổi, cũng là cục cưng của ông. Bà Shroff biết chắc thằng con trai Nusswan sẽ chẳng giúp gì được trong vụ này. Lôi nó vào chỉ tổ phá hỏng bất cứ cơ hội khả dĩ nào hòng thay đổi quyết định của chồng bà.
Bước ngoặt trong quan hệ cha con đến từ bảy năm trước, vào đúng sinh nhật thứ mười sáu của Nusswan. Các cô dì chú bác đều được mời đến ăn cơm. Bỗng có người nói: “Nusswan này, chả mấy chốc mà cháu sẽ lại học trường y rồi thành bác sĩ, như cha cháu ấy.”
“Cháu không muốn trở thành bác sĩ,” Nusswan đáp luôn. “Cháu sẽ làm trong ngành xuất nhập khẩu.”
Vài người lớn gật đầu tán thành. Những người khác giãy nảy lên như đỉa phải vôi và quay ngay sang bác sĩ Shroff: “Có thật thế không? Con trai lại không nối nghiệp bố ư?”
“Dĩ nhiên là thật,” ông đáp. “Các cháu nhà tôi được phép chọn nghề gì tùy thích.”
Nhưng cô bé Dina năm tuổi đã nhận thấy nỗi đau hiện lên khuôn mặt của bố trước khi ông kịp giấu đi. Cô bé lon ton chạy đến và trèo lên lòng bố: “Bố, khi nào lớn, con cũng muốn làm bác sĩ giống như bố.”
Mọi người cười ồ lên và vỗ tay rầm rầm; ai nấy đều bảo, con bé thế mà kháu, thật biết cách có được những thứ mình muốn. Về sau, họ rỉ tai nhau rằng, rõ ràng thằng con trai không mang khí chất rắn rỏi như ông bố – chả có tham vọng gì sất, rồi cũng chẳng làm nên trò trống gì đâu.
Nhiều năm sau đó, Dina vẫn nhắc đi nhắc lại mơ ước đó, lúc nào cô bé cũng xem bố như một vị thánh ban phát sức khỏe cho mọi người, chiến đấu chống lại bệnh tật, và, có những lúc còn tạm đẩy lùi được cả cái chết. Còn bác sĩ Shroff thì vô cùng mát lòng mát ruột vì cô con gái sáng dạ. Trong những buổi tối họp phụ huynh ở trường dòng, thầy hiệu trưởng và các giáo viên luôn dành cho cô bé những lời tán dương tốt đẹp nhất. Nếu muốn, cô bé sẽ làm nên chuyện, bác sĩ Shroff biết chắc chắn là vậy.
Bà Shroff cũng biết chắc chắn rằng, cô con gái là người duy nhất bà có thể trông cậy trong chiến dịch chống lại kế hoạch nhân đạo ngu ngốc của ông chồng nhằm đi cứu giúp mấy ngôi làng khỉ ho cò gáy nào đó. Nhưng Dina không chịu hợp tác; cô không chấp nhận bất cứ thủ đoạn bất chính nào hòng giữ người cha thân yêu ở nhà.
Thế là bà Shroff đành tìm kế khác; bà không viện đến tiền bạc hay an nguy của bản thân ông hoặc gia đình để thuyết phục chồng nữa, vì bà biết những thứ đó đều vô dụng cả. Thay vào đó, bà lôi các bệnh nhân của ông ra, kêu rằng ông bỏ mặc họ, những con người già cả, yếu đuối, không nơi nương tựa. “Họ biết phải làm sao, nếu anh đi tới nơi xa xôi như thế? Họ đã tin tưởng và trông cậy vào anh biết bao nhiêu. Sao anh nỡ nhẫn tâm làm vậy? Anh không biết đối với họ, anh quan trọng đến nhường nào đâu.”
“Không, vấn đề không phải ở chỗ đó,” bác sĩ Shroff gạt đi. Ông đã quá quen với những lập luận trúc trắc mà vợ có thể nghĩ ra, dưới sự xúi giục của tình yêu bà dành cho ông. Ông kiên nhẫn giải thích rằng trên thành phố còn vô khối các bác sĩ đa khoa khác có thể xử lý đủ mọi loại bệnh tật trên đời, trong khi ở nơi ông sắp đến, người dân chẳng có bác sĩ nào cả. Ông trấn an bà rằng đó chỉ là một chuyến công tác ngắn hạn, rồi ôm hôn bà thắm thiết hơn hẳn lệ thường ông vẫn làm. “Anh hứa sẽ sớm quay về,” ông nói. “Còn trước cả khi em kịp quen với sự vắng mặt của anh kia.”
Nhưng bác sĩ Shroff không giữ nổi lời hứa. Chỉ mới đi chiến dịch được ba tuần, ông đã ra đi, không phải vì bệnh thương hàn hay dịch tả, mà vì một vết hổ mang cắn, trong điều kiện xa cách mọi phương thuốc kháng nọc rắn.
Bà Shroff đón nhận tin dữ một cách bình thản. Người ta nói đó là vì bà là vợ của một bác sĩ, vốn đã quen mặt cái chết hơn người thường. Họ tự lý giải rằng, hẳn trước kia ông cũng thường xuyên kể với bà những chuyện liên quan đến các bệnh nhân của mình; nhờ vậy, bà đã được chuẩn bị cho giây phút không thể tránh khỏi.
Bà lập tức bắt tay vào lo ma chay cho chồng, cắt đặt mọi việc nhanh nhẹn đến không ngờ, khiến những người xung quanh không khỏi ngỡ ngàng, phải chăng trong cách cư xử của bà có điều gì đó hơi bất bình thường? Giữa những lần thò tay vào túi xách để lấy tiền chi trả món nọ món kia, bà vẫn nhận lời chia buồn của khách khứa, an ủi những quyến thuộc đang buồn đau than khóc, rót thêm dầu vào chiếc đèn con đặt trên đầu giường nơi bác sĩ Shroff nằm, giặt và ủi tấm sari trắng, và kiểm tra xem trong nhà còn đủ hương trầm và gỗ đàn hương hay không. Bà cũng tự mình hướng dẫn các đầu bếp cách nấu bữa cỗ chay đặc biệt cho ngày hôm sau.
Sau bốn ngày tang lễ, Dina vẫn còn thút thít mãi không thôi. Bà Shroff, lúc ấy đang bận kiểm kê lại những chi phí cho lễ tụng niệm trên Tháp Bình Yên[4], nói giọng dứt khoát:
“Kìa, con, bình tĩnh lại đi. Bố con sẽ không thích thế đâu.” Nghe vậy, Dina bèn gắng nín khóc.
Tay viết séc, bà Shroff lơ đễnh tiếp lời: “Kể ra nếu muốn, con đã có thể can ngăn được ông ấy. Thế nào ông ấy cũng nghe lời con.”
Tiếng khóc của Dina lại vỡ òa, lần này còn tức tưởi hơn nữa. Ngoài nỗi xót thương dành cho cha, nước mắt của cô bé giờ đây chất chứa cả nỗi oán giận đối với mẹ, thậm chí căm ghét. Phải mất vài tháng sau cô mới hiểu rằng, những lời bà nói chẳng mang chút ác tâm hay ý định buộc tội nào, đó chỉ là một lời phát biểu đơn giản và buồn thảm về một sự thật đã rồi dưới góc nhìn của mẹ cô.
Sáu tháng sau cái chết của bác sĩ Shroff, sau khi đã đóng tròn vai trụ cột cho mọi người nương tựa, bà Shroff dần quỵ ngã. Rút lui dần khỏi cuộc sống thường nhật, bà hầu như không còn để tâm mấy đến việc nhà hay chính bản thân bà nữa.
Điều đó chẳng khiến Nusswan bận lòng, anh ta đã hai mươi ba tuổi và đang bận toan tính cho tương lai của riêng mình. Song Dina lúc ấy mới mười hai tuổi, hẵng còn cần sự dìu dắt của cha mẹ thêm vài năm nữa. Cô bé nhớ cha quay quắt. Việc mẹ thu mình lại khiến tình hình càng thêm bi đát.
Nusswan Shroff đã tự kiếm sống được bằng nghề buôn bán từ hai năm trước khi bố mất. Anh ta vẫn còn độc thân, sống tại nhà, đang vừa tích cóp tiền của vừa tìm kiếm một căn hộ thích hợp cùng một cô vợ xứng đôi vừa lứa. Nay bố mất, mẹ khép mình lại, anh ta bỗng nhận ra lùng tìm một căn hộ không còn là việc cần thiết nữa, còn kiếm vợ đã thành chuyện cấp bách.
Giờ đây anh ta giành lấy cương vị chủ gia đình và trở thành người bảo hộ hợp pháp cho Dina. Họ hàng thân thích đều cho thế là phải. Ai nấy hết lời ca tụng quyết định vị tha đó, và thừa nhận rằng họ đã đánh giá sai về năng lực của anh ta. Anh ta cũng nắm luôn thu chi của cả nhà, hứa hẹn rằng mẹ và em sẽ không thiếu thốn một thứ gì; anh ta sẽ lấy tiền lương của mình để chăm lo cho họ. Mồm nói thế, song anh ta biết không cần thiết phải làm như vậy. Nguyên khoản tiền bán phòng khám của bác sĩ Shroff đã là quá đủ.
Quyết định đầu tiên của Nusswan với tư cách chủ gia đình là cắt giảm số người giúp việc. Người đầu bếp vẫn đi làm nửa ngày và lo nấu hai bữa chính được giữ lại; còn Lily, cô hầu gái sống cùng cả nhà, bị cho thôi việc. “Chúng ta không thể tiếp tục cuộc sống xa xỉ như trước kia được nữa,” anh ta tuyên bố. “Lương bổng của con không kham nổi.”
Bà Shroff tỏ vẻ nghi ngại trước thay đổi này. “Vậy ai sẽ lo phần dọn dẹp, giặt giũ? Chân tay mẹ có còn khỏe mạnh như xưa đâu.”
“Mẹ đừng lo, ba mẹ con ta sẽ chia nhau làm. Mẹ có thể làm những việc nhẹ nhàng, như lau bàn ghế giường tủ. Chúng ta có thể tự rửa cốc tách bát đĩa, chắc chắn rồi. Em Dina còn trẻ, thiếu gì sức. Làm thế cũng tốt cho nó, có thế nó mới học được cách chăm nom cửa nhà.”
“Ừ, con nói cũng phải,” bà Shroff đáp, phần nào bị thuyết phục bởi tính cấp thiết của những biện pháp thắt chặt chi tiêu.
Nhưng Dina biết, trong chuyện này còn có uẩn khúc. Tuần trước đó, khi đi qua bếp để vào nhà vệ sinh, lúc ấy đã quá nửa đêm, cô bé nhìn thấy anh mình đang ở cùng cô giúp việc: Lily ngồi ở một đầu bàn bếp, hai chân đặt lên mép bàn; còn Nusswan, quần pyjama tụt xuống tận mắt cá, đứng giữa háng Lily, tay siết chặt hông cô ta vào thân mình. Dina nhìn lom lom cặp mông trần trụi của anh trai với vẻ tò mò mơ ngủ, rồi rón rén quay trở lại giường mà không hề đi vệ sinh, hai má đỏ bừng. Song ắt hẳn cô bé đã nấn ná ở đó hơi lâu, vì Nusswan đã kịp trông thấy cô.
Không một ai đả động gì tới chuyện đó. Lily ra đi (với một khoản trợ cấp khiêm tốn mà bà Shroff không hề hay biết đến); giữa hai hàng nước mắt, cô ta kêu rằng mình sẽ không bao giờ tìm được một gia đình nào khác tử tế hơn thế. Dina vừa thương hại lại vừa khinh bỉ cô ta.
Sau đó, cách thức tổ chức gia đình mới được áp dụng. Mọi thành viên đều thành thực cố gắng. Cuộc thử nghiệm khả năng “tự thân vận động” xem ra cũng thú vị. “Cứ như đi dã ngoại ấy nhỉ?” Bà Shroff nói.
“Chính thế đấy, mẹ ạ!” Nusswan tán đồng.
Ngày qua ngày, phần việc nhà của Dina tăng dần lên. Để làm bằng cho sự góp sức của mình, Nusswan vẫn rửa chiếc cốc và đĩa ăn sáng của mình trước khi đi làm. Ngoài việc đó ra, anh ta không làm gì cả.
Một buổi sáng, khi đã nuốt trôi hớp trà cuối cùng, anh ta nói: “Dina, anh muộn giờ làm mất rồi. Rửa hộ anh mấy thứ này nhé.”
“Em không phải người hầu của anh! Anh đi mà tự rửa bát đĩa của mình!” Những ấm ức đã dồn nén hàng tuần liền nay bắt đầu vỡ bung. “Anh nói ai sẽ lo việc của người nấy! Nhưng mọi thứ bẩn thỉu anh đều đổ hết cho em dọn!”
“Chà chà, xem cô hổ con nói gì này!” Nusswan kêu lên, giọng thích thú.
“Con không được nói năng kiểu đó với anh,” bà Shroff khẽ quở. “Nên nhớ, công việc phải được chia đều.”
“Anh ấy ăn gian! Anh ấy chẳng làm gì cả! Con mới phải làm tất!”
Nusswan ôm mẹ: “Con chào mẹ,” và vỗ nhẹ lên vai Dina để dàn hòa. Cô bé rùn người tránh. “Cô hổ con vẫn còn giận đây mà,” anh ta nói rồi bỏ đi làm.
Bà Shroff cố dỗ dành Dina, hứa sẽ bàn bạc với Nusswan, có khi còn thuyết phục anh ta thuê thêm một người giúp việc bán thời gian chăng, song quyết tâm của bà tan chảy chỉ sau vài tiếng đồng hồ. Mọi việc vẫn đâu vào đấy. Nhiều tuần trôi qua, thay vì tái lập công bằng trong gia đình, chính bản thân bà dần biến thành một trong những đầu việc góp thêm vào danh sách đã đầy ngất của cô con gái.
Giờ bà Shroff cần có người chỉ bảo mới làm nổi việc. Khi cơm canh được đặt trước mặt, bà cũng ăn, dù nó hầu như chẳng giúp ích gì cho bà, vì bà liên tục sút cân. Phải nhắc nhở luôn luôn để bà nhớ là phải tắm và thay quần áo. Nếu kem đánh răng được nặn ra bàn chải và giúi vào tay bà, bà mới đánh răng. Với Dina, nhiệm vụ đáng chán nhất là gội đầu cho mẹ, hàng nhúm tóc rơi lả tả xuống sàn phòng tắm, và đến lúc chải đầu, số tóc rụng xuống còn nhiều hơn.
Mỗi tháng một lần, bà Shroff lại đến đền thờ lửa dự lễ cầu nguyện cho chồng. Bà nói mình cảm thấy thanh thản vô cùng khi lắng nghe chất giọng êm ái của thầy Framji cầu cho linh hồn chồng bà được siêu thoát. Dina xin nghỉ học để đưa mẹ đi, vì lo bà sẽ lang thang đâu đó.
Trước khi cử hành buổi lễ, thầy Framji ngọt ngào bắt tay bà Shroff và dành cho Dina một cái ôm siết rất lâu vốn được ông ta ưu ái tặng riêng cho các cô bé và các thiếu nữ. Lừng tiếng là thích ôm ấp và ve vuốt, ông được người ta tặng cho cái danh tục Thầy Táy Máy và sống trong thái độ thù ghét của bạn bè đồng đạo, những người khó chịu với ông không phải vì những cử chỉ đó, mà vì bản tính thiếu tế nhị và thói ngoan cố không chịu nguỵ trang những vòng ôm của mình bằng cái vỏ tình cảm bề trên và tín ngưỡng. Họ sợ rằng đến một ngày, ông ta sẽ đi quá xa mà nhỏ dãi tong tỏng lên nạn nhân của mình hoặc làm gì đó, và bôi nhọ cả ngôi đền.
Dina co rúm người lại trong vòng tay của ông ta, trong khi ông ta vỗ lên đầu cô, xoa xát cổ cô, ve vuốt lưng cô và ép chặt thân mình vào người cô. Ông ta có bộ râu ngắn ngủn, lởm chởm, nom như cùi dừa nạo. Những sợi râu cào xước cả đôi má và trán cô bé. Ông ta chỉ chịu buông cô ra khi cô đã thu hết can đảm để giằng cơ thể đang bị bó cứng khỏi đôi tay ông.
Sau buổi lễ ngoài đền, Dina dành cả ngày còn lại ở nhà để ép mẹ mở miệng, cô xin bà lời khuyên về các công việc nội trợ hoặc bí quyết nấu nướng, và nếu cách đó không ăn thua, cô sẽ hỏi về bố và cuộc sống của hai người khi họ mới lấy nhau. Đứng trước thái độ trầm lặng lơ đễnh của mẹ, Dina cảm thấy bất lực. Chẳng bao lâu sau, nỗi lo lắng cô bé dành cho mẹ đã được xoa dịu dần dần bởi bản năng tuổi trẻ, cô bình tâm trở lại – rồi cô sẽ được nhận đủ khẩu phần khổ đau và u buồn khi đến lúc, không cần phải tự chất gánh nặng vào thân quá sớm làm gì.
Còn bà Shroff chỉ hắt ra từng âm tiết hoặc tiếng thở dài, rồi nhìn lom lom vào mặt Dina để chờ câu trả lời. Về khoản lau chùi đồ đạc, bà chẳng động cựa gì nhiều ngoài việc lau chiếc khung lồng tấm ảnh tốt nghiệp của chồng. Phần lớn thời gian bà chỉ nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ.
Nusswan thích nhìn nhận tình trạng suy sụp của mẹ như động thái hy sinh chính đáng của một bà quả phụ, trong đó bà rũ bỏ hết những bụi nhơ trần tục để có thể toàn tâm toàn ý chăm chút đời sống tâm linh. Anh ta bèn tập trung vào việc nuôi dạy Dina. Ý nghĩ về trách nhiệm khổng lồ đang dồn lên đôi vai mình khiến anh ta lo âu khôn nguôi.
Nusswan luôn xem cha mình là một con người kỉ luật nghiêm khắc; anh ta đã vô cùng ngưỡng vọng ông, thậm chí có phần e sợ ông. Anh ta cho rằng, nếu đã đứng vào cương vị của cha, anh ta cũng phải tạo ra được cái uy khiến người khác kiêng nể hệt như vậy, và anh ta rất chăm chỉ cầu nguyện với ước mong có đủ dũng khí và được dìu dắt để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Anh ta tâm sự với các họ hàng thân thích – các cô dì chú bác – rằng bản tính ngỗ nghịch và cứng đầu của Dina khiến anh ta phát điên, và rằng chỉ có sự giúp sức của Đấng Tối Cao mới cho anh ta sức mạnh để tiếp tục gánh vác trọng trách này.
Sự chân thành của anh ta khiến mọi người cảm động. Họ hứa sẽ cầu nguyện cho anh ta. “Đừng lo, Nusswan, rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy cả thôi. Chúng ta sẽ thắp một ngọn đèn ở đền thờ lửa.”
Ấm lòng trước sự ủng hộ của các bậc cha chú, Nusswan bắt đầu đưa Dina theo mình tới đền thờ lửa mỗi tuần một lần. Đến nơi, anh ta ấn một thanh gỗ đàn hương vào tay cô bé và gằn từng tiếng vào tai cô: “Giờ thì đi cầu nguyện cho tử tế vào! Hãy xin Bề Trên biến mày thành một cô gái ngoan, hãy xin Người làm cho mày biết nghe lời!”
Trong khi cô bé quỳ gối trước chính điện, anh ta bước dọc theo bức tường bao bọc điện thờ, nơi treo ảnh của các vị thầy tế và thầy cả. Anh ta dừng lại trước từng tấm hình, vuốt ve vòng hoa treo trên đó, ôm lấy khung ảnh, hôn lên mặt kính, và kết thúc cuộc hành trình ở bức ảnh lớn vẽ hình Zarathustra[5], nơi anh ta dán môi lên đúng một phút tròn. Sau đó, từ chiếc bình tro đặt ở cửa ra vào của chính điện, anh ta chấm một ít lên trán, quệt một vệt ngang họng, và cởi hai chiếc khuy trên cùng của chiếc áo sơ mi để xoa đều một nắm tướng tro lên khắp ngực.
Như xoa bột tan ấy, Dina trộm nghĩ khi ghé mắt nhìn từ nơi cô đang quỳ, bấm bụng để không bật cười thành tiếng. Cô không dám ngẩng đầu lên cho tới khi ông anh kết thúc trò hề của mình.
“Mày có cầu nguyện tử tế không đấy?” Anh ta cật vấn khi hai em đã ra khỏi điện.
Cô bé gật đầu.
“Tốt. Giờ thì tất cả những suy nghĩ xấu xa sẽ rời bỏ óc mày, mày sẽ thấy trái tim bình yên và tĩnh tại.”
Dina không được phép đến chơi nhà bạn vào những dịp lễ tết nữa. “Cần gì phải thế,” Nusswan nói. “Ngày nào đến trường mày chả gặp chúng nó.” Các bạn bè vẫn có thể đến thăm cô bé khi được ông anh cho phép, nhưng gặp gỡ kiểu này cũng chẳng vui vẻ gì, bởi anh ta luôn rình rập xung quanh.
Có một lần, anh ta nghe lỏm thấy em gái và cô bạn Zenobia đùa cợt về hàm răng của mình ở ngay phòng bên. Chuyện đó chỉ càng củng cố lòng tin của anh ta rằng những con quỷ nhỏ này cần được giám sát nghiêm ngặt. Zenobia bảo, trông anh ta chả khác gì một con ngựa.
“Phải đấy, con ngựa mang hàm răng giả rẻ tiền,” Dina đế thêm.
“Giá một con voi mà có ngần ấy ngà, thì nó sẽ vênh váo phải biết!” Zenobia càng làm già.
Hai đứa đang cười lăn cười bò thì ông anh bước vào. Anh ta nẹt cho mỗi đứa một cú lườm chết chóc rồi mới quay lưng bỏ đi với một tốc độ chậm rãi rợn người, bỏ lại đằng sau là bầu không khí im lặng và khiếp đảm. Phải rồi, có thế chứ, anh ta chợt ngộ ra trong cảm giác sửng sốt và đắc thắng: Nỗi sợ đã phát huy tác dụng.
Nusswan vốn rất nhạy cảm về hàm răng vẩu của mình. Hồi đến tuổi choai choai, anh ta đã thử đi nắn lại cho thẳng. Dina, lúc ấy mới sáu, bảy tuổi, đã trêu chọc ông anh không thương tiếc. Song quá trình chỉnh hình quá đau đớn nên anh ta bỏ ngang, và than rằng mang tiếng có bố là bác sĩ, thế mà khiếm khuyết của anh ta chẳng hề được quan tâm chữa chạy kịp thời từ khi còn bé. Anh ta thường chỉ vào khuôn miệng hoàn hảo của Dina, lấy đó làm bằng cho sự thiên vị.
Xót con, bà mẹ ra sức phân bua: “Con ơi, lỗi tại mẹ cả, mẹ không biết là trẻ con cần được mát xa răng thường xuyên và ấn nhẹ vào phía trong. Bà y tá già đỡ cho em Dina đã dạy mẹ thế, nhưng lúc đấy mà làm cho con thì không kịp nữa rồi.”
Nusswan chưa bao giờ tin lời mẹ. Và giờ, khi bạn của Dina đã về, cô bé phải trả giá. Anh ta bắt cô bé nhắc lại những gì hai đứa đã nói. Cô bé hiên ngang nhắc lại.
“Mày đã quen thói chuyện gì cũng tông tốc nói ra bằng hết. Nhưng mày có còn bé bỏng gì nữa đâu. Phải có người dạy cho mày biết thế nào là lễ độ.” Anh ta thở dài. “Thiết nghĩ, đấy chính là bổn phận của tao.” Và không hề báo trước, anh ta dang tay vả liên tục vào mặt cô bé. Anh ta chỉ dừng lại khi môi dưới của cô bật máu.
“Đồ con lợn!” Cô bé khóc tức tưởi. “Anh muốn tôi cũng xấu xí như anh chứ gì!” Nghe thế, anh ta vồ lấy cái thước và quật cô bé túi bụi, còn Dina chạy quanh, cố né tránh những cú vụt.
Duy chỉ lần này, bà Shroff bỗng nhận thấy có gì đó bất thường. “Sao con lại khóc, con gái?”
“Tại thằng quỷ hút máu ngu si kia ấy! Nó đánh con chảy cả máu đây này!”
“Chậc chậc, khổ thân con tôi.” Bà ôm Dina rồi trở về chỗ ngồi của mình bên cửa sổ.
Hai ngày sau vụ này, Nusswan cố làm lành bằng cách mang về cho Dina một bộ dây buộc tóc. “Em lấy mà buộc đuôi sam, đẹp lắm đấy,” anh ta nói.
Cô bé bèn mở cặp sách, lấy chiếc kéo thủ công ra và cắt vụn mớ dây buộc tóc thành từng mảnh nhỏ.
“Mẹ, mẹ xem kìa!” Anh ta kêu lên, gần như phát khóc. “Mẹ xem cô con gái thù dai của mẹ đấy! Bao nhiêu tiền đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được, con tiêu cả cho nó. Vậy mà nó cảm ơn con thế đấy!”
Cây thước trở thành công cụ ưa thích của Nusswan trong công cuộc thiết lập kỉ cương. Quần áo của anh ta là nguyên nhân phổ biến nhất khiến Dina bị phạt. Sau khi giặt, ủi, và gập xong đồ, cô bé phải xếp thành bốn chồng riêng biệt trong tủ của anh trai: áo sơ mi trắng, áo sơ mi màu, quần trắng, quần màu. Đôi khi, cô bé cố tình bỏ một chiếc áo kẻ sọc vào giữa chồng sơ mi trắng, hoặc thả rông chiếc quần in họa tiết răng chó giữa cả đám quần trắng. Bị đánh đập là thế, song cô bé không bao giờ chán chọc tức ông anh.
“Với cung cách cư xử đấy, cháu có cảm giác chính quỷ Sa Tăng đang trốn trong tim nó,” anh ta mệt mỏi kêu than với những người họ hàng đến hỏi thăm tình hình. “Có khi cháu phải tống nó vào trường nội trú nào đó thôi.”
“Ấy, ấy, đừng làm quá lên,” các cô bác van vỉ. “Trường nội trú đã làm hỏng biết bao cô gái Parsi rồi đấy. Thế nào Thượng Đế cũng bù đắp xứng đáng cho lòng kiên nhẫn và tận tụy của cháu. Con Dina nữa, rồi nó sẽ cảm ơn cháu khi nó đủ lớn để hiểu rằng cháu làm thế chỉ vì lo cho nó mà thôi.” Họ ra về, miệng lẩm bẩm, thằng bé quả là một vị thánh, đứa con gái nào phải dày phúc lắm mới có được một ông anh như thế.
Những lời khích lệ của họ hàng giúp khôi phục tinh thần của anh ta, khiến Nusswan thêm bền gan. Anh ta tự mình mua tất cả quần áo cho Dina, đích thân quyết định cái gì mới là phù hợp cho một cô gái trẻ. Những món đồ mua về thường là nom chẳng ra sao, vì cô em gái không được phép ló mặt đến nơi anh ta mua hàng. “Tao không muốn phải đôi co với mày ngay trước mặt người bán hàng,” anh ta nói. “Mày chỉ toàn làm xấu mặt tao thôi.” Khi cô bé cần đồng phục mới, anh ta hộ tống cô bé đến trường vào ngày thợ may tới để giám sát việc đo đạc. Anh ta hạch sách thợ về giá cả và vải vóc, cố tính toán xem ông hiệu trưởng được lại quả bao nhiêu. Dina rất hãi sự kiện thường niên này, và luôn hoang mang không biết điều tủi hổ mới nào sẽ lại đổ xuống đầu mình ngay trước mặt các bạn cùng lớp.
Tất cả các bạn bè của Dina giờ đều để tóc ngắn, cô bé bèn xin được hưởng đặc ân tương tự. “Nếu anh cho em cắt tóc, em sẽ lau phòng ăn hàng ngày chứ không làm cách nhật nữa,” cô cố mặc cả. “Hoặc em sẽ đánh giày cho anh hàng tối.”
“Không,” Nusswan gạt đi. “Mười bốn tuổi đầu mà đã đua đòi mốt nọ mốt kia nỗi gì? Mày cứ để tóc đuôi sam là đẹp nhất. Vả lại, tao lấy đâu ra tiền để trả cho thợ làm tóc?” Nhưng anh ta lập tức thêm đánh giày vào danh sách việc nhà của Dina.
Một tuần sau lần nài xin cuối cùng, Dina quyết định xén cụt chiếc đuôi sam, với sự trợ giúp của Zenobia trong khu nhà vệ sinh trường. Tham vọng của Zenobia là trở thành nhà tạo mẫu tóc, và cô bé vô cùng phấn khích khi thần may mắn mang cái đầu của cô bạn gửi gắm vào tay mình. “Hay mình xén hết cả mớ bù xù này đi,” cô bé gợi ý. “Cắt thật ngắn luôn!”
“Cậu điên à?” Dina kêu lên. “Nusswan sẽ nhảy dựng lên mất.” Cuối cùng, hai bên nhất trí sẽ cắt kiểu thị đồng, và Zenobia tỉa tóc cô bạn cách vai chừng hai, ba phân. Nom sản phẩm có phần hơi luôm nhuôm, nhưng cả hai cô bé đều lấy thế làm hoan hỉ lắm.
Dina ngần ngại không dám vứt mấy cái đuôi sam vừa bị cắt vào thùng rác. Cô bé bèn cất vào cặp sách rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Cô kiêu hãnh diễu hành quanh nhà, liên tục đi qua đi lại trước các tấm gương để được ngắm mái tóc của mình từ đủ mọi góc độ khác nhau. Sau đó, cô ghé vào phòng mẹ và chờ đợi – một sự ngỡ ngàng, thích thú, hay gì đó từ phía bà. Nhưng bà Shroff chẳng nhận thấy điều gì hết.
Cuối cùng, cô bé đành hỏi: “Mẹ, mẹ có thích kiểu tóc mới của con không?”
Bà Shroff nhìn đăm đăm bằng ánh mắt vô hồn mất một lúc. “Đẹp lắm, con ạ, đẹp lắm.”
Tối hôm đó, Nusswan về muộn. Anh ta chào mẹ, và kêu rằng công việc ở chỗ làm lu bù quá. Rồi anh ta nhìn thấy Dina. Anh ta hít vào một hơi thật sâu và áp một tay lên trán. Mệt mỏi rã rời, anh ta ước sao có một cách nào khác để giải quyết việc này mà không cần viện đến một trận đánh nữa. Nhưng thái độ xấc láo, bất trị của con bé không thể không bị trừng phạt đến nơi đến chốn được; nếu không, làm sao anh ta còn dám nhìn mặt chính mình trong gương nữa?
“Ra đây nào, Dina. Nói xem, tại sao mày lại không nghe lời tao?”
Cô bé gãi gãi cổ, nơi những vụn tóc còn rơi rớt đâm vào khiến da ngứa ngáy. “Em không nghe lời anh ở chỗ nào?”
Anh ta tát cô. “Tao cấm mày hỏi vặn lại khi tao đang hỏi mày chuyện gì đó.”
“Anh chả nói anh không có tiền trả cho thợ cắt tóc còn gì. Cái này chẳng tốn đồng nào cả, em tự cắt đấy.”
Anh ta lại tát cô. “Tao đã cấm mày không được cãi cơ mà.” Anh ta lấy cây thước và đánh vào bàn tay cô bằng mặt thước, tiếp đó, vì thấy rằng hành động xúc phạm này là đặc biệt nghiêm trọng, anh ta dựng sống thước lên và quật vào các đốt ngón tay. “Thế này để mày chừa cái thói ăn vận như một đứa con gái hư hỏng đi nhé!”
“Thế anh đã tự nhìn cái đầu anh trong gương chưa? Trông anh chẳng khác gì một thằng hề!” Cô bé vặc lại, không hề nao núng.
Mái tóc của Nusswan, theo quan điểm của riêng anh ta, là tuyên ngôn của vẻ đẹp thanh tao tôn quý. Anh ta rẽ ngôi ở chính giữa, và áp đặt trật tự lên hai bên bằng phương pháp vuốt sáp có tính toán cẩn trọng. Lời chế giễu của Dina đã làm bùng nổ cơn thịnh nộ của nhà hành pháp. Anh ta đẩy cô bé, lúc ấy bắp chân và cẳng tay đã chằng chịt những vết thước quật, vào nhà tắm, và bắt đầu giật tung quần áo của cô ra.
“Tao không muốn nghe mày nói một chữ nào nữa! Không một chữ! Hôm nay mày đã vượt quá giới hạn rồi đấy. Giờ thì đi tắm ngay, đồ dơ bẩn! Dội cho sạch chỗ vụn tóc kia mau, trước khi mày đem chúng gieo rắc khắp nhà và mang xui xẻo về cho cái gia đình này!”
“Anh lo gì chứ, chỉ cần trông thấy mặt anh là vận xui phải sợ chết khiếp mà cút đi ngay.” Cô bé đứng đó trên nền gạch, trần truồng, nhưng anh ta vẫn chưa bỏ đi. “Em cần nước nóng,” cô nói.
Anh ta lùi lại, múc một ca nước lạnh từ xô rồi tạt vào người cô. Toàn thân run cầm cập, cô trừng mắt nhìn anh ta đầy thách thức, hai núm vú săn cứng lại. Anh ta cấu một bên đầu vú, rất mạnh, khiến cô bé giật nảy người. “Xem mày kìa, bắt đầu có ngực rồi cơ đấy. Mày tưởng mày đã lớn rồi ư? Tao thì xẻo luôn cặp vú bây giờ, cùng cái lưỡi độc địa của mày nữa!”
Anh ta săm soi cô bằng ánh mắt kì lạ. Cô bé bắt đầu thấy sợ. Cô hiểu rằng lời đáp trả gai góc của mình đã làm anh ta sôi tiết, rằng nó có dính dáng ít nhiều đến cách anh ta nhìn chằm chằm vào nhúm lông mới nhú ở nơi cặp đùi của cô tiếp giáp nhau. Tỏ vẻ quy phục để xoa dịu bớt cơn giận của anh ta sẽ là an toàn hơn. Cô quay đi và bắt đầu khóc, hai tay úp lên che mặt.
Thỏa mãn, anh ta bỏ đi. Chiếc cặp sách của cô nằm vạ vật trên giường đã thu hút sự chú ý của anh ta. Anh ta mở ra chỉ để kiểm tra hú họa và nhìn thấy mấy cái đuôi sam được nhét ngay phía ngoài. Dùng ngón cái và ngón trỏ nhón một cái lên, Nusswan nghiến răng lại cho đến khi một nụ cười từ từ kéo giãn những nét cáu kỉnh trên khuôn mặt anh ta ra.
Khi Dina tắm xong, anh ta kiếm một cuộn băng dính điện màu đen và dán chặt mấy chiếc đuôi sam vào tóc cô. “Mày sẽ phải để tóc thế này,” anh ta tuyên bố. “Tất cả các ngày, kể cả khi đi học, tới chừng nào tóc mày mọc dài lại thì thôi.”
Cô bé ước sao mình đã vứt quách mấy món tóc bất hạnh ấy ở nhà vệ sinh trường ngay từ đầu. Cảm giác hệt như mấy con chuột chết treo lủng lẳng trên đầu vậy.
Sáng hôm sau, cô lén mang cuộn băng dính đến trường. Những chiếc đuôi sam được tháo ra ngay trước giờ vào lớp. Làm thế đau lắm, vì băng dính bám rất chặt. Đến lúc tan học, cô nhờ Zenobia giúp mình gắn lại. Nhờ vậy, cô trốn được hình phạt của Nusswan vào những ngày trong tuần.
Nhưng ít ngày sau, bạo loạn bùng phát trong thành phố, hệ quả của phong trào Li khai và sự kiện người Anh ra đi. Dina bị kẹt ở nhà với Nusswan. Lệnh giới nghiêm cả ngày lẫn đêm được áp dụng tại tất cả các khu vực. Công sở, quán xá, trường học, tất thảy đều đóng cửa, và thế là chấm hết những khoảng thời gian được giải thoát khỏi mấy cái đuôi sam ghê tởm. Anh ta chỉ cho phép cô gỡ chúng ra khi tắm, và giám sát việc gắn lại ngay sau đó.
Bị nhốt trong nhà, Nusswan hết lời than vãn về tai họa đang ập xuống toàn đất nước, và càu nhàu không ngớt. “Cứ ngồi nhà ngày nào là tao mất tiền ngày ấy. Lũ người man rợ vô văn hóa khốn kiếp kia không xứng được độc lập. Cứ cho là bọn chúng phải chém nhau đến chết đi, thì tao chỉ ước sao chúng kéo đi chỗ khác mà làm cho êm chuyện. Về làng của chúng chẳng hạn. Đừng làm ảnh hưởng đến thành phố bên bờ biển xinh đẹp của chúng ta.”
Khi lệnh giới nghiêm được dỡ bỏ, Dina lao như bay đến trường, sung sướng chẳng khác nào chim sổ lồng, háo hức được tận hưởng tám tiếng tồn tại mà không có Nusswan. Còn chính anh ta cũng thấy nhẹ nhõm khi được trở lại nơi làm việc. Vào buổi tối đầu tiên khi cuộc sống toàn thành phố trở lại bình thường, anh ta về nhà với tâm trạng phấn khởi chưa từng thấy. “Lệnh giới nghiêm kết thúc rồi, và hình phạt dành cho mày cũng vậy. Giờ mày có thể vứt mấy cái đuôi sam ấy đi được rồi,” anh ta nói, và hào phóng đế thêm. “Kể ra, tóc ngắn cũng hợp với mày phết đấy.”
Anh ta mở cặp táp và lấy ra một chiếc băng đô mới. “Lấy cái này mà đeo, đừng dùng băng dính điện nữa,” anh ta pha trò.
“Anh đi mà đeo,” cô nói, nhất quyết không thèm nhận.
Ba năm sau ngày bố mất, Nusswan kết hôn. Vài tuần sau đó, công cuộc rút lui khỏi cuộc đời của mẹ anh ta hoàn tất. Nếu như trước đây bà còn ngoan ngoãn đáp lại các chỉ dẫn – dậy đi, uống trà đi, rửa tay đi, uống thuốc đi – thì nay những gì còn lại chỉ là một bức tường của trạng thái vô tri.
Nhiệm vụ chăm sóc mẹ đã vượt quá khả năng của Dina. Khi mùi bốc lên từ căn phòng bà Shroff đã đến ngưỡng không thể bưng mũi bịt mắt thêm nữa, Nusswan mới rụt rè mang vấn đề ra trình bày với vợ. Anh ta không dám nhờ thẳng vợ, mà chỉ hi vọng bản tính nhân ái sẽ thuyết phục chị ta tình nguyện xông pha. “Ruby, em yêu, tình hình của mẹ càng ngày càng xấu đi. Mẹ cần được chăm sóc cẩn thận, mọi lúc mọi nơi.”
“Thì đưa cụ vào trại dưỡng lão,” Ruby đáp. “Mẹ cứ ở trong đấy là tốt nhất.”
Anh ta gật đầu xuê xoa, và làm một việc vừa đỡ tốn kém hơn lại nhân văn hơn là gửi mẹ mình vào nhà máy bảo dưỡng tuổi già – như một vài người họ hàng ác miệng đã gọi – anh ta thuê một hộ lý toàn thời gian.
Thời hạn làm việc của người hộ lý chẳng kéo dài là bao; bà Shroff ra đi vào cuối năm đó, và rốt cuộc mọi người cũng hiểu ra rằng vợ của một bác sĩ chẳng hề miễn nhiễm với khổ đau hơn những người bình thường khác. Bà qua đời vào đúng ngày chồng mất theo lịch Shahenshahi[6]. Lễ cầu siêu cho họ được cử hành liên tiếp trong cùng một ngôi đền dưới sự chủ trì của thầy Framji. Đến tuổi này, Dina đã học được cách né tránh những cái ôm thân thiện quá mức từ phía ông thầy. Khi ông lại gần, cô lịch sự chìa một tay ra và bước lùi lại một bước, rồi một bước nữa, và một bước nữa. Gần như phải đuổi theo cô bé vòng quanh nhà nguyện, giữa những chiếc lư lớn cắm đầy gỗ đàn hương đang cháy phừng phừng, ông ta chỉ biết nở nụ cười ngớ ngẩn và đành bỏ cuộc.
Khi một tháng lễ cầu siêu đầu tiên cho bà Shroff đã kết thúc, Nusswan quyết định rằng cho Dina đi học tiếp là việc quá ư vô nghĩa lý. Tờ bảng điểm gần đây nhất của cô bé quá thảm hại. Nếu không nhờ có vị hiệu trưởng, vốn vẫn nhớ như in những kí ức hồi còn mồ ma ông Shroff và muốn coi những điểm số đó là dấu hiệu của một sự sa sút tạm thời, thì cô đã phải ở lại lớp rồi.
“Cô Lamb thật tử tế khi cho mày lên lớp,” Nusswan nói. “Nhưng sự thật là, kết quả của mày quá tệ. Tao sẽ không phí tiền đóng học cho mày thêm một năm nào nữa.”
“Lúc nào anh cũng bắt em lau chùi quét dọn, cả ngày em chẳng đào đâu ra một tiếng để học bài! Anh còn mong hòng gì nữa?”
“Đừng có bao biện. Một đứa con gái trẻ trung khỏe mạnh thế kia, làm có tí việc nhà thì ảnh hưởng gì đến học hành? Mày không biết mày may mắn đến thế nào ư? Còn hàng ngàn đứa trẻ nghèo khác trên khắp thành phố này, ngày thì đi đánh giày ngoài ga, hoặc đi nhặt giấy vụn, chai lọ, túi bóng, tối đến lại đi học. Thế mà mày còn kêu ca nữa à? Thứ mày còn thiếu chỉ là khát vọng học tập mà thôi. Tao quyết rồi, mày học thế là đủ.”
Dina không định chấp nhận số phận mà không hề phản kháng lại. Cô cũng cầu mong vợ Nusswan sẽ ra mặt nói đỡ cho mình. Nhưng Ruby chọn cách đứng ngoài cuộc chiến, vậy là vào sáng hôm sau, khi bị xua ra chợ với một tờ danh sách những món cần mua, Dina bèn chạy ngay đến nhà ông nội.
Ông nội sống với một người chú họ, trong một căn phòng sực nức mùi sáp mốc. Cô nín thở và ôm lấy ông, rồi trút hết mọi phiền não của mình vào một tràng câu chữ: “Cháu xin ông! Ông hãy bảo anh ấy đừng đối xử với cháu như thế nữa!”
Chân đã bước vào con đường suy kiệt của tuổi già, nên ông cụ phải mất một lúc mới nhớ ra Dina là ai, và cần một khoảng thời gian lâu hơn nữa để hiểu được cô bé muốn gì. Lúc ấy ông không đeo răng giả, nên khó mà luận nổi ông đang nói gì. “Cháu lấy hàm răng giả cho ông nhé?” Cô bé gợi ý.
“Thôi, thôi, thôi!” Ông cụ giơ cả hai tay lên xua kịch liệt. “Không cần răng. Răng gì cong như móc câu, đeo vào đau cả miệng. Thằng nha sĩ khốn kiếp ngu như bò ấy, rõ đồ vô dụng. Đến thợ mộc còn đẽo được bộ răng tốt hơn thế.”
Cô bèn nhắc lại từng câu một thật chậm rãi, mãi sau ông cụ mới nắm được vấn đề. “Đi học à? Ai, cháu hả? Đương nhiên là cháu phải đi học rồi. Đương nhiên. Đương nhiên. Cháu phải đi học. Rồi còn lên đại học nữa chứ. Rồi, nhất định ta sẽ bắt thằng khốn mất dạy ấy cho cháu đi học, ta sẽ lệnh cho thằng Nauzer. À không, thằng Nevil – thằng Nusswan, phải rồi, ta sẽ buộc nó làm thế.”
Ông cụ bèn sai một người làm sang nhắn Nusswan tới gặp mình càng sớm càng tốt. Nusswan không thể từ chối. Anh ta quan tâm sâu sắc đến cách các thành viên trong gia đình nhìn nhận về mình. Sau khi lần lữa được vài ngày, viện cớ mình bận công mắc việc quá, anh ta đành đi, nhưng kéo theo cả Ruby để có thêm đồng minh. Chị ta đã được dặn phải lấy lòng ông cụ bằng mọi phương cách có thể.
Kể từ sau chuyến viếng thăm của Dina, trí óc của ông cụ đã lẫn lộn nhiều. Ông không còn nhớ chút gì về cuộc nói chuyện giữa hai ông cháu. Lần này ông có đeo răng giả nhưng chẳng chịu nói năng gì mấy. Sau khi được gợi ý và nhắc nhỏm chán chê, ông có vẻ đã nhận ra các cháu. Rồi, không thèm đếm xỉa gì đến Ruby, ông đột ngột quả quyết rằng Nusswan và Dina chính là vợ chồng. Ông nhất định không chịu từ bỏ niềm tin của mình, mặc cho Dina ra sức dỗ dành nịnh nọt.
Ruby ngồi trên ghế sô pha cầm tay ông cụ. Chị ta hỏi ông có muốn mình mát xa chân cho không. Rồi không đợi ông trả lời, chị ta vớ lấy bàn chân trái và bắt đầu nắn bóp. Móng chân ông cụ vàng khè, chắc phải lâu lắm rồi chưa được cắt tỉa.
Cáu tiết, ông cụ giật mạnh bàn chân khỏi tay chị ta. “Làm cái gì thế, con kia? Xéo, xéo mau!”[7]
Giật mình vì bị chửi bằng tiếng Hindi, Ruby chỉ biết ngồi há hốc miệng kinh ngạc. Ông bèn quay sang Nusswan hỏi: “Nó không hiểu gì sao? Con hầu gái nhà cháu nói tiếng gì vậy? Bảo nó cút khỏi ghế của ta ngay, xuống bếp mà ngồi đợi.”
Ruby đùng đùng bật dậy và ra ngoài cửa đứng. “Ông già thô bỉ!” Chị ta phun phì phì. “Da tôi chỉ hơi đen thôi mà!”
Nusswan chào một câu cộc lốc rồi về theo vợ, không quên quay sang ném một cái nhìn đắc thắng về phía Dina, khi đó vẫn còn chưa hết bối rối ngơ ngác. Cô cố nán lại, với hi vọng ông nội sẽ vét được chút sức tàn còn ẩn giấu đâu đó và cứu vớt cô. Một tiếng sau, cô đành bỏ cuộc. Cô hôn lên trán ông rồi ra về.
Đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy ông khi còn sống. Ông mất trong giấc ngủ vào tháng sau đó. Đứng giữa đám tang, Dina tự hỏi không hiểu móng chân ông nội đã dài thêm mấy phân bên dưới tấm vải trắng đang che phủ toàn thân ông cụ, chỉ để hở mỗi khuôn mặt.
Suốt bốn năm ròng, Nusswan đã bền bỉ dành dụm tiền cho đám cưới của Dina. Giờ món tiền tích cóp được đã kha khá, anh ta tính sẽ sớm cưới chồng cho em gái. Anh ta chắc chắn mình sẽ không gặp khó khăn gì trong việc tìm ra một cậu em rể tốt. Anh ta vẫn thường hãnh diện tự nhủ, Dina đã trở thành một cô thiếu nữ xinh đẹp, cô đáng được hưởng những gì tốt đẹp nhất. Đó sẽ là một đám cưới linh đình, xứng với em gái của một doanh nhân thành đạt, rồi họ hàng làng xóm sẽ còn phải trầm trồ bàn tán đến mãi về sau.
Khi cô bước sang tuổi mười tám, anh ta bắt đầu mời các chàng trai độc thân đủ tiêu chuẩn đến nhà họ. Cô cảm thấy kẻ nào cũng đáng ghét; họ đều là bạn bè của anh trai cô, và mọi cử chỉ, lời nói của họ đều nhắc cô nhớ tới Nusswan.
Nusswan tin rằng sớm muộn gì sẽ có một người cô thích. Anh ta không thể cấm đoán chuyện đi về của cô được nữa, cô đã qua độ tuổi cho những trò kiểm soát trẻ con đó mất rồi. Chừng nào cô vẫn hoàn thành đầy đủ việc nhà và mua đúng những món ghi trong tờ danh sách đi chợ của Ruby, nền hòa bình tương đối vẫn ngự trị trong ngôi nhà. Đến nay, mọi cuộc cãi cọ, có chăng, đều xảy ra giữa Ruby và Dina, như thể Nusswan đã ủy thác chức năng này cho vợ mình vậy.
Khi đi chợ, đôi lúc Dina vận dụng óc sáng tạo của mình và thay hoa lơ bằng bắp cải; hoặc có lúc cô bỗng thấy thèm hồng xiêm, bèn bỏ qua cam để chọn mua quả này. Y như rằng, Ruby sẽ đay nghiến cô vì tội phá hoại những bữa ăn đã được tính toán cẩn thận: “Đồ con gái nham hiểm, độc địa, làm hỏng hết bữa tối của chồng người ta rồi!” Chị ta cáng đáng cả phần luận tội lẫn phần tuyên án một cách tự nhiên, máy móc, và coi đó là một phần vai trò của mình trong cương vị một người vợ đảm.
Nhưng giữa hai người phụ nữ không chỉ có cãi vã và kèn cựa. Càng lúc đôi bên càng hòa hợp hơn. Trong số những món đồ Ruby mang về nhà chồng sau ngày cưới có một chiếc máy khâu nhỏ có tay quay. Chị ta hướng dẫn Dina cách sử dụng, còn dạy cô may những món đơn giản như vỏ gối, ga giường, rèm cửa.
Khi đứa con đầu lòng của Ruby ra đời, một bé trai được đặt tên là Xerxes, Dina giúp chăm nom cháu. Cô may cả áo sơ sinh và đan những chiếc mũ nhỏ xinh cùng áo len chui đầu. Để mừng sinh nhật một tuổi của thằng bé, cô làm một đôi giày len. Vào buổi sáng hạnh phúc ấy, họ đeo cho Xerxes những vòng hoa hồng và hoa huệ, và bôi một vệt son đỏ thật lớn lên trán đứa trẻ.
“Thằng bé đáng yêu quá đi mất!” Dina cười sung sướng.
“Đôi giày len em đan cho cháu nó xinh thật cơ!” Ruby xuýt xoa, và ôm chầm lấy cô.
Nhưng đó là ngày hiếm hoi trôi qua mà không có một cuộc cãi cọ nào. Khi công việc đã xong xuôi, Dina thích được ra khỏi nhà càng nhiều càng tốt. Nguồn trợ cấp cho những buổi lang thang bên ngoài bị giới hạn trong phạm vi số tiền cô có thể bớt xén được từ tiền chợ. Lương tâm cô không mảy may cắn rứt; cô coi đó là khoản trả công cho kiếp trâu ngựa mà mình phải gánh chịu, chưa kể đó chỉ là một phần nhỏ của món nợ cô còn bị thiếu.
Ruby đòi phải kê khai từng xu được tiêu đi. “Chị muốn xem hóa đơn mua hàng. Của tất cả các món!” Chị ta dằn nắm đấm xuống bàn bếp, khiến vung nồi vung xoong rung lên loảng xoảng.
“Mấy bà bán rau, bán cá ngồi vệ đường thì lấy đâu ra hóa đơn?” Dina đốp lại, và ném về phía chị dâu nắm hóa đơn mua hàng, cùng số tiền thừa cô đã chuẩn bị sẵn sau khi co kéo những món hàng không có giấy tờ làm bằng. Cô quay lưng bỏ đi, còn bà chị dâu bò cả xuống sàn để nhặt cho bằng hết từng hào từng cắc.
Số tiền dành dụm được đủ để mua vé xe buýt. Dina tới công viên, lang thang trong các viện bảo tàng và các khu chợ, ghé vào rạp chiếu phim (nhưng chỉ đứng ngoài để xem mấy tấm áp phích), và rụt rè lui tới cả các thư viện công cộng. Những cái đầu cúi gằm trước trang sách khiến cô có cảm giác lạc lõng; ở đây trông ai cũng học thức đầy mình, còn cô thì đến bậc phổ thông cũng chưa được học hết.
Ấn tượng ban đầu đó dần tan biến khi cô nhận ra rằng các ấn phẩm trên tay những con người nghiêm nghị đó rất muôn màu muôn vẻ, từ loại sách mang cái tên không thể phát âm nổi như Areopagitica[8] của John Milton, cho đến tạp chí Illustrated Weekly của Ấn Độ[9]. Cuối cùng, những phòng đọc cũ rộng mênh mang, với trần cao chót vót, ván lát sàn kêu cọt kẹt và tường ốp gỗ tối màu, trở thành chốn nương náu yêu thích của cô. Những chiếc quạt trần oai nghiêm treo lơ lửng trên thanh ống dài khuấy động cả không gian bằng âm thanh vù vù êm ái, rồi những chiếc ghế da sâu lút, mùi ẩm mốc và tiếng trang sách giở loạt soạt, tất thảy đều thật bình yên. Tuyệt nhất là, tất cả mọi người chỉ thì thầm khe khẽ khi cần nói gì đó. Lần duy nhất Dina nghe thấy tiếng quát tháo là khi người bảo vệ mắng một người ăn mày đang tính lẻn vào trong. Hàng giờ đồng hồ dần trôi đi khi cô lật giở những cuốn bách khoa thư, ngắm nhìn những cuốn sách về nghệ thuật, và tò mò mở những cuốn giáo trình y khoa phủ đầy bụi; rồi chốt lại cuộc viếng thăm bằng vài phút ngồi trong một góc tối của tòa nhà cổ kính, mắt nhắm nghiền; ở đây, thời gian có thể đứng yên mãi nếu người ta muốn thế.
Những thư viện hiện đại hơn thường có cả phòng nghe nhạc. Các phòng này có cả đèn nê-ông, bàn phoóc-mi-ca, điều hòa nhiệt độ, bốn phía tường sơn màu tươi sáng, và luôn luôn đông đúc. Cô cảm thấy những nơi như thế lạnh lẽo và khó gần, nên chỉ tìm đến khi muốn nghe nhạc. Cô chẳng biết mấy về âm nhạc, trừ vài cái tên hiếm hoi như Brahms, Mozart, Schumann, và Bach, mà tai cô đã được nghe từ hồi còn bé khi bố cô bật đài lên hoặc cho đĩa vào máy hát, đặt cô lên lòng và nói: “Nó giúp ta quên hết mọi phiền muộn trên đời, phải không con gái?” và Dina nghiêm trang gật đầu.
Đến thư viện, cô chọn đĩa nhạc hú họa, cố gắng ghi nhớ tên của những đĩa mình thích để sau này có thể bật lại. Công việc này khá hóc búa, vì các bản giao hưởng và công-xéc-tô và xô-nát chỉ được phân biệt bằng các con số, đứng trước là những chữ cái như Op. và K. và BWV[10], mà cô lại chẳng hiểu chúng có nghĩa gì. Nếu may mắn, cô còn tìm được những đĩa mang cái tên vẫn còn âm vang sâu sắc trong kí ức của mình, và khi giai điệu quen thuộc chảy tràn trong tâm trí, quá khứ lại được phục nguyên trong khoảnh khắc, và cô thấy như toàn thân bỗng nhức nhối bởi cảm giác trọn vẹn đến đê mê, tựa như một phần chân tay bị cụt được mọc lại như mới.
Cô vừa khao khát, lại vừa e sợ những trải nghiệm âm nhạc mãnh liệt ấy. Hạnh phúc viên mãn nơi phòng nhạc luôn bị thế chỗ bởi cơn cáu giận mang đủ mọi cung bậc khi cô trở về cuộc sống với Nusswan và Ruby. Những trận cãi vã quyết liệt nhất thường nổ ra vào đúng ngày cô đến phòng nghe nhạc.
Tạp chí và báo giấy thì đỡ phức tạp hơn nhiều. Nhờ đọc nhật báo, cô phát hiện ra trong thành phố có một số tổ chức văn hóa thường xuyên tài trợ cho các buổi hòa nhạc và độc tấu. Rất nhiều buổi biểu diễn trong số đó, thường là của các nghệ sĩ không chuyên trong nước hoặc các nghệ sĩ nước ngoài ít tên tuổi, cho phép vào cửa tự do. Cô bèn dùng vé xe buýt để tới xem những buổi hòa nhạc này, và tìm thấy ở đó thái độ hoan nghênh tựa như khi cô tới thư viện. Các nghệ sĩ đều tỏ vẻ mừng rỡ không giấu giếm trước sự hiện diện của cô trong những buổi tối thưa vắng khán giả.
Cô thường nấn ná bên ngoài rìa đám đông trong sảnh chờ, cảm thấy như mình là một kẻ mạo danh. Dường như những người khác đều rất am hiểu về âm nhạc, về những nghệ sĩ của buổi trình diễn tối nay; cứ xem cái cách họ cầm tờ chương trình và chỉ vào từng đầu mục trên đó thì thấy, thật tinh tế làm sao. Cô ước sao cửa chóng mở ra, để ánh đèn mờ ảo bên trong giúp cô che giấu những yếu kém của mình.
Âm nhạc nơi thính phòng không có sức mạnh khiến cô rung động tâm can như trong những giờ ngồi một mình giữa thư viện. Ở đây, những màn hài kịch sống chiếm thời lượng ngang ngửa với âm nhạc. Và sau vài buổi hòa tấu, cô dần nhận ra những khuôn mặt quen trong số khán giả.
Có một ông cụ thường ngủ gật khi bản nhạc đầu tiên vang lên được đúng bốn phút, lần nào cũng như lần nào; những người đến muộn thường bỏ qua hàng ghế nơi cụ ngồi, vì ngại va vào chân cụ. Đến phút thứ bảy, cặp kính của cụ tụt dần xuống sống mũi. Và đến phút thứ mười một (nếu bản nhạc dài tới mức này và chưa có tiếng vỗ tay nào để đánh thức cụ dậy), hàm răng giả bắt đầu trồi ra. Nhìn ông cụ, Dina lại nhớ đến ông nội.
Hai chị em một bà nọ, tầm ngũ tuần, vóc người cao và gầy, cằm nhọn, luôn ngồi ở hàng đầu và thường vỗ tay không đúng lúc, làm gián đoạn giấc ngủ của ông cụ kia. Bản thân Dina không hiểu lắm về các bản xô-nát cũng như kết cấu của chúng, song cô cũng biết rằng phần biểu diễn chưa kết thúc ngay khi nhạc tạm ngưng. Cô thường để ý bắt chước một người để râu dê, đeo kính mắt tròn có gọng mảnh và đội mũ bê rê, nom có vẻ là người trong nghề, nhờ vậy cô biết nên vỗ tay khi nào.
Lại có một người đàn ông trung niên vui tính, luôn mặc đúng một bộ âu phục màu nâu trong tất cả các buổi hòa nhạc, gặp ai cũng tay bắt mặt mừng. Ông thường lượn như đèn cù khắp sảnh chờ để chào người này người kia, đầu lắc lư không ngớt, và quả quyết với họ rằng buổi biểu diễn tối nay sẽ rất tuyệt. Những chiếc cà vạt ông đeo là đề tài đồn đoán thường trực của mọi người. Có những tối chúng được thắt dài lòng thòng, chiếm trọn cả mặt tiền, treo đu đưa trước đũng quần. Lại có hôm mép cà vạt chẳng vượt quá ngang bụng. Kích cỡ của nút thắt cũng biến đổi muôn hình vạn trạng, từ nhỏ tí tẹo cho đến to đùng như cái bánh gối. Ông không đi, mà nhảy chồm chồm từ chỗ người nọ sang chỗ người kia, và nói năng ngắn gọn hết mức có thể; bởi vì, như ông hay phân bua, rằng chỉ còn ít phút nữa là mở màn, vậy mà ông còn phải đi chào bao nhiêu người nữa.
Dina để ý thấy ngoài sảnh có một chàng trai rất giống cô, thích đứng ngoài quan sát khung cảnh vui nhộn khi những người cùng đi nghe nhạc hòa trộn vào nhau. Cô thường đến từ sớm, vì háo hức muốn ra khỏi nhà càng nhanh càng tốt; nhờ vậy cô có cơ hội nhìn thấy anh phóng xe đạp như bay tới, rồi nhẹ nhàng nhảy xuống và dắt xe qua cổng. Người gác cổng cho phép sự tự do này để đổi lấy vài đồng trà thuốc. Anh dựng xe bên sườn tòa nhà và khóa lại, không quên lấy chiếc cặp giấy chằng trên giá đèo hàng phía sau. Anh tháo đôi vòng kẹp ống quần và cất vào cặp. Xong xuôi, anh ngồi xuống góc ưa thích của mình trong sảnh để nghiền ngẫm tờ chương trình hoặc ngắm nhìn đám đông.
Đôi khi mắt họ chạm nhau, hai bên cùng nhận ra âm mưu thầm lặng của đối phương. Người đàn ông vui tính mặc bộ âu phục màu nâu không đả động gì đến Dina, song có lôi chàng trai kia vào danh sách thăm hỏi của mình. “Chào cậu, Rustom! Thế nào, khỏe chứ?” Ông ta gọi toang toang, thế là Dina biết tên anh chàng.
“Khỏe lắm, cảm ơn chú.” Rustom đáp, đoạn phóng ánh mắt qua vai áo vét nâu nhìn Dina, khi ấy đang thích thú quan sát.
“Này, cậu nghĩ sao về nghệ sĩ dương cầm sắp biểu diễn tối nay? Liệu anh ta có chuyển tải nổi chiều sâu cần có trong những khúc nhạc chậm không? Cậu có nghĩ rằng phần cực chậm – ái chà, xin thứ lỗi, thứ lỗi, tôi sẽ quay lại ngay, tôi phải ra chào ông Medhora một câu đã,” và ông quày quả bỏ đi. Rustom mỉm cười với Dina và lắc đầu giả bộ thất vọng.
Chuông reo vang, cửa thính phòng rộng mở. Hai chị em bà cao kều hối hả chạy lên hàng đầu, chân bước đều tăm tắp, đoạn họ lật hai chiếc ghế gập bọc nỉ màu huyết dụ ra, và ngồi thụp xuống một cách đắc thắng, rồi quay sang cười hớn hở với nhau, sung sướng vì đã lại chiến thắng trò ghế nhạc[11] bí mật của riêng mình. Dina chọn ghế ngay sát lối đi trung tâm như thường lệ, nằm ở khoảng giữa khán phòng.
Khi các chỗ ngồi dần được lấp đầy, Rustom bước đến bên cô. “Chỗ này có trống không?” Cô gật đầu.
Anh bèn ngồi xuống. “Cái ông Toddywalla kia tính hay nhỉ?”
“Ô, đó là tên ông ấy hả? Vâng, ông ấy buồn cười thật.”
“Nếu buổi diễn có nhạt quá, thì xem tạm ông ấy chắc cũng đủ vui rồi.”
Đèn mờ dần, hai nghệ sĩ bước ra sân khấu trong tiếng vỗ tay lẹt đẹt. “Nhân tiện, tôi là Rustom Dalal,” anh nói, đoạn nghiêng người sát lại và chìa tay ra, đúng lúc cây sáo đón lấy nốt la trong trẻo của đàn dương cầm v?