III: Ngôi Làng Ven Sông.
Hồi còn ở làng, hai người thợ may từng là thợ da[17]; số là, gia đình của họ thuộc đẳng cấp Chamaar[18], đẳng cấp của những người làm nghề thuộc và gia công da. Nhưng từ xưa kia, trước khi Omprakash ra đời rất lâu, lúc bố cậu, Narayan, và bác cậu, Ishvar, còn nhỏ, một lên mười, một mười hai; bố họ đã cho hai thằng con đi học nghề thợ may.
Các bạn bè của bố họ đều lo sợ thay cho gia đình họ. “Dukhi Mochi[19] điên rồi,” họ rên lên. “Sao anh ta nỡ giương mắt mà đem tai họa trút xuống chính gia đình mình.” Khắp làng trên xóm dưới, ai nấy thất kinh khiếp đảm: Có kẻ đã dám phá vỡ trật tự đẳng cấp vĩnh cửu, rồi quả báo sẽ tới nhanh thôi.
Quyết định chuyển con sang học nghề thợ may của Dukhi quả thật rất dũng cảm, nhất là khi chính bản thân anh đã dành gần trọn cuộc đời ngoan ngoãn tuân theo những lề thói của hệ thống đẳng cấp. Cũng như các vị cha ông tiên tổ, từ thuở thơ bé, anh đã mặc nhiên chấp nhận nghề nghiệp được định sẵn cho kiếp này của mình.
Khi bắt đầu theo cha học nghề của đẳng cấp Chamaar, Dukhi mới lên năm. Cộng đồng người Hồi giáo ở vùng này rất nhỏ, vì vậy xung quanh đó chẳng có lò mổ nào để người Chamaar đến lấy da. Họ phải đợi cho tới khi có một con trâu hoặc bò nào đó trong làng lăn ra chết. Kế đó, người ta sẽ gọi người Chamaar đến mang con vật xấu số đi. Có lúc bộ da được cho không, có lúc họ phải trả tiền, còn tùy người chủ thuộc đẳng cấp trên của con vật đã bóc lột đủ số ngày lao động không công của người Chamaar trong năm đó chưa.
Người Chamaar lột da con vật, thịt để ăn, còn da đem thuộc, sau có thể chế thành dép, roi, yên ngựa, hoặc túi đựng nước. Dukhi dần học cách biết quý trọng những con vật đã chết, bởi chúng mang lại nguồn sống cho gia đình cậu. Dukhi càng thạo nghề, thì một cách vô hình tích nhưng bền bỉ, làn da của chính cậu càng thấm nhuần thứ mùi đã trở thành một phần hơi hám của bố cậu, đó là mùi thối khẳm của thợ làm da mà không gì tẩy nổi, dù anh ta có dầm mình xuống dòng sông trong sạch nhất mà rửa ráy, kì cọ.
Dukhi không nhận ra từng lỗ chân lông của mình đã uống đẫm loại mùi ấy cho đến một ngày nọ, vừa ôm con vào lòng, mẹ cậu đã phải nhăn mũi lại mà nói với giọng tự hào pha lẫn buồn tủi: “Con trai mẹ lớn thật rồi, mẹ ngửi thấy mùi khác hẳn.”
Suốt một thời gian sau đó, cậu bé liên tục gí mũi vào nách mà ngửi, xem mùi ấy có còn lẩn quẩn ở đó không. Cậu cứ thắc mắc, nếu da mình bị lột sạch thì nó có mất đi không? Hay nó đã thấm sâu vào tận dưới da? Cậu tự chích mình một cái và ngửi thử máu, nhưng cuộc thí nghiệm bất thành, bởi giọt ruby đỏ nhỏ xíu trên đầu ngón tay cậu chưa phải một mẫu vật đủ tiêu chuẩn. Còn thịt và xương thì sao, mùi thối có ngấm vào tận đó không? Chẳng phải cậu muốn nó biến mất đâu; cậu thấy hãnh diện vì mình có mùi giống bố là đằng khác.
Ngoài công việc thuộc và gia công da, Dukhi còn học được thế nào là thân phận của một kẻ sinh ra làm kiếp Chamaar, là tiện dân, trong xã hội thôn làng. Mảng giáo dục này không đòi hỏi bất cứ chỉ dẫn đặc biệt nào. Giống như đủ thứ máu me phân lông dơ bẩn của những con vật chết luôn vấy đẫm trên người hai bố con khi họ làm việc, những tín điều của chế độ đẳng cấp cũng vãi rớt khắp nơi. Và nếu như vậy còn là chưa đủ, thì đã có những câu chuyện của người lớn, những cuộc đối thoại giữa bố và mẹ cậu, giúp lấp đầy lỗ hổng kiến thức của cậu về thế giới xung quanh.
Ngôi làng nằm bên một con sông nhỏ, người Chamaar chỉ được phép sống trong một khu vực dưới hạ lưu, cách xa người Bà la môn và các nhà địa chủ. Tối tối, bố Dukhi cùng những người đàn ông Chamaar khác ngồi dưới một tán cây, trong địa phận dành riêng cho mình, để hút thuốc, rồi chuyện gẫu về một ngày sắp qua và một ngày mới sẽ tới vào sáng mai. Tiếng chim kêu xao xác vây lấy tiếng chuyện trò của họ. Ở ngoài xa, trên bờ sông, những cột khói bếp bốc cao, nhắc nhỏm người ta về cái bụng đang cồn cào. Còn ở bên dưới, đủ thứ rác thải của đẳng cấp cao nối nhau trôi lềnh phềnh trên dòng nước lờ đờ.
Dukhi đứng nhìn từ phía xa, chờ tới lúc bố về. Trời càng ngả về tối, bóng hình của mấy người đàn ông càng nhòa dần. Chỉ một lát sau, Dukhi đã không thể nhìn thấy gì khác ngoài đốm lửa leo lét trên đầu điếu thuốc họ hút, bay chờn vờn lên xuống theo từng cử động của bàn tay như những con đom đóm. Rồi đốm lửa tắt ngấm, cái nọ nối cái kia, và cả nhóm tản đi, ai về nhà nấy.
Vừa ngồi ăn tối, bố Dukhi vừa kể lại với vợ mọi việc ông đã tai nghe mắt thấy trong ngày hôm đó.
“Con bò nhà Thầy cả[20] bị ốm rồi. Ông ta đang cố bán tháo đi trước khi nó chết.”
“Nếu nó chết, ai sẽ được? Đã đến lượt mình chưa?”
“Chưa, đến lượt Bhola. Nhưng vừa rồi, ở chỗ làm, anh ta bị vu cho tội ăn trộm. Kể cả Thầy cả có cho anh ta lấy con bò đi nữa, thì thế nào anh ta cũng cần tôi giúp một tay. Hôm nay họ vừa chặt cụt hết ngón tay trên bàn tay trái của anh ta rồi.”
“Bhola bị thế là còn may đấy,” mẹ Dukhi nói. “Năm ngoái Chhagan mất nguyên cả bàn tay, cũng vì tội ấy.”
Bố Dukhi tợp một ngụm nước và súc sòng sọc trong miệng trước khi nuốt xuống. Ông đưa mu bàn tay lên quệt ngang môi. “Dosu bị ăn một trận roi vì dám xớ rớ gần giếng nước. Cái thằng, chẳng biết gì cả.” Trong chốc lát, ông chỉ ngồi nhai trong im lặng, lắng tai nghe tiếng ếch nhái kêu uôm uôm trong đêm tối ẩm ướt. Bỗng, ông hỏi vợ: “Bu nó không ăn gì à?”
“Hôm nay em kiêng.” Trong bộ mật ngữ của bà, như thế có nghĩa là nhà đang khan gạo.
Bố Dukhi gật đầu, đoạn đưa lên miệng một nhúm cơm to.
“Lâu nay bu nó có gặp vợ Buddhu không?”
Vợ ông lắc đầu. “Lâu rồi chưa gặp.”
“Phải còn chán nữa mới gặp lại. Chắc chị ta đang trốn trong lều. Số là, chị ta không chịu ra đồng với con trai lão địa chủ, thế là bị người ta cạo đầu rồi dẫn đi bêu quanh đình.”
Cứ thế, đêm nào Dukhi cũng nghe bố thuật lại những sự kiện xảy ra trong làng, không hề thêm mắm dặm muối. Qua những năm tháng ấu thơ, cậu đã thu được cả một bộ bách khoa thư hoàn chỉnh về những tội lỗi có thật và tưởng tượng mà một người thuộc đẳng cấp thấp có thể mắc phải, và những hình phạt đi kèm luôn khắc sâu trong tâm trí cậu. Đến khi bước vào tuổi vị thành niên, cậu đã lĩnh hội xong toàn bộ những kiến thức mình cần để có thể nhận diện ranh giới đẳng cấp mà cậu không bao giờ được phép vượt qua, để tồn tại được trong ngôi làng này như các vị cha ông của mình, với hai người bạn đồng hành thủy chung là sự nhục mạ và lòng nhẫn nhịn.
Sau khi Dukhi Mochi bước sang tuổi mười tám không lâu, bố mẹ cưới cho anh một cô gái Chamaar tên là Roopa, lúc ấy mới mười bốn tuổi. Trong sáu năm đầu về ở với anh, chị sinh được ba đứa con gái. Không đứa nào sống quá vài tháng.
Rồi họ có một đứa con trai, cả nhà mừng không để đâu cho hết. Thằng bé được đặt tên là Ishvar, và Roopa chăm chút nó với nhiệt tâm và lòng sùng kính đặc biệt mà chị đã học được là chỉ dành riêng cho con trai. Chị cố xoay xở đủ đường, sao cho thằng bé không bao giờ phải thiếu ăn. Bản thân chị phải nhịn đói đã đành–ấy là lẽ đương nhiên, ngày thường chị vẫn nhịn để Dukhi có cái bỏ mồm. Nhưng vì con, chị không ngại cả đi ăn trộm. Và chị không biết một bà mẹ nào lại không liều lĩnh làm chuyện tương tự vì con trai mình.
Sau khi sữa cạn, Roopa bắt đầu mở những chuyến viếng đêm tới lũ bò của các nhà địa chủ. Đợi chồng con ngủ say, tầm giữa nửa đêm và lúc gà gáy, chị rón rén rời khỏi lều, tay cắp chiếc bình đồng. Con đường mòn tối đen như mực, nhưng chị bước đi không mảy may vấp váp nhờ đã ghi nhớ rất rõ buổi ban ngày, cũng bởi mang đèn theo thì quá nguy hiểm. Bóng tối quét lên má chị như một cái mạng nhện. Đôi khi, đó là mạng nhện thật.
Ở mỗi con bò, chị chỉ dám vắt một tí sữa; làm thế, chủ bò sẽ không phát hiện ra sự hao hụt. Sáng ra, nhìn thấy sữa, Dukhi hiểu ngay. Có những lúc, anh tỉnh dậy giữa đêm, đúng lúc vợ đang lẻn đi. Anh không nói năng gì, chỉ nằm run cầm cập chờ đến khi vợ về. Anh cứ nhấp nhổm không biết có nên giành đi thay vợ không.
Ít lâu sau, Ishvar đến tuổi thay răng sữa. Hàng tuần, Roopa bắt đầu mò đến các vườn quả đang mùa rộ trái, sẵn sàng cho thu hoạch. Trong đêm tối, ngón tay chị nắn tìm quả chín rồi mới hái. Lần này, chị cũng chỉ cho phép mình được hái mỗi cây vài quả, để không ai nhận ra sự biến mất của chúng. Màn đêm xung quanh tràn ngập tiếng thở của chính chị, cùng tiếng vô số loài vật tí hon bỏ chạy nháo nhác dưới bước chân chị qua.
Một đêm nọ, chị đang hái cam thả vào bị, thì một đốm đèn lồng bỗng lóe lên giữa những tán cây. Trên khoảnh đất trống nhỏ hẹp có một người đàn ông ngồi trên chiếc võng đan bằng tre và thừng đang nhìn chị. Mình xong đời rồi, chị vụt nghĩ, tay buông rơi bị cam và dợm chân bỏ chạy.
“Đừng sợ,” người đàn ông lên tiếng. Hắn nói giọng dịu dàng, tay cầm một cây gậy to gộc. “Cô em có hái vài quả cũng chẳng hại gì.” Chị quay lại, mồm thở hào hển vì khiếp đảm, trong bụng hoang mang không biết có nên tin lời hắn nói không.
“Đừng ngại, hái mấy quả nữa đi,” hắn tươi cười nhắc lại. “Lão chủ thuê tớ trông vườn. Nhưng tớ thây kệ. Lão là một thằng nhà giàu khốn nạn.”
Roopa sợ sệt nhặt chiếc bị lên và tiếp tục hái cam. Ngón tay chị run lẩy bẩy, làm một quả cam rơi xuống khi chị cố thả nó vào miệng bị. Chị liếc trộm phía sau mình. Đôi mắt của gã đàn ông hau háu quấn lấy thân hình chị; khiến chị cảm thấy bất an. “Cháu xin đội ơn ông,” chị nói.
Hắn gật đầu. “May cho cô em là tớ canh ở đây, chứ không phải một thằng khốn nào đấy. Đừng ngại, cứ hái thoải mái.” Hắn khẽ ngâm một khúc nhạc chẳng ra điệu gì. Nghe như một hỗn hợp tiếng rên rỉ pha lẫn tiếng thở dài. Hắn ngừng ngâm nga, chuyển sang huýt sáo. Song kết quả vẫn phi nhạc tính hệt như cũ. Hắn ngáp dài và im lặng, nhưng vẫn không rời mắt khỏi chị.
Roopa ước chừng hái như thế là đủ, đã đến lúc cảm ơn gã đàn ông để về nhà. Đọc được động thái của chị, hắn nói: “Tớ chỉ cần hô một tiếng là chúng sẽ đổ tới đây ngay.”
“Dạ?” Chị thấy nụ cười của hắn bỗng tắt ngấm.
“Tớ chỉ cần hô lên, là lão chủ vườn cùng lũ con trai lão sẽ chạy tới đây ngay. Chúng sẽ lột truồng cô em ra và đánh cho cô em lên bờ xuống ruộng vì tội ăn trộm.”
Chị run rẩy, và nụ cười trở lại trên môi gã. “Đừng lo, tớ sẽ không hô hoán câu nào đâu.” Chị bèn buộc chặt miệng bị, thì hắn tiếp lời: “Đánh cô em xong, chắc bọn chúng sẽ làm nhục cô em, bôi nhọ danh giá của cô em. Thế nào bố con nó cũng thay nhau làm những trò tởm lợm trên tấm thân mềm mại của cô em.”
Roopa chắp tay lại tạ ơn và chào từ biệt.
“Làm gì mà về vội thế, cô em cứ hái bao nhiêu tùy thích,” hắn nói.
“Đội ơn ông, cháu lấy đủ rồi ạ.”
“Có chắc không? Nếu cô em muốn, tớ sẽ cho thêm, dễ như bỡn ấy mà.” Hắn đặt cây gậy xuống và rời võng đứng lên.
“Đội ơn ông, thế này là đủ rồi ạ.”
“Thế hả? Ấy, nhưng cô em cứ thế mà đi thì không được,” hắn vừa nói vừa cười hềnh hệch. “Cô em đã trả ơn tớ đâu.” Hắn bước về phía chị.
Chị bước lùi lại, đoạn cố rặn ra một tràng cười. “Nhà cháu thì làm gì có gì. Thế nên cháu mới phải vì con mà đang đêm hôm mò đến đây.”
“Có chứ lị.” Hắn giơ tay ra và bóp mạnh vú trái của chị. Chị vội gạt tay hắn ra. “Tao chỉ cần hô một tiếng thôi,” hắn dọa, và sục tay vào áo chị. Chị run bắn người trước sự đụng chạm đó, nhưng lần này không dám phản ứng gì.
Hắn lôi chị đang khóc khóc mếu mếu đến chỗ cái võng và giật tung ba cái khuy áo trên cùng của chị. Chị vội đan chặt hai tay trước ngực. Hắn dằn tay chị xuống, và vục miệng vào vú chị, họng hắn bật ra tiếng cười nho nhỏ khi thấy chị cố giẫy ra. “Tao đã cho mày bao nhiêu cam thế còn gì. Thế mà mày không cho tao nếm cặp xoài đường của mày được à?”
“Xin ông tha cho cháu.”
“Đợi khi nào mày ăn xong quả cà của tao đã. Cởi quần áo ra.”
“Cháu lạy ông, ông tha cho cháu.”
“Tao chỉ cần hô một tiếng thôi.”
Vừa khóc thút thít, chị vừa cởi quần áo ra và nằm xuống theo lời hắn. Chị khóc mãi không thôi trong suốt khoảng thời gian hắn thúc kéo và thở hồng hộc trên người chị. Chị nghe thấy gió lay những chiếc lá trên cây xào xạc, như những tên lính canh câm lặng. Một con chó tru lên, xui những con khác cất hàng tràng rền rĩ không dứt. Dầu dừa bôi trên tóc gã đàn ông quét vô số vệt lên mặt, lên cổ chị, vấy bẩn ngực chị. Mùi dừa nồng nặc xộc thẳng vào mũi chị.
Vài phút sau, hắn rời cơ thể chị và vật sang một bên. Roopa bèn vơ hết quần áo cùng bị cam, rồi cắm đầu chạy qua vườn trong cảnh trần truồng. Khi đã chắc chắn gã đàn ông kia không đuổi theo, chị mới dám dừng lại để mặc quần áo.
Thấy vợ chui vào lều, Dukhi vờ như đang ngủ say. Suốt đêm đó, anh nghe tiếng vợ nức nở nghẹn ngào mấy bận.
Ngửi mùi trên người vợ, anh đoán được ngay chuyện gì đã xảy ra trong lúc chị lẻn đi. Trong lòng anh những muốn quay sang với vợ, nói cùng chị, an ủi chị. Nhưng anh chẳng biết nói sao cho phải; vả lại, anh cũng sợ, không muốn biết nhiều quá. Anh đành lặng lẽ khóc, trút hết nhục nhã, căm hận, tủi hổ vào những giọt nước mắt; anh chỉ ước sao mình chết ngay đêm ấy.
Sáng hôm sau, Roopa làm như không có việc gì xảy ra. Vì vậy Dukhi cũng chẳng nói gì, và họ ăn cam.
Hai năm sau khi Ishvar ra đời, Roopa và Dukhi có thêm một đứa con nữa. Thằng bé được đặt tên là Narayan. Trên ngực nó có một vết bớt màu đỏ sậm. Bà cụ hàng xóm giúp đỡ đẻ cho Roopa bảo, bà đã từng thấy một vết bớt y như thế. “Như thế nghĩa là nó có một trái tim can đảm và rộng lượng. Thằng bé này sẽ làm cô nở mày nở mặt lắm đây.”
Tin tức về cậu con trai thứ hai đã khuấy động nỗi tị hiềm ở khắp các gia đình đẳng cấp cao từng làm đám cưới trong cùng khoảng thời gian Roopa và Dukhi lấy nhau, nhưng cô vợ chưa có con cái gì, hoặc vẫn đang chờ một mụn con trai. Không hận sao được–mỗi đứa con gái chào đời thường mang lại cho họ những trận đánh nhừ tử từ chồng và gia đình nhà chồng. Nhiều lúc họ còn bị ép phải bí mật giết bỏ đứa trẻ mới sinh. Khi ấy, họ không còn cách nào khác ngoài lấy tã quấn cho nó ngộp thở, đầu độc nó, hoặc bỏ đói nó đến chết.
“Trời đất đảo điên hết cả rồi!” Họ rên rẩm. “Sao trong nhà của một thằng tiện dân lại có tới hai đứa con trai, mà ở nhà chúng ta thì đến một đứa cũng không có?” Một thằng Chamaar thì có gì để truyền cho con trai đâu, mà thần thánh phải hậu đãi nó thế? Không ổn, Luật Manu[21] đã bị phá vỡ rồi. Chắc chắn có kẻ nào đó ở trong làng này đã lỡ làm gì xúc phạm đến các vị thần, cần phải tổ chức những nghi lễ đặc biệt để tạ lỗi với các thần, để các ngài rót lộc con trai xuống những chiếc liễn rỗng này.
Tuy nhiên, một cô vợ không con lại nghĩ ra một giả thuyết khác, thực tế hơn, để lý giải vì sao họ chưa có con trai. Theo ý cô ta, rất có thể hai thằng bé này không phải con của Dukhi. Chắc hẳn gã Chamaar này đã tìm đến một vùng xa xôi nào đó, và bắt cóc hai đứa trẻ mới sinh của một gia đình Bà la môn–mọi chuyện thế là sáng tỏ.
Lời ong tiếng ve càng lan xa, Dukhi càng lo sợ cho sự an toàn của gia đình mình. Để phòng xa, anh cố sức tỏ ra khúm núm hơn hẳn lệ thường. Mỗi khi nhìn thấy những người đẳng cấp cao trên đường, anh quỳ mọp xuống, song ở một khoảng cách an toàn–có thế anh mới không bị kết tội làm họ ô uế bằng cái bóng của mình. Hàng ria mép bị cạo sạch, dù rằng độ dài và hình dáng của nó hoàn toàn tuân thủ luật đẳng cấp, đầu ria cụp xuống nom hết sức mọn mằn, không giống như những hàm ria đẳng cấp cao đầy kiêu hãnh luôn chải vểnh lên trời. Anh chỉ dám khoác lên người chính mình và hai thằng con những thứ giẻ rách bẩn thỉu nhất anh tìm thấy trong gia tài nghèo nàn của mình.
Để tránh bị phạt vì tội làm ô nhiễm, anh nhắc Roopa không được bén mảng tới gần khu vực giếng làng; đã có bạn chị, Padma, mang nước uống đến cho cả nhà. Dù bị sai làm việc gì, Dukhi cũng cắm đầu làm mà không dám thắc mắc một câu, không nghĩ đến chuyện được trả công, luôn giữ ánh mắt cách thật xa khuôn mặt của người đẳng cấp cao và dán chặt xuống nơi an toàn nhất là bàn chân mình. Anh thừa hiểu, chỉ cần ai đó hơi thấy chướng tai gai mắt với mình, thì chuyện sẽ lập tức bị thổi bùng lên thành những ngọn lửa cuốn nuốt cả gia đình anh.
May sao, phần lớn những người thuộc đẳng cấp cao đều bằng lòng với việc triết lý miệng về vấn đề tử cung hoang hóa và dừng lại ở đó. Họ lập luận rằng, rõ ràng thế giới đang trải qua Kaliyug[22], Kỷ Nguyên Đen Tối, và những bà vợ không có con trai đâu phải là điều bất thường trong trật tự thế gian. “Cứ xem vụ hạn hán mới đây thì rõ,” Họ nói. “Chúng ta đã thực hiện đầy đủ mọi nghi lễ, thế mà vẫn hạn hán như thường. Rồi đến khi mưa xuống, thì cứ gọi là suối tràn thác đổ; nhớ mấy trận lũ đó không, bao nhiêu nhà cửa đã bị cuốn trôi. Còn cả con bê hai đầu ở xã bên nữa chứ?”
Chưa một ai trong làng từng nhìn thấy con bê hai đầu, bởi đường sá xa xôi quá, chẳng có cách nào sang bên đó và trở về nhà an toàn trước khi trời tối. Song ai nấy đều đã được nghe kể về cái quái thai. “Phải, phải,” tất cả đều gật gù.
“Các Thầy cả nói phải lắm. Mọi tai ương xảy ra với bọn ta đều từ Kaliyug mà ra.”
Cách khắc phục, theo các Thầy cả đề xướng, là phải tuân thủ trật tự pháp điển sát sao quyết liệt hơn nữa. Mỗi con người đều có một vị trí thích hợp trên thế gian này, và chỉ cần mỗi người đều biết thân biết phận, tất cả đều có thể bình an vượt qua Kaliyug. Song nếu có bất cứ hành vi vi phạm nào–nếu chẳng may trật tự bị làm ô uế–thì không ai nói trước được những tai họa nào sẽ đổ xuống vũ trụ này.
Sau khi mối đồng thuận được thiết lập, dân làng bỗng thấy số trận roi ban xuống cho các thành viên của đẳng cấp tiện dân tăng vọt theo công cuộc đánh cho thế giới trở về quy củ của các chúa đất và các Thầy cả. Tội trạng thì muôn hình muôn vẻ và nặng tính tưởng tượng: một tên Bhunghi[23] dám để đôi mắt dơ bẩn của mình chạm vào ánh mắt một người Bà la môn; một tên Chamaar đi sai phía trên con đường tới đền và làm nó vấy bẩn; một tên khác lại lang thang gần khu vực đang làm lễ và vô tình để đôi tai hèn hạ của mình nghe thấy những tiếng tụng kinh thiêng liêng; một đứa bé gái Bhunghi chưa xóa sạch vết chân của mình in trên nền đất sân nhà của một chúa đất sau khi dọn dẹp xong – con bé kêu van là tại cây chổi của nó cùn quá, nhưng ai chấp nhận được lý do đó?
Dukhi cũng góp một phần da thịt vào sự nghiệp giằng vũ trụ khỏi nanh vuốt của Bóng Tối. Anh được gọi đi chăn một đàn dê. Ông chủ có việc phải rời làng trong ngày. “Trông cho cẩn thận vào,” y dặn, “nhất là con dê sừng cụt râu dài ấy. Nó quỷ quyệt lắm đấy.” Đổi lại, ông chủ hứa trả công cho anh một cốc sữa dê.
Suốt buổi sáng, Dukhi để mắt đến đàn dê từng tí một, khoan khoái tưởng tượng Ishvar và Narayan sẽ sung sướng đến nhường nào khi được uống sữa dê. Nhưng về chiều, tiết trời nóng bức, anh ngủ quên mất. Lũ dê chạy tán loạn, đi lạc vào đất đai của một người hàng xóm. Tối đến, khi ông chủ về đến nhà, thay vì cốc sữa, Dukhi phải xơi một trận roi.
Trả giá như thế hẵng còn rẻ chán, anh cảm thấy thế, chứ phải lúc lão chủ lên cơn đồng bóng, thì hậu quả thật không biết thế nào mà kể. Đêm đó, Roopa lẻn đi trộm bơ để bôi vào những vệt sưng tấy trên lưng và vai chồng.
Bơ là món Roopa có thể ăn trộm mà không mảy may chớp mắt. Thật ra, chị còn không coi đó là ăn trộm. Mà nói cho cùng, chẳng phải cách đây hàng ngàn năm, chính thần Krishna đã lấy đó làm nghề chính trong suốt thời niên thiếu, khi còn ở Mathura đấy ư?
Đến tuổi thích hợp, Dukhi bắt đầu dạy cho các con những kĩ thuật của thứ nghề nghiệp đã được cùm vào cổ chúng từ thuở lọt lòng. Khi được dẫn đi lấy con vật chết đầu tiên trong sự nghiệp của mình, Ishvar mới bảy tuổi. Narayan đòi đi theo, nhưng Dukhi bảo chưa đến lúc, nó còn bé quá. Anh hứa sẽ cho nó giúp vài việc như xát muối lên da, cạo lông và lọc bỏ những mẩu thịt thối bằng một con dao cùn, và hái quả chiêu liêu để thuộc da. Nghe thế, Narayan sướng lắm.
Dukhi và Ishvar đến trại của chúa đất Premji cùng mấy người Chamaar nữa, và được dẫn ra đồng, nơi con trâu nằm chết. Một con diệc đậu trên cái xác đen thùi lùi, đang mổ chấy rận. Thấy đám người đi tới, nó vội vỗ cánh bay đi.
Hàng đám mây ruồi bay vo ve quanh con vật.
“Nó chết chưa?” Dukhi hỏi.
“Dĩ nhiên là chết rồi,” gã người làm nhà chúa đất nói. “Chúng mày tưởng nhà tao điên hay sao mà đem cho trâu sống?” Hắn lắc đầu, lầm bầm chửi rủa đầu óc tối tăm của bọn tiện dân, và bỏ đi, để mặc nhóm người lo liệu nốt.
Dukhi cùng mấy người bạn đẩy chiếc xe bò ra đằng sau con trâu; một tấm phản gỗ được bắc từ sàn xe đến chỗ con vật nằm. Họ túm chân nó và bắt đầu kéo dần từng chút một lên tấm phản, vừa kéo vừa đổ nước ướt mặt gỗ để khối thịt trượt đi dễ dàng hơn.
“Xem này!” Một người kêu lên. “Nó vẫn còn sống, nó đang thở đấy!”
“Giời ạ, be bé cái mồm thôi, Chhotu!” Dukhi vội nạt. “Kẻo bọn chúng không cho ta lấy nữa bây giờ. Đằng nào nó cũng sắp chết rồi, cùng lắm chỉ sống được vài tiếng nữa thôi.”
Họ lại tiếp tục công việc, mồ hôi vã đầm đìa, miệng hậm hự không ngớt. Trong khi đó, Chhotu luôn mồm lầm bầm rủa xả lão chúa đất. “Thằng chó đạo đức giả. Hại bọn ông gãy cả lưng. Giá được giết con trâu tại chỗ, lột da rồi xả thành từng miếng nhỏ thì có phải đỡ không.”
“Đúng vậy,” Dukhi nói. “Nhưng đời nào Quý ngài Cứt Đẳng Cấp Cao cho phép làm thế? Sự thanh khiết của đất đai nhà lão sẽ bị vấy bẩn mất.”
“Trên người lão chỉ có độc một món đẳng cấp cao, ấy là cái dải khoai biết ăn thịt,” Chhotu nói. “Đêm nào nó chả xơi cái lồn đẳng cấp cao của mụ vợ.”
Mấy người đàn ông cười khùng khục, rồi lại ráng sức kéo. Một người bảo: “Người ta thấy tuần nào lão cũng mò lên tỉnh một lần. Xực hết gà, rồi cừu, bò, thích gì ăn nấy.”
“Chúng nó thằng nào chả thế,” Dukhi nói. “Trước bàn dân thiên hạ thì ăn chay, về nhà lại ăn mặn. Nào, đẩy đi!”
Ishvar vừa chăm chú lắng nghe câu chuyện của người lớn, vừa vươn đôi tay bé nhỏ ra đẩy giúp trong tiếng reo hò cổ vũ của mọi người. “Sắp được rồi! Đẩy đi, Ishvar, đẩy! Mạnh lên, mạnh nữa lên!”
Đột nhiên, ngay giữa tiếng đùa cợt và rủa xả và trêu chọc, con trâu bất thần sống lại, ngóc đầu lên một lần cuối trước khi gục hẳn. Đám người lớn kêu toáng lên vì kinh hãi và nhảy lùi hết lại để tránh đôi sừng. Nhưng chót sừng đã xỉa thẳng vào má trái của Ishvar, khiến cậu bé chết sững. Cậu ngã lăn ra.
Dukhi bế thốc con lên và hối hả chạy về nhà. Đôi chân anh uống cạn quãng đường bằng những hớp gấp gáp. Bóng đen buổi chính ngọ hắt xuống từ hai hình người bồng bế nhau dính chặt lấy gót anh không rời. Trên lông mày anh, mồ hôi túa ra đầm đìa, nhỏ tong tong xuống mặt con. Ishvar rùng mình, lưỡi cậu bé thè ra và nếm ngay phải thứ nước mằn mặn của bố chảy trên môi mình. Dukhi nhẹ cả người, tim dịu lại khi nhìn thấy chút dấu hiệu của sự sống đó.
“Ối làng nước ơi!” Roopa rú lên thất thanh khi nhìn thấy con máu me bê bết. “Bố thằng Ishvar, mình làm gì con tôi thế này! Làm sao phải vội đưa nó đi ngay hôm nay mới xong? Nó còn bé bỏng là thế! Đợi nó lớn tí nữa không được hay sao?”
“Nó đã bảy tuổi rồi,” Dukhi nhẹ nhàng đáp. “Hồi bố đưa đi làm, tôi mới năm tuổi.”
“Mình nói thế mà nghe được à? Chả lẽ nếu mình bị thương rồi chết lúc lên năm, mình cũng làm thế với con ư?”
“Nếu chết lúc lên năm, thì tôi còn có con sao được,” Dukhi đáp, giọng còn dịu dàng hơn nữa. Anh bèn đi hái mấy thứ lá cầm máu và băm thật nhỏ, cho đến khi nó gần quánh lại như keo. Xong xuôi, anh quay lại làm việc tiếp.
Roopa rửa sạch vết thương và đắp thứ lá thuốc xanh sậm lên. Lát sau, khi chị đã bình tĩnh trở lại, cơn giận chồng nguôi ngoai dần. Chị buộc mấy lá bùa hộ mệnh lên tay hai đứa con, tự lý giải rằng chính ánh mắt quỷ dữ của lũ đàn bà Bà la môn đã làm Ishvar bị thương.
Còn các bà các cô không có con cũng cảm thấy an tâm phần nào: vũ trụ đang trở về trật tự bình thường; mặt của con thằng tiện dân không còn lành lặn nữa mà đã thành ra méo mó, đúng như nó vốn phải thế.
Đến tối, Dukhi về nhà và ngồi bệt xuống đất, chỗ góc lều nơi anh vẫn ngồi ăn. Ishvar và Narayan rúc vào lòng bố, hít hà mùi thuốc lá quyện trong hơi thở của bố, nhất thời pha loãng bớt mùi thối của da, tanin, và thịt rữa. Roopa trải đều từng miếng bột tươi ra, mùi thơm của bánh đang nướng khiến bụng mấy bố con sôi sùng sục.
Vết thương sưng tấy mất mấy ngày rồi cũng lành dần, chẳng bao lâu sau đã không còn gì đáng ngại nữa. Dẫu vậy, nó khiến một phần khuôn mặt Ishvar mãi mãi liệt cứng.
Muốn xuê xoa bớt chuyện này, bố cậu bảo: “Thượng Đế muốn con trai bố chỉ khóc lóc bằng một nửa những người trần khác đây mà.”
Anh muốn lờ đi một sự thật, rằng cả nụ cười của Ishvar từ nay cũng chỉ hiện lên trên một nửa khuôn mặt.
Năm Ishvar lên mười và Narayan lên tám, mưa rơi như trút. Dukhi phải vất vả suốt mấy tháng mùa mưa, đi rút trộm hàng ôm rạ để che cho mái lều khỏi dột. Đồng ruộng được uống no sau trận hạn hán dài, gia súc đều phởn phơ khỏe mạnh. Dukhi chỉ hoài công chờ, chẳng có con nào chết để anh lấy da.
Thời tiết vẫn tiếp tục thuận hòa, hứa hẹn một vụ mùa bội thu cho các nhà địa chủ, nhưng đối với tầng lớp tiện dân chẳng có tấc đất cắm dùi nào, đó là một mùa ảm đạm. Khi nào đến vụ gặt, sẽ có việc cho họ làm, nhưng từ giờ tới lúc đó, họ phải sống nhờ vào của bố thí hoặc từng chút công việc nhọc nhằn mà các địa chủ vứt cho họ với ánh mắt dè chừng.
Sau vài ngày ngồi chơi xơi nước, Dukhi mừng húm khi được chúa đất Premji gọi. Anh được dẫn ra sau nhà, ở đó có một bao ớt đỏ khô đang chờ được nghiền thành bột. “Một mình mày làm liệu có xong trước khi mặt trời lặn không?” Chúa đất Premji hỏi. “Hay để tao gọi hai đứa.”
Vì ngại không muốn phải chia sẻ bất kì món công xá nhỏ nhoi nào mình có thể được nhận, Dukhi bèn nói: “Ngài đừng lo, tất cả sẽ xong xuôi trước khi mặt trời biến mất.” Anh xúc ớt đổ đầy chiếc cối đá khổng lồ và chọn lấy một trong ba cái chày dài, nặng nằm cạnh đó. Anh hăm hở giã, miệng luôn luôn tươi cười với lão chúa đất, lúc ấy vẫn còn nán lại xem anh làm.
Khi lão đi khỏi, Dukhi mới chậm tay chày lại. Nhịp giã nhanh đều chỉ duy trì được khi có ba người đứng quanh cối nối nhau hạ chày. Đến giờ cơm trưa, anh đã giã được nửa bao, và nghỉ tay để ăn. Nhìn quanh không thấy ai để ý, anh rón rén ra chỗ cối và bốc một nhúm bột ớt rắc vào đĩa cơm của mình. Anh lấy vừa kịp, vì ngay sau đó, lão chúa đất sai một gã người làm mang vào một bình nước.
Đến cuối chiều, khi bao ớt đã gần cạn, thì tai nạn xảy ra. Không hề báo trước, đúng lúc cây chày giáng xuống và bật lên như nó đã làm suốt một ngày dài vừa qua, cái cối nứt thành hai nửa gọn ơ và đổ lăn lóc. Một nửa rơi đúng vào chân trái của Dukhi và nghiến nát nó.
Vợ lão chúa đất lại đang đứng bên cửa sổ bếp trông xuống. “Ối giời ơi, mình ơi! Xuống đây mau lên!” Mụ the thé. “Con lừa Chamaar vừa phá tan cái cối nhà ta rồi!”
Tiếng thét của mụ khiến chúa đất Premji choàng tỉnh. Lão đang gà gật dưới mái hiên trước nhà, tay bế một đứa cháu. Lão đưa đứa bé đã ngủ say cho một đứa ở rồi chạy vội ra chái sau. Dukhi đang bò lê bò càng dưới đất, cố băng bàn chân đầm đìa máu bằng mảnh vải anh vẫn quấn quanh đầu làm chiếc khăn con.
“Đồ súc vật đần độn, mày đã làm gì thế kia! Tao thuê mày về phá đấy ư?”
Dukhi vội ngẩng đầu lên. “Xin ngài tha cho con. Quả thực con không làm gì cả. Chắc chắn trên đá đã có chỗ nứt từ trước rồi.”
“Nói láo!” Lão giơ cây gậy lên đầy đe dọa. “Đã làm vỡ cối còn dám nói dối tao à! Nếu mày không làm gì thì nó vỡ sao được? Một món đồ to nặng, tạc bằng đá cứng nhường ấy! Có phải thủy tinh đâu mà động tí là tan?”
“Con xin thề trên đầu hai thằng con con,” Dukhi van lạy. “Con chỉ đang giã ớt như đã làm suốt ngày hôm nay. Ngài nhìn mà xem, bao ớt đã gần hết rồi, công việc…”
“Đứng dậy! Cút khỏi đất của tao ngay! Tao không muốn nhìn thấy mặt mày nữa!”
“Nhưng thưa ngài, công việc…”
Lão vung gậy quất lên lưng Dukhi. “Tao nói rồi, đứng dậy! Và cút đi!”
Dukhi ráng đứng lên, tập tễnh lùi lại, ra ngoài tầm với của lão. “Xin ngài rủ lòng thương, mấy ngày nay con chưa có tí việc nào, con không…”
Lão chửi sa sả: “Mày nghe đây, thằng chó thối tha! Mày vừa phá hoại đồ nhà tao, thế mà tao vẫn tha cho mày về! Nếu tao không phải một thằng ngu dễ mềm lòng, thì tao đã dắt mày ra đồn cho cảnh sát xử rồi. Giờ thì cuốn xéo mau!” Đoạn, lão lại giơ gậy vụt lia lịa.
Dukhi cố né, nhưng chân đau, không chạy nhanh nổi. Vài cú đánh đã tìm đến đúng địa chỉ trước khi anh kịp lách qua cổng. Anh tập tễnh chạy về nhà, vừa bước vừa nguyền rủa lão chúa đất cùng con cháu chút chít nhà lão.
“Kệ tôi!” Đáp lại những câu hỏi sợ sệt của Roopa, anh chỉ rít lên. Khi chị vẫn ngoan cố xoắn lấy chồng, nài xin anh cho chị xem cái chân bị thương, anh đánh chị. Căm tức và nhục nhã, anh chỉ ngồi câm lặng trong lều suốt buổi tối. Ishvar và Narayan đều khiếp đảm; chúng chưa từng thấy bố như thế bao giờ.
Mãi sau, anh mới để Roopa rửa và băng vết thương lại, và ăn những đồ vợ mang cho, nhưng vẫn không chịu nói năng gì. “Mình cứ nói cho em nghe, sẽ thấy nhẹ người hơn đấy,” chị nói.
Hai ngày sau, anh mới kể cho chị hay, cay đắng ngập tràn như mủ thối tứa ra từ bàn chân anh. Anh không oán hận gì hồi bị đánh do để đàn dê sổng rào. Lỗi là do anh, anh đã ngủ quên mất. Nhưng lần này anh nào có làm gì sai. Anh đã làm lụng quần quật cả ngày, thế mà rốt cục lại bị đánh, còn bị xù tiền công. “Căm nhất là chân tôi còn bị nghiến nát,” anh bảo. “Tôi chỉ muốn giết thằng chúa đất ấy. Đồ kẻ cướp đốn mạt. Chúng nó rặt một phường đấy hết. Chúng đối xử với chúng ta như súc vật. Thời nào cũng vậy, từ đời cha đời ông chúng ta.”
“Suỵt,” chị vợ nói. “Bọn trẻ mà nghe được thì không hay đâu. Tại mình xui xẻo nên cối vỡ, thế thôi.”
“Tôi nhổ vào cái mặt đẳng cấp cao của chúng nó. Từ rày về sau, tôi đếch cần mấy công việc khốn nạn của chúng nó nữa.”
Khi cái chân đã lành, Dukhi quay lưng lại với ngôi làng. Anh trở dậy từ mờ đất và lên đến thị trấn trước buổi trưa bằng cách đi nhờ xe bò kéo hoặc xe tải. Anh chọn một góc phố không có thợ chữa dép nào ở xung quanh. Với chiếc cốt giày sắt cùng dùi, búa, đinh, chêm được xếp thành một vòng bán nguyệt trước mặt, anh yên vị trên vỉa hè, chờ sửa giày dép cho dân thị trấn.
Giày tây, giày da mềm, dép lũ lượt diễu qua với đủ loại kiểu dáng và màu sắc, khiến anh vừa thích thú, vừa lo lắng.
Nếu một trong số đó dừng bước, liệu anh có đủ sức đảm nhiệm việc sửa chữa không? Trông cái nào cũng phức tạp hơn hẳn loại dép giản dị anh đã quen mặt.
Một lúc sau, một người dừng chân trước mặt Dukhi, rũ chiếc dép da khỏi bàn chân phải, và giơ ngón chân cái chỉ vào mấy dải quai ngang đã đứt. “Sửa cái này giá bao nhiêu?”
Dukhi nhặt chiếc dép lên và ngắm nghía thật kĩ. “Hai anna.”
“Hai anna? Chú mày điên chắc? Nếu có thừa hai anna để trả một thằng thợ dép như chú mày, thì thà tao mua đôi mới còn hơn.”
“Ây dà, làm gì có ai bán cho ông anh đôi dép mới với giá hai anna?” Cưa đi kéo lại, hai bên chốt giá một anna. Dukhi tháo phần đế dép, để lộ ra đường rãnh mang những mối chỉ đứt. Cáu ghét rơi ra từng mảng lớn dẹp lép. Anh kết luận, cáu ghét nhà quê với cáu ghét tỉnh thành chẳng khác gì nhau, cả hình thù lẫn mùi mẽ đều giống hệt.
Anh lắp dải quai nào vào khe nấy và khâu đè lên một hàng chỉ mới cho chặt chịa. Trước khi xỏ chiếc dép vào chân, người khách nắm mấy dải quai mới khâu rồi giật giật. Anh ta đi thử vài bước, ngọ nguậy ngón chân, ầm ừ ra chiều hài lòng và trả tiền.
Sau sáu tiếng và năm người khách, đã đến lúc về nhà. Dukhi lấy tiền đi mua vài thứ–một ít bột mì, ba củ hành, bốn củ khoai tây, hai quả ớt xanh cay–rồi theo đường cũ trở về. Xe cộ tầm này thưa thớt hơn buổi sáng. Anh phải cuốc bộ một đoạn dài rồi mới tìm được xe cho đi nhờ. Khi anh về đến làng đã là đêm khuya. Roopa cùng hai thằng con đang phấp phỏng đợi anh về.
Sau vài ngày ngồi ở góc phố, Dukhi bỗng thấy anh bạn Ashraf sải bước trên vỉa hè, đến chỗ anh ngồi. “Tôi không biết anh lại chữa dép ở khu này,” Ashraf nói, mặt lộ vẻ ngạc nhiên khi gặp bạn.
Ashraf là một thợ may người Hồi trên tỉnh. Anh ta cũng tầm tuổi Dukhi, và là chỗ Dukhi thường tìm đến trong những dịp hiếm hoi đủ tiền sắm sanh món gì đó cho Roopa hoặc bọn trẻ–thợ may người Hindu không may đồ cho tiện dân.
Nghe kể lại những chuyện xui xẻo Dukhi gặp ở làng, Ashraf bèn hỏi: “Anh có muốn thử một việc khác không?
Việc này có thể khá tiền hơn đấy?”
“Ở đâu?”
“Đi theo tôi.”
Anh thu dọn đồ nghề và vội vã đi theo Ashraf. Họ đi bộ sang bên kia thị trấn, vượt qua đường ray tàu hỏa, đến một xưởng gỗ. Tới nơi, Dukhi được giới thiệu với chú của Ashraf, quản lý xưởng.
Kể từ đó, ở xưởng lúc nào cũng có việc cho Dukhi: bốc và dỡ hàng trên xe tải, hoặc giúp đưa hàng. Dukhi vô cùng vui sướng với việc được nâng vác, được bước đi thẳng thớm cùng bao công nhân khác thay vì cả ngày còng lưng trên vỉa hè, nói chuyện với bàn chân của những người xa lạ. Và mùi thơm của gỗ tươi là phút nghỉ ngơi đáng hoan nghênh sau cái hôi thối của đủ loại giày dép bẩn thỉu.
Một buổi sáng nọ, khi đang trên đường tới xưởng gỗ, Dukhi nhìn thấy rất nhiều xe cộ. Chiếc xe bò anh đi nhờ bị nuốt chửng trong những đám mây bụi. Nó liên tiếp phải tránh sang lề đường, và một lần còn gần sa hẳn xuống rãnh, khi một chiếc xe buýt lớn vượt lên.
“Có chuyện gì thế nhỉ?” Dukhi hỏi người đánh xe. “Họ kéo nhau đi đâu vậy?” Anh kia chỉ nhún vai, vì còn đang lo đưa xe mình trở lại đường cái. Mấy cú thúc của anh ta xem chừng không ăn thua, cuối cùng hai người phải nhảy xuống để giúp con vật.
Lên đến nơi, Dukhi thấy đường phố giăng đầy băng rôn và cờ quạt. Anh được biết có vài vị lãnh đạo của Quốc hội quốc gia Ấn Độ đến thăm thị trấn này. Anh bèn tìm đến cửa hiệu của Ashraf và kể cho bạn hay, cả hai quyết định nhập bọn với đám đông.
Các vị lãnh đạo bắt đầu phát biểu; họ nói mình tới đây để truyền bá thông điệp của đức Mahatma[24] về cuộc đấu tranh giành tự do, cuộc đấu tranh vì công lý. “Suốt bao lâu nay, chúng ta đã là nô lệ trong chính đất nước mình. Và nay đã đến lúc chiến đấu giành tự do. Trong cuộc chiến này, chúng ta không cần súng hay gươm. Chúng ta không cần những lời lẽ cay độc hay thù nghịch. Bằng sự thật và đức bất hại, chúng ta sẽ thuyết phục được người Anh rằng đây là thời điểm thích hợp để họ rút đi.”
Đám đông hoan hô vang dội; vị diễn giả lại tiếp lời: “Các anh chị em đều sẽ đồng tình, rằng để lật đổ ách nô lệ, chúng ta phải thật mạnh mẽ. Không một ai có thể phản bác nổi điều đó. Và chỉ những con người thực sự mạnh mẽ mới phát huy được sức mạnh của sự thật và bất bạo động. Nhưng làm sao chúng ta có thể trở nên mạnh mẽ cho được, khi vẫn còn một căn bệnh đang tồn tại trong chính chúng ta? Trước hết ta phải tiệt trừ căn bệnh đang lan tràn trên cơ thể tổ quốc ta đã.
Có lẽ các anh chị em sẽ hỏi, căn bệnh đó là gì? Căn bệnh này, xin thưa với các anh chị em, chính là quan niệm về tiện dân, thứ đã hủy hoại chúng ta suốt bao thế kỷ qua, chối bỏ nhân phẩm của bao người đồng bào của chúng ta. Căn bệnh này phải được thanh trừ khỏi xã hội của chúng ta, khỏi trái tim của chúng ta và khỏi trí não của chúng ta. Không một ai là tiện dân hết, bởi chúng ta đều là con cái của một Thượng Đế. Hãy ghi nhớ những lời ngài Gandhi đã nói, rằng tư tưởng về tiện dân đầu độc đạo Hindu hệt như một giọt thạch tín đầu độc sữa.”
Sau bài diễn thuyết này, các diễn giả khác lần lượt lên nói với đám đông về các vấn đề liên quan đến cuộc đấu tranh giành độc lập, về những con người đang ngồi tù một cách đáng kính trọng vì tội bất tuân dân sự, vì đã từ chối tuân theo những điều luật bất công. Dukhi và Ashraf nán lại đến phút cuối, khi các vị lãnh đạo yêu cầu đám đông cam kết rằng họ sẽ xóa bỏ mọi thành kiến đẳng cấp khỏi suy nghĩ, lời nói, và việc làm của mình. “Chúng tôi đang mang thông điệp này truyền đi khắp đất nước, và kêu gọi nhân dân ở mọi nơi đoàn kết và cùng đả phá chế độ tồi tệ của tội lỗi và niềm tin mù quáng này.”
Đám đông hô lớn lời thề thánh Mahatma chỉ thị cho mình, hét vang từng chữ với nhiệt huyết sôi sục. Cuộc mít tinh kết thúc tại đó.
“Không hiểu,” Dukhi nói với Ashraf, “bọn địa chủ ở làng tôi có bao giờ vỗ tay hoan hô một bài diễn thuyết đòi xóa bỏ chế độ đẳng cấp không nhỉ.”
“Chúng sẽ hoan hô, rồi tiếp tục ngựa quen đường cũ thôi,” Ashraf đáp. “Dào, quỷ dữ đã đánh cắp mọi ý niệm về công bằng của chúng rồi, chúng không thể nhìn thấy hay cảm thấy nữa đâu. Mà anh nên bỏ làng, đem gia đình lên đây thì hơn.”
“Rồi chúng tôi biết ở đâu? Ở làng, chí ít chúng tôi còn có một túp lều. Vả lại, đời cha đời ông tôi vẫn sống ở đấy. Tôi rời đất ấy sao đành? Bỏ quê hương làng bản mà đi chẳng hay gì đâu. Người ta sẽ quên hết gốc gác của mình mất.”
“Quả vậy,” Ashraf nói. “Nhưng chí ít hãy gửi hai thằng con anh lên đây một thời gian. Để mà học lấy một nghề.”
“Có học thì chúng cũng sẽ không được phép hành nghề ở làng đâu.”
Ashraf phát sốt ruột với suy nghĩ bi quan của bạn. “Dào, tình hình sẽ thay đổi. Anh chả nghe mấy người nói ở buổi mít tinh rồi còn gì. Đưa hai thằng con anh lên đây, tôi sẽ dạy chúng nghề may ngay tại cửa hiệu.”
Trong giây lát, mắt Dukhi sáng lên khi mường tượng ra triển vọng tương lai. “Thôi,” anh nói. “Tốt hơn hết là cứ ai ở chỗ người nấy.”
Vụ thu hoạch đã tới, Dukhi thôi không đến xưởng gỗ nữa. Lời thề cạch mặt lũ địa chủ của anh đã phai nhạt vì đường lên thị trấn quá xa, phương tiện đi lại thì không đảm bảo. Anh ra đồng từ khi chưa tỏ mặt người để gặt, và trở về nhà sau khi trời đã nhá nhem với cái lưng đau ê ẩm cùng tất cả những tin tức về các làng mạc xung quanh mà anh đã bỏ lỡ trong mấy tháng vừa qua.
Những tin đó cũng cùng một loại như những thứ Dukhi đã được nghe hết đêm này qua đêm khác trong suốt tuổi thơ của anh; chỉ có mấy cái tên là khác. Vì tội đi trên phần đường dành cho đẳng cấp cao, Sita bị ném đá, nhưng chưa tới chết–cơn mưa đá đã dừng khi dòng máu đầu tiên đổ xuống. Gambhir kém may mắn hơn; anh ta bị đổ chì nung chảy vào tai vì dám lại gần tầm nghe của ngôi đền trong khi buổi lễ cầu nguyện đang diễn ra. Dayaram, đã thỏa thuận sẽ cày ruộng cho một nhà địa chủ nhưng rồi thất hứa, bị ép phải ăn cứt của lão kia ngay giữa đình làng. Dhiraj đòi thỏa thuận trước với Thầy cả Ghanshyam công xá cho việc chặt củi, thay vì nhận được vài thanh củi vào cuối ngày như anh ta đã hi vọng; lão Thầy cả cáu tiết lên, vu cho Dhiraj tội đầu độc đàn bò nhà lão, và lôi anh ta ra treo cổ.
Trong khi Dukhi còn nai lưng ngoài đồng và việc da vẫn đang khan, chẳng có gì cho hai thằng con anh làm. Roopa cố vẽ việc cho chúng bằng cách sai hai đứa đi kiếm củi đun. Thi thoảng hai anh em còn tìm thấy những cục phân bò lạc, vô chủ bị mấy người chăn bò bỏ sót, mặc dù rất hiếm gặp, vì món hàng quý này luôn được các chủ bò nhặt nhạnh từng tí một. Roopa không dùng phân này để đun nấu, mà thích đắp lên lối vào lều. Khi phân đã khô nỏ, cứng và mượt, chị sung sướng tận hưởng trong chốc lát ngưỡng cửa cứng đanh như đất nung, chẳng khác gì sân của các nhà chăn gia súc.
Ngoài thời gian làm việc vặt, hai cậu bé có vô số thì giờ rỗi để chạy chơi bên bờ sông hoặc đuổi thỏ hoang. Chúng biết chính xác đẳng cấp của mình được phép và bị cấm làm những gì; bản năng, cộng với nhiều lần nghe lỏm người lớn nói chuyện, đã vạch thành ranh giới trong trí óc chúng, rõ ràng như những bức tường đá. Dẫu vậy, mẹ chúng vẫn lo hai thằng con có thể gặp chuyện lôi thôi. Chị thấp thỏm đợi đến lúc việc sàng sẩy đã hoàn tất, khi ấy hai đứa lại quanh quẩn trong tầm mắt chị, bới nhặt đống cám để tìm những hạt gạo sót.
Đôi khi hai anh em bỏ cả buổi sáng rình mò ngôi trường làng. Chúng dỏng tai nghe bọn trẻ đẳng cấp cao ê a đọc bảng chữ cái, và hát những bài hát trẻ con về màu sắc, các con số, mùa mưa. Những thanh âm lanh lảnh ùa ra khỏi cửa sổ như những đàn se sẻ. Sau đó, nấp dưới những tán cây kín bưng bên bờ sông, hai anh em lại cố nhắc lại theo trí nhớ những bài lũ trẻ kia đã hát.
Nếu trí tò mò kéo Ishvar và Narayan lại quá gần, khiến ông thầy giáo nhìn thấy, chúng sẽ bị đuổi đi ngay. “Lũ lừa con láo toét! Xéo ngay không tao đánh cho què cẳng bây giờ!” Song Ishvar và Narayan khá thạo khoản rình trộm lớp học; hai đứa có thể lẻn vào đủ gần để nghe thấy cả tiếng phấn rít ken két trên mặt bảng.
Phấn và bảng khiến chúng mê tơi. Chúng những ao ước được cầm mấy cái que màu trắng trong tay, vạch thành những đường loằng ngoằng màu trắng như lũ trẻ kia, vẽ hình lều lán, bò, dê, và hoa. Bao nhiêu thứ tự nhiên hiện ra, cứ như phép thần vậy.
Một buổi sáng, Ishvar và Narayan đang nấp sau bụi cây, thì bọn học sinh được dẫn ra sân trước để tập một điệu múa cho hội gặt. Bầu trời trong veo không một gợn mây, và những câu hát bập bõm vẳng lại từ cánh đồng phía xa xa.
Khúc ca của những con người lao khổ chất chứa nỗi đau đớn của những tấm lưng ê ẩm, của làn da cháy xèo xèo dưới nắng. Ishvar và Narayan dỏng tai cố nghe xem đâu là giọng của bố, song không tách bạch nổi từng thanh âm trong cả dàn đồng ca.
Bọn học trò cầm tay nhau và dàn thành hai vòng tròn đồng tâm. Chân đi đất, chúng di chuyển theo hai hướng ngược nhau. Thỉnh thoảng, hai vòng tròn lại đảo hướng chuyển động. Cũng vì thế mà sinh ra lắm trò vui, bởi thường có vài đứa chuyển hướng chậm, thế là cả đám ríu lại, rồi xô hết cả vào nhau.
Xem trộm được một lúc, Ishvar và Narayan bỗng sực nhớ ra là lớp học đang trống trơn. Hai anh em bèn bò quanh sân, ra đằng sau lưng nhà, và trèo vào qua cửa sổ.
Ở một góc, giày dép của bọn trẻ được xếp thành hàng ngay ngắn; ở một góc khác, bên cạnh tấm bảng đen, là các hộp cơm trưa của chúng. Mùi thức ăn hòa lẫn với bụi phấn. Hai anh em tìm đến chiếc tủ cất bảng con và phấn. Mỗi đứa lấy một bộ, đoạn ngồi khoanh chân trên sàn, bảng đặt trong lòng, hệt như kiểu cách chúng vẫn thấy bọn trẻ kia làm. Nhưng hai đứa không chắc bước tiếp theo là gì. Narayan ngồi chờ anh nó mở màn.
Ishvar hơi hồi hộp, viên phấn dừng ngập ngừng phía trên mặt bảng, e sợ điều sắp xảy ra. Đoạn cậu thận trọng đặt phấn xuống và vẽ một đường, rồi một đường nữa, và một đường nữa. Cậu toét miệng cười với Narayan–tạo dấu ấn riêng cho mình thật dễ làm sao!
Giờ đến lượt Narayan. Ngón tay run bần bật vì phấn khích, cậu vạch một vạch trắng ngắn và hãnh diện khoe với anh. Hai anh em thêm bạo gan, thôi vẽ những đường thẳng, mà phủ đầy mặt bảng bằng những vòng tròn, đường cong và đường nguệch ngoạc với đủ hình dáng và kích thước, chúng dừng lại chỉ để xuýt xoa, trầm trồ sao mình vẽ ngon lành đến thế, rồi lấy tay xóa đi và thỏa sức vẽ lại. Cả bụi phấn bám đầy lòng bàn tay cùng ngón tay cũng khiến hai anh em cười khanh khách–chúng có thể quệt lên trán, tạo thành những vệt to đậm, nom ngồ ngộ, hệt như dấu ấn đẳng cấp của những người Bà la môn.
Chúng quay lại chỗ tủ và xem xét những món đồ khác, chúng mở cả các tờ in bảng chữ cái và lật giở những quyển sách tranh. Mải mê trong thế giới cấm, chúng không nhận ra giờ học múa ngoài sân đã kết thúc, cũng chẳng nghe thấy tiếng lão thầy giáo rón rén bước lại gần. Lão bèn túm tai hai đứa và lôi chúng ra sân.
“Hai thằng Chamaar mất dạy! To gan nhỉ, dám mò vào trường kia đấy!” Lão vặn xoắn tai hai anh em lại, cho đến khi hai đứa kêu oai oái vì đau và bắt đầu khóc be be. Lũ học sinh sợ hãi đứng túm tụm lại với nhau.
“Bố mẹ chúng mày dạy chúng mày thế à? Dạy chúng mày làm ô uế dụng cụ của học tập và tri thức à? Nói tao nghe! Có phải thế không?” Lão buông tai hai anh em ra một lúc, đủ để giáng mấy cú nảy đom đóm lên đầu chúng, rồi lại tóm lại.
Ishvar vừa khóc mếu vừa đáp: “Thưa thầy, không ạ.”
“Thế thì sao chúng mày lại vào đây?”
“Chúng con chỉ muốn xem…”
“Muốn xem! Được, đã thế tao sẽ cho chúng mày xem ngay! Tao sẽ cho chúng mày xem mu bàn tay tao đây!” Một tay giữ chặt Narayan, lão giơ tay kia tát bôm bốp lên mặt Ishvar sáu cái liên tiếp, rồi cũng tát vào mặt thằng em ngần ấy cái. “Cái gì trên trán chúng mày đây, lũ súc sinh vô liêm sỉ? Thật quá báng bổ!” Lão lại tát hai đứa; đến lúc này, tay lão đã đau rần.
“Lấy cây gậy trong tủ ra đây,” lão sai một đứa bé gái. “Còn hai đứa chúng mày, tụt quần ra. Khi nào tao đánh xong, sẽ không còn đứa nào trong chúng mày dám tơ tưởng đến chuyện sờ mó những thứ chúng mày không được phép động vào nữa.”
Gậy được mang ra, và lão thầy giáo sai bốn trò lớn ấn hai kẻ xâm nhập trái phép úp mặt xuống đất, giữ chặt tay và cổ chân chúng. Lão bắt đầu thi hành án phạt, thay phiên vụt hai đứa. Bọn trẻ đứng ngoài xem sợ rúm người mỗi khi cây gậy nện xuống cặp mông trần. Một thằng bé con còn khóc òa lên.
Khi mỗi đứa đã nhận đủ một tá roi, lão thầy giáo bèn dừng tay. “Cho chúng mày nhớ lấy,” lão thở hổn hển. “Giờ thì cút xéo, và đừng bao giờ để tao thấy cái mặt dơ bẩn của chúng mày ở đây nữa, nghe chưa!”
Ishvar và Narayan cắm cổ chạy, quần tụt lốc thốc khiến hai đứa ngã đứng ngã ngồi nom rất hoạt kê. Lũ trẻ kia bèn nhân dịp này cười ồ lên; đứa nào cũng thấy mừng vì chút thư giãn nó mang lại.
Phải đến tối Dukhi mới biết chuyện hai thằng con bị phạt. Anh lạnh lùng bảo Roopa tạm dừng nướng bánh. “Sao thế?” Chị hoảng hốt hỏi. “Làm lụng cả ngày ngoài đồng thế mà mình không đói sao? Mình… mình định đi đâu đấy?”
“Đến nhà Thầy cả Lalluram. Ông ấy phải có lời trong vụ này mới xong.”
“Để thư thả đã,” chị van vỉ. “Đừng làm phiền một người danh giá như thế vào đúng giờ ăn cơm.” Nhưng Dukhi đã rửa sạch bụi đất của một ngày dài bám trên tay và ra đi.
Thầy cả Lalluram không phải một người Bà la môn bình thường, ông ta là một người Bà la môn Chit-Pavan sinh ra từ dòng dõi thanh khiết nhất trong số những dòng dõi thanh khiết, hậu duệ của những người nắm giữ Tri Thức Linh Mật. Ông chẳng phải trưởng làng, cũng không phải quan chức chính phủ nốt, song những anh em cùng vai vế đều nói rằng ông thu phục được lòng kính ngưỡng không gì lay chuyển nổi của họ bằng chính tuổi tác, lòng chính trực, và những Tri Thức Linh Mật khóa kín trong cái sọ to đùng, bóng láng của mình.
Tranh chấp đủ kiểu, dù về đất đai hay súc vật, đều được trình lên nhờ ông phân xử. Những vụ cãi vã trong gia đình do con dâu hỗn hào, vợ cứng đầu, rồi chồng lăng nhăng cũng rơi vào vòng phán quyết của ông nốt. Nhờ lời chứng thực không chê vào đâu được của ông, ai nấy đều ra về với cảm giác thỏa mãn: nạn nhân thu được chút ảo tưởng về công lý; kẻ sai trái lại thả sức đường cũ mà tiến; còn Thầy cả Lalluram, đổi lại những phiền phức mà ông phải chịu, nhận được đủ thứ quà, nào vải, nào gạo, nào hoa quả, nào bánh kẹo từ cả hai bên.
Vị Thầy cả uyên bác còn có tiếng là người hay ra tay thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng. Chẳng hạn, trong những cuộc biểu tình định kì chống người Hồi và bọn giết bò, Thầy cả Lalluram đều thuyết phục các bạn đồng đạo rằng người Hindu không nên kết tội những kẻ ăn thịt bò. Ông giải thích rằng người Hồi, do tôn giáo của mình, phải gánh những bốn bà vợ, tội nghiệp lắm thay, và anh ta cần phải ăn thịt động vật để hâm nóng bầu máu, đặng còn có sức phục vụ bốn bà kia–anh ta ăn thịt là do nhu cầu bức bách, chứ nào có thích thú gì thịt bò, cũng chẳng định chọc tức người Hindu, và, vì thế, nên thông cảm và để yên cho anh ta thỏa mãn đòi hỏi tín ngưỡng của mình.
Với tiểu sử không tì vết, những thắng lợi của Thầy cả Lalluram nhiều vô số kể. Một người trung thực công minh nhường ấy, ai nấy bảo nhau, thì đến một kẻ tiện dân cũng có thể nhận được công lý từ tay ông. Đành rằng không một tên tiện dân nào chứng thực nổi điều này bằng trí nhớ của mình, nhưng ấy lại là chuyện khác. Dường như ai cũng còn nhớ, lờ mờ, cái đận một chúa đất đánh chết một người Bhunghi vì tội đến muộn, mãi sau khi mặt trời lên hắn mới vác xác đến để chở thùng phân của nhà ông ta đi. Thầy cả Lalluram đã phán–hoặc có lẽ đó là bố thầy, hay ông thầy cũng nên; nói tóm lại là có người đã phán–rằng tội ấy quả là nặng, song chưa nặng đến nỗi phải bị giết, và rằng vị chúa đất, để đền bù, phải cung cấp thức ăn, chốn ở, và quần áo cho vợ con người chết trong sáu năm tiếp theo. Hay là sáu tháng, có khi là sáu tuần cũng nên?
Dựa vào uy tín huyền thoại đó về óc chính trực, Dukhi ngồi dưới chân thầy và kể cho thầy vụ Ishvar và Narayan bị đánh. Vị Thầy cả uyên bác đang ngả mình trên chiếc ghế tựa, vừa mới ăn xong cơm tối, và đã ợ mấy lần rất to để điểm vào câu chuyện của người khách. Dukhi cung kính ngừng lời trước mỗi tiếng ợ, trong khi Thầy cả Lalluram lầm rầm “Hai Ram” để tạ ơn trời đã ban cho đường tiêu hóa của mình sức mạnh ghê gớm nhường ấy.
“Ông ta đã tát hai thằng con con bao nhiêu cái… thưa thầy, thầy phải nhìn thấy mặt chúng nó mới rõ, sưng như cái lệnh,” Dukhi nói. “Còn lưng chúng nó nữa, trông như bị một con hổ dữ cào vậy.”
“Tội