← Quay lại trang sách

V: Những Ngọn Núi.

Khi Maneck Kohlah hoàn tất công cuộc chuyển đồ đạc của mình từ kí túc xá sang căn hộ của Dina, toàn thân cậu đã đầm đìa mồ hôi. Tay khỏe thật, cô nghĩ, khi nhìn cậu vác những vali cùng hộp êm ru, rồi cẩn thận đặt từng món xuống đất.

“Ướt hết cả rồi,” cậu nói, đoạn giơ tay lên chùi trán. “Cô Dalal, cháu phải đi tắm cái đã.”

“Vào giờ này? Cháu đùa đấy à? Làm gì có nước, cháu phải chờ đến sáng mai cơ. Mà lại cô Dalal nữa là thế nào?”

“Cháu xin lỗi, dì Dina.”

Thằng bé đẹp trai quá, cô nghĩ, có cả lúm đồng tiền khi cười nữa. Nhưng cô cảm thấy cậu nên tiêu diệt ngay mấy sợi râu lơ thơ phía trên môi đang gồng mình đòi sắm vai một bộ ria đi. “Dì gọi cháu là Mac được không?”

“Cháu ghét cái tên đấy.”

Cậu dỡ đồ, thay áo sơ mi, và họ ăn tối. Cậu chỉ ngẩng mặt lên khỏi đĩa duy nhất một lần, gặp ánh mắt của cô và nở nụ cười buồn. Cậu ăn rất ít; cô bèn hỏi thức ăn có được không.

“Ồ, ngon, ngon lắm ạ, cảm ơn dì.”

“Nếu bác Nusswan, anh trai dì ấy mà, nhìn thấy đĩa cơm của cháu, thế nào bác ấy cũng bảo ăn thế thì đến con chim cảnh nhà bác ấy cũng bị đói đấy.”

“Trời nóng quá, cháu không thiết ăn,” cậu nói nhỏ, giọng phân bua.

“Ừ, dì nghĩ nếu so với không khí miền núi trong lành trên nhà cháu, dưới này chắc nóng như nung ấy nhỉ.” Cô cho rằng cậu cần được quan tâm an ủi. “Tình hình ở trường thế nào?”

“Tốt ạ, cảm ơn dì.”

“Nhưng cháu không thích kí túc xá à?”

“Không ạ, ở đấy ồn ào lắm. Cháu không học nổi.”

Lại một không khí im lặng kéo dài mấy nhúm cơm liền, nỗ lực gợi chuyện tiếp theo xuất phát từ cậu. “Hai người thợ may cháu gặp tháng trước, họ còn làm cho dì không?”

“Còn,” cô nói. “Họ đến vào sáng sớm.”

“Ô, tuyệt, được gặp lại họ thì hay quá.”

“Thật à?”

Cậu không nghe ra giọng bực dọc trong đó, và cố gật đầu vui vẻ trong khi cô bắt tay vào dọn bàn. “Để cháu giúp dì,” cậu nói, đoạn đẩy ghế đứng lên.

“Không, cứ để mặc dì.”

Cô mang đĩa vào bếp ngâm để sáng mai rửa, và cậu nhìn quanh. Căn hộ khiến lòng cậu trĩu nặng, cảm giác không khác gì ngày đầu cậu tới để xem phòng ốc. Chỉ sau chưa đầy một năm nữa thôi, cậu sẽ rời đi, cậu thầm nghĩ, cảm ơn trời đất. Nhưng với dì Dina, đây là nhà. Khắp nơi đều mang dấu vết cuộc vật lộn của cô hòng bứt khỏi cảnh bần cùng, hòng mang sự ngăn nắp ra chữa chạy và gò sự nhếch nhác của nghèo đói vào khuôn khổ. Cậu nhìn thấy điều đó trong tấm lưới mắt cáo căng đè lên những ô kính cửa sổ đã vỡ, trong bức tường và trần bếp ám đen, trong lớp vữa lở lói, trong những mảnh vá víu trên cổ và tay chiếc áo cô mặc.

“Nếu mệt, cháu cứ đi ngủ trước đi, đừng đợi dì,” cô nói.

Cho đó là một câu đuổi khéo, cậu bèn lui về phòng mình – phòng của cô, cậu nghĩ với cảm giác có lỗi – và ngồi lắng nghe những tiếng động vẳng ra từ phía trong nhà, cố đoán xem cô đang làm gì.

Trước khi lên giường đi ngủ, Dina mở vòi nước trong bếp để nhờ dòng nước đầu tiên chảy xuống đánh thức vào sáng mai. Cô nằm thao thức một lúc, nghĩ về người khách trọ của mình. Ấn tượng đầu tiên rất tốt. Cậu không hề có vẻ gì là đỏng đảnh khó chiều, nhã nhặn, lễ phép, và hơi ít nói. Song biết đâu hôm nay cậu đang hơi mệt, mai cậu sẽ hoạt ngôn hơn chăng.

Maneck ngủ không yên. Một cánh cửa sổ bị gió đập liên hồi, nhưng cậu ngại không dám dậy xem, sợ mình sẽ vấp ngã trong bóng đêm, làm phiền bà dì. Cậu xoay phải lật trái, ám ảnh bởi cái kí túc xá. Cuối cùng cũng thoát, cậu nghĩ. Nhưng giá được về thẳng nhà có phải tốt hơn bao nhiêu không…

Cậu trở dậy từ sớm; cái vòi nước để mở hóa ra cũng biến thành chiếc đồng hồ báo thức cho cậu luôn. Đánh răng xong, cậu quay về phòng và tập chống đẩy, trên người chỉ mặc độc cái quần lót, không hề nhận ra là Dina, lúc ấy đã dọn dẹp xong trong bếp, đang nhìn mình qua cánh cửa mở hé.

Cô trầm trồ đường móng ngựa dồ lên rồi lặn xuống trên hai khối cơ đầu vai theo từng chuyển động lên xuống của cậu. Đúng như mình nghĩ tối qua, cô tự nhủ, cánh tay khỏe đẹp thật. Và thân hình cũng nở nang ghê. Chợt má cô đỏ bừng bối rối – mẹ nó học cùng lớp với mình… thằng bé chỉ đáng tuổi con mình. Cô bèn quay đi, không dám nhìn qua cánh cửa nữa.

“Cháu chào dì.”

Cô e dè quay đầu lại, thở phào khi thấy cậu đã mặc quần áo chỉnh tề. “Chào cháu, Maneck. Cháu ngủ có ngon không?”

“Có ạ, cảm ơn dì.”

Cô dẫn cậu vào nhà tắm và chỉ cho cậu cách sử dụng dây may-so đun nước, rồi đi ra. Cậu đóng cửa lại để cởi quần áo, cẩn thận di chuyển trong không gian nhỏ hẹp, xa lạ. Nước nóng bốc hơi, rồi sôi lăn tăn trong xô. Cậu đưa đầu ngón tay vào để thử độ nóng, đoạn nhúng ngập đến cổ tay, khoan khoái tận hưởng làn nước ấm. Cậu nhận ra chính không khí ẩm ướt của một ngày mùa mưa đã làm hơi nước bốc lên và tụ lại dày đặc, song sức nóng của nó cũng không hơn gì làn mây mù mơ hồ đang ôm ấp những ngọn núi nơi quê nhà cậu.

Nếu nhắm mắt lại, cậu có thể mường tượng ra: vào tầm giờ này, làn mây đang vần vũ biến ảo, lượn quanh những đỉnh núi tuyết phủ. Ngay sau khi mặt trời lên là thời điểm thích hợp nhất để quan sát điệu múa khoan thai này, trước khi ánh nắng đủ mạnh để xé toang lớp màn mây. Khi ấy cậu thường đứng bên cửa sổ, ngắm ráng bình minh màu hồng và cam, tưởng tượng làn sương mù đang cù khẽ vào tai núi hay vấn vít dưới cằm, hoặc dệt thành một chiếc mũ đội lên đầu núi.

Rồi chỉ lát sau, cậu sẽ nghe thấy những thanh âm quen thuộc từ dưới nhà vọng lên, tiếng bố cậu mở cửa hàng và bước ra ngoài để quét thềm nhà. Trước tiên, bố sẽ chào bọn chó vừa nghỉ đêm trên thềm nhà. Họ chẳng bao giờ gặp phiền phức gì với lũ chó hoang; bố đã giao kèo trước với chúng: chúng có thể ngủ ở đây và ăn các loại xương xẩu thừa thẹo; nhưng tới sáng phải rời đi. Và lũ chó luôn ngoan ngoãn bỏ đi khi tia sáng đầu tiên chiếu xuống, dù có phần miễn cưỡng, sau khi dụi dụi vào mắt cá chân ông. Ở trong bếp, mẹ sẽ nhóm lò bằng những cục than đen bóng, đặt một bình trà đầy, cắt bánh mì, và để mắt luôn luôn đến cái bếp.

Đến tầm giờ này, khi chảo sôi xèo xèo và phun phì phì, mùi trứng tráng thơm lừng bắt đầu chu du lên gác và tràn ra ngoài hiên. Vị đặc phái viên ngon lành ấy sẽ mang thông điệp không lời đến tận tai Maneck và bố. Sau đó, Maneck sẽ tạm biệt cảnh mây mù múa lượn, nhanh chân chạy xuống ăn sáng, cậu ôm bố mẹ, thì thầm lời chào buổi sáng vào tai từng người trước khi ngồi vào ghế của mình. Bố cậu có riêng một cái tách đặc biệt rất to, ông hớp từng ngụm trà lớn từ đó trong khi vẫn đứng. Khi uống tách trà đầu tiên, ông luôn đứng, rồi đi vòng quanh bếp, phóng tầm mắt ra cửa sổ ngắm cảnh thung lũng buổi tinh mơ. Những bận Maneck bị cảm lạnh hoặc đang vào đợt thi cử, cậu sẽ được phép uống bằng tách của bố, chiếc tách có lòng rộng đến độ Maneck nghĩ mình không bao giờ uống hết, không bao giờ húp cạn đến tận đáy tách, nhưng cậu vẫn cố uống, để xem liệu mình có thể chiến thắng và làm lộ ra hình ngôi sao vẽ dưới đáy cốc, khiến nó đổi màu dần dần qua những lớp chất lỏng cuối cùng, thoắt ẩn thoắt hiện khi cậu xoay nghiêng tách…

Vừa vẩy sạch nước trên cánh tay ướt đẫm, Maneck vừa mắm môi mắm lợi khóa chiếc vòi nước đang nhỏ tong tỏng – gioăng kém quá – và ngẩn ngơ nhìn những xoáy hơi cuộn tròn trên xô nước nóng. Trí tưởng tượng ngập trong nỗi nhớ thương quê nhà như vẽ ra trước mắt cậu những ngọn đồi bồng bềnh trôi trong sương mù, đi qua vùng mưa giông sang tới nơi quang đãng. Cậu thở dài, đứng trên bậc gờ cao khuôn lấy khu tắm rửa, và treo quần áo lên đầu đinh còn trống bên cạnh chiếc khăn bông. Mũi đinh thứ ba bị chiếm cứ bởi một chiếc áo lót, với thứ gì đó bên dưới – được đan bằng loại sợi thô, chắc, giống như một cái bao tay không có ngón cái. Tò mò, cậu bèn kéo nó ra xem. Ra là một cái găng để kì cọ, cậu kết luận, và bước xuống khỏi bậc, đoạn cậu lấy chiếc ca múc nước trong xô dội lên người.

Rồi cậu nhìn thấy lũ giun. Phylum Annelida, cậu nhớ đã học về chúng trong giờ sinh vật. Từ ống cống, chúng bò ra, cả một đội quân hùng hậu, con nào con nấy loe ngoe, thân đỏ sậm, sáng óng ánh trên nền đá xám, lừ lừ lướt tới như thôi miên. Maneck đờ dại trong một giây, rồi lập tức nhảy lùi lại lên chỗ an toàn trên gờ gạch.

Nhiều tuần trước, khi Dina hay tin người khách trọ Zenobia tìm thấy là con trai của một cô bạn học cùng trường, trí nhớ của cô không tài nào vượt qua ngần ấy năm ròng để lôi ra khuôn mặt được nhắc đến.

“Cô ấy có một nốt ruồi dưới cằm ấy,” Zenobia nhắc, “còn mũi hơi khoằm một chút. Mặc dù tớ thấy nhờ thế mà nom cô ấy đâm dễ thương.”

Dina lắc đầu, vẫn không nhớ ra.

“Cậu có tấm ảnh chụp cả lớp vào… xem nào,” Zenobia bấm đốt ngón tay. “1946, ’47, ’48, ’49… đúng rồi, 1949.” “Nusswan có cho tớ tiền mua ảnh đâu. Cậu quên ông anh tớ cư xử thế nào sau khi bố mất rồi à?”

“Có, nhớ chứ. Tên khốn. Toàn bắt cậu mặc mấy bộ đồng phục dài lượt thượt đến lố bịch, rồi đi đôi giày vừa xấu vừa nặng nữa chứ. Khổ thân cậu. Bây giờ nghĩ lại tớ vẫn còn sôi tiết đây.”

“Cũng tại anh ta mà tớ mất liên lạc với tất cả mọi người. Trừ cậu.”

“Ừ, tớ biết. Hắn chẳng cho cậu tham gia dàn đồng ca, lớp kịch hay ba lê hay bất cứ hoạt động gì.”

Cả buổi tối hôm đó, họ chìm ngập trong niềm vui hồi tưởng, cười ngặt nghẽo trước đủ mọi hành động rồ dại và bi kịch của quá khứ. Trong tiếng cười của họ hiếm khi vướng nỗi buồn, bởi đó là những ký ức tuổi thơ. Họ nhớ lại những thầy cô giáo mình yêu quý, và Cô Lamb, cô hiệu trưởng, người bị gọi là Lambretta vì lúc nào cô cũng phóng vèo vèo dọc khắp các hành lang. Họ nhẩm tính mình bao nhiêu tuổi khi học lớp sáu, lúc bắt đầu học tiếng Pháp, và cô giáo dạy tiếng Pháp, người được họ gán cho biệt hiệu Mademoiselle Bouledogue[30], bắt đầu khủng bố cuộc sống của họ đều đặn ba lần một tuần. Ai cũng cho cái tên ấy là một minh chứng cho bản tính tai quái của bọn nữ sinh; kì thực, nó được tặng riêng cho cô giáo phần do khuôn xương hàm nặng nề, phần vì phương pháp tiếp cận hung hăng của cô đối với các động từ bất quy tắc và phép chia động từ.

Sau khi Zenobia ra về, Dina đong nửa cốc gạo, nhặt sạch sạn, và đun nước. Những giọt ánh sáng ban ngày cuối cùng đã được tận dụng hết, đã đến lúc phải bật đèn trong bếp lên. Qua ô cửa sổ mở rộng, cô nghe thấy tiếng một bà mẹ gọi con đang chơi ngoài đường về nhà. Rồi mùi hành phi tràn vào. Khắp nơi nơi, giờ nấu nướng đã điểm.

Trong lúc cơm đang sôi, cô nghĩ, cảm giác nhớ lại những ngày đi học thật sung sướng biết bao – dễ chịu hơn nhiều so với điều cô thường làm gần đây: nghiền ngẫm và mơ màng về Nusswan và Ruby; về ngôi nhà của bố; về hai đứa cháu, Xerxes và Zarir, nay đã là những chàng trai trưởng thành, một hai mươi hai và một mười chín tuổi, mà cô hiếm khi gặp mặt quá một lần mỗi năm.

Ăn tối xong, cô ngồi bên cửa sổ, ngắm người bán bóng bên kia đường dụ khị lũ trẻ đi ngang qua. Ở đâu đó có tiếng đài oang oang phát nhạc hiệu của chương trình “Lựa chọn của mọi người.” Tám giờ rồi, Dina tự nhủ, khi nghe thấy giọng của Vijay Correa giới thiệu bài hát đầu tiên. Cô ngồi may tấm chăn ghép trong khoảng một tiếng. Trước khi đi ngủ, cô xát xà phòng vào quần áo và để trong xô chờ đến sáng mai giặt.

Tối hôm sau, trên đường từ Thẩm mĩ viện Venus về nhà, Zenobia lại ghé qua và lấy từ trong túi ra một chiếc phong bì lớn. “Cậu mở ra đi,” cô nói.

“Ô, là ảnh chụp cả lớp,” Dina reo lên hoan hỉ.

“Xem bọn mình này,” Zenobia chậc chậc vẻ thèm tiếc. “Hồi ấy bọn mình chắc mới tầm mười lăm.” Cô chỉ một cô bé đứng ở hàng thứ hai.

“Ừ, giờ tớ nhớ ra rồi. Aban Sodawalla. Mặc dù xem tấm ảnh này thì không nhìn ra được nốt ruồi của cô ấy.”

“Hồi đấy bọn con gái trêu chọc cô ấy đến khổ. Có đứa còn đặt cả một bài thơ rõ nghịch, cậu nhớ không? ‘Aban Sodawalla trông chả xinh, rửa mặt bằng sô đa mới đỡ kinh’.”

“Dưới cằm có nốt ruồi to bự, lấy kim mà chọc cho đã nư!” Dina đọc nốt. “Hồi đó bọn mình ngốc thật, nghĩ ra mấy bài vè dớ dẩn thế không biết.”

“Ừ. Rồi đến lúc mười sáu tuổi, cả lũ bù xù bọn mình đều cố làm sao cho có nốt ruồi giống cô ấy. Đứa nào cũng chấm lên mặt một cái, lố không chịu được!”

Dina lại ngắm bức ảnh một lúc. “Tớ nhớ cô ấy rõ nhất là vào hồi lớp bốn. Chừng tám, chín tuổi gì đó. Hồi ấy ba đứa bọn mình dính nhau như sam. Cô ấy là đứa nhảy dây rất giỏi, đúng không?”

“Đúng, chính xác.” Zenobia mừng rỡ vì rốt cuộc một mối liên hệ vững chắc đã được thiết lập. “Kinh khủng, mà chữ ‘kinh khủng’ viết hoa kia, các thầy cô toàn gọi bọn mình thế, nhớ không?”

Họ tiếp tục lần theo vệt kí ức ở điểm cả hai vừa bỏ lại hôm qua: những trò chơi họ đã chơi trong những giờ nghỉ dài và nghỉ ngắn, và thú vui tết tóc cho nhau, so dây buộc tóc, trao đổi kẹp tóc. Và khi ngực bắt đầu nhú, cô nào cũng cố rùn vai để làm cái khối cong vồng đáng thẹn thùng ấy bớt nhô cao, hoặc mặc áo len để giấu biến chúng đi, thậm chí giữa những hôm nóng như đổ lửa, rồi thì thụt về kì kinh đầu tiên của mình, bẽn lẽn bước đi trong những ngày đầu tập làm quen với băng vệ sinh. Và sau đó là trêu ghẹo nhau về những cậu bạn trai, những nụ hôn tưởng tượng, mơ mộng về những buổi dạo chơi giữa khu vườn lãng mạn.

Trên tất cả, Dina và Zenobia không khỏi kinh ngạc, bởi tại sao trong suốt những năm tháng ngây thơ khủng khiếp ấy, các cô bé có thể biết rõ từng chân tơ kẽ tóc trong cuộc đời nhau như thế. “Rồi bố cậu mất,” Zenobia nói. “Và lão anh trai không cho cậu đánh bạn với ai nữa. Nhưng cậu biết không, cậu cũng không bỏ lỡ nhiều chuyện lắm đâu – sau năm cuối cấp, hầu hết bọn mình đều mất liên lạc với các bạn.”

Học xong phổ thông, một số bạn bè của họ phải đi làm vì gia đình nghèo; số khác vào đại học, và có nhiều người không được phép học lên nữa, vì đại học có thể ảnh hưởng xấu đến cuộc đời của những cô gái sắp phải làm vợ, làm mẹ – họ bị giữ ở nhà để phụ việc bếp núc. Nếu trong nhà không có đứa em gái nào để thừa kế chỗ áo sơ mi và váy yếm đồng phục, chúng sẽ bị cắt thành giẻ lau bếp hoặc miếng lót tay để bắc xoong chảo nóng. Rồi những cô gái từng một thời là bạn học đâm trở nên nhạt nhẽo, thậm chí giữ kẽ với nhau, mỗi khi tình cờ chạm mặt. Dường như ai nấy đều hổ thẹn về những việc mình đang làm hàng ngày, như thể họ đã thông đồng nhau trong một cuộc phản bội tập thể với thời thơ ấu và tuổi trẻ của mình vậy.

“Cậu là đứa bạn duy nhất mình còn qua lại – cậu và Aban Sodawalla, dĩ nhiên,” Zenobia.

Đoạn cô kể nốt phần còn lại câu chuyện đời của cô bạn học: ít lâu sau kì thi đại học, Aban được các bạn bè của gia đình giới thiệu cho một anh Farokh Kohlah nào đấy nhân dịp anh ta xuống chơi thành phố, anh này có hẳn một sản nghiệp kinh doanh trên miền bắc, cách đây rất xa, ở một thị trấn miền núi. Gia đình Sodawalla ưng ý anh này ngay từ cái nhìn đầu tiên. Phong thái của chàng Parsi trẻ tuổi mới đứng đắn đĩnh đạc làm sao, ông Sodawalla nắc nỏm, vóc người thật rắn rỏi, hẳn là nhờ cuộc sống lành mạnh nơi miền núi. Bà Sodawalla lại bị ấn tượng nhất bởi làn da sáng của anh ta. Không trắng ởn như ma kiểu người Âu, bà bảo các bạn bè, mà vừa vặn và khỏe khoắn.

Cho đây là một mối tiềm năng, gia đình Sodawalla bèn khôn khéo tổ chức một kì nghỉ ở thị trấn nói trên ngay trong năm tiếp theo. Và, vừa hay, chiến lược đó đã mang lại kết quả mong muốn. Aban đem lòng yêu Farokh Kohlah và vẻ đẹp thiên nhiên của vùng đất. Rồi cô kết hôn và sống luôn ở đó.

“Cô ấy vẫn viết thư cho tớ mỗi năm một lần, không khi nào sai hẹn,” Zenobia nói. “Thế nên tớ mới biết cô ấy đang tìm phòng trọ cho con trai.”

“Thật may cho tớ quá,” Dina nói. “Cảm ơn cậu đã giúp tớ.”

“Có gì đâu. Nhưng có trời mới biết làm sao Aban sống nổi ngần ấy năm trời trên cái thị trấn miền núi bé tin hin ấy. Nhất là sau khi được sinh ra và lớn lên ở thành phố đáng yêu của chúng ta. Thành thực mà nói, phải tớ, chắc tớ phát điên mất.”

“Nếu có cả cửa hiệu riêng, thì chắc họ phải giàu lắm,” Dina nói.

Zenobia không tin lắm. “Giữa thời nay mà chỉ có một cửa hiệu bé tí giữa vùng đồi núi, phỏng giàu đến đâu?”

Ấy vậy mà gia đình Maneck quả đã có thời cực kì giàu có. Những cánh đồng lúa bạt ngàn, những khu vườn táo và đào, một hợp đồng cung ứng lương thực dự trữ béo bở cho các điểm đóng quân dọc đường biên giới – tất thảy đều nằm trong số những món thừa kế Farokh Kohlah được hưởng, và anh săn sóc nó rất khéo, khiến nó sinh sôi nảy nở thêm nhiều lần, để chờ sẵn cô vợ sắp cưới và đứa con trai sẽ chào đời sau đó.

Nhưng từ rất lâu trước cái ngày lâm bồn được mong mỏi ấy, đã xảy ra một cuộc sinh nở khác, đẫm máu hơn nhiều, khi hai quốc gia thoát thai từ một đất nước duy nhất. Một người ngoại quốc đã vạch một đường ma thuật trên bản đồ và gọi nó là biên giới mới; nó lập tức biến thành một dòng sông máu trên mặt đất. Và những vườn quả, đồng ruộng, nhà máy, công việc kinh doanh, tất thảy đều nằm ở phía bên kia đường kẻ, biến mất chỉ với một cái vẩy đũa của vị pháp sư có làn da nhợt nhạt.

Mười năm sau, khi Maneck ra đời, Farokh Kohlah, bị sập cái bẫy lịch sử, vẫn chăm chỉ lặn lội tìm đến các tòa án trên thủ đô, đau đầu rối mắt trước mớ bòng bong kế hoạch đền bù của chính phủ, trong khi giấy tờ liên tục được trao đi đổi lại và các nhà ngoại giao đi về như con thoi giữa hai quốc gia. Giữa những chuyến đi, anh vẫn giúp vợ trông nom cửa hàng bách hóa tổng hợp kiểu cũ trên thị trấn. Cửa hàng này là tất cả những gì còn lại từ sản nghiệp khổng lồ của anh, đã thoát khỏi những biến cố về bản đồ nhờ nằm lọt ở bên này đường kẻ ma thuật.

Trong suốt nhiều năm trời, cửa hàng chỉ hoạt động cầm chừng, nó được xem như một thú vui hoặc một loại câu lạc bộ xã hội hơn là một nơi buôn bán. Nguồn thu nhập thực tế đến từ những nguồn khác, những nguồn đã mất. Giờ nó cần được chăm chút tử tế, bởi tầm quan trọng của mình.

Hóa ra Aban Kohlah lại là một nhà quản lý trời sinh trong Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp nọ. “Mấy việc này em xử dễ không ấy mà,” chị bảo chồng. “Anh còn nhiều việc quan trọng hơn phải lo.”

Một chiếc cũi được kê ngay sau quầy bán hàng để chị không phải rời con phút nào. Chị đặt hàng, làm sổ sách, bày hàng lên giá, phục vụ khách khứa, và, trong những lúc rảnh rỗi, chị ra sau cửa hàng, say sưa thưởng ngoạn khung cảnh hùng vĩ của thung lũng. Cuộc sống ở vùng đồi núi hoàn toàn phù hợp với chị.

Ban đầu Farokh Kohlah chỉ lo vợ sẽ nhớ thành phố và họ hàng thân thích. Anh sợ rằng một khi cảm giác háo hức trước một vùng đất mới lạ đã phai nhạt, những lời than thở sẽ nổi dậy. Hóa ra anh chỉ lo lắng vô ích; tình yêu của chị dành cho miền đất này chỉ càng lớn thêm mãi theo thời gian.

Cái cũi chẳng mấy đã bị thất sủng, còn Maneck bò lổm ngổm khắp mặt quầy, rồi đi chập chững giữa các giá bày hàng. Tinh thần cảnh giác của chị Kohlah nay được đẩy tới cùng cực. Chị chỉ sợ thằng bé sẽ làm các thứ hàng hóa rơi xuống đầu nó. Nhưng những lúc chị phải quay lưng lại với con, đã có khách mua hàng nhận phần trông nom, họ nghĩ ra mấy trò an toàn cho nó làm, chơi với nó, mua vui cho nó bằng những đồng tiền xu hoặc móc đeo chìa khóa, hay những mảng màu sặc sỡ trên tấm khăn choàng và khăn quàng cổ đan tay. “Ê ê, chó con! Tinh tinh! Chó con, gư gư!”

Đến lúc lên năm, Maneck đã hãnh diện được phụ việc cho bố mẹ trong cửa hàng. Cậu đứng sau quầy bán hàng, chỏm tóc đen mấp mé mặt quầy, chờ nghe yêu cầu của khách. “Con biết ở đâu rồi! Để con đi lấy cho!” Cậu hét tướng, và lật đật chạy đi lấy món hàng trong ánh mắt âu yếm của chị Kohlah và khách khứa.

Sau khi bắt đầu đi học vào năm tiếp đó, cậu vẫn tiếp tục giúp bố mẹ vào buổi tối. Cậu tự nghĩ ra chế độ đãi ngộ riêng cho các khách hàng quen, cậu lấy sẵn các thức mua hàng ngày của họ – ba quả trứng, một ổ bánh mì, một gói bơ nhỏ, bánh quy – đặt trước trên quầy, sẵn sàng đợi họ đến lấy vào giờ đã định.

“Ôi con trai tôi,” anh Kohlah thốt lên, giọng đầy tự hào. “Mới sáu tuổi đầu mà đã lắm sáng kiến, có óc tổ chức thế cơ.” Anh nhấm nháp niềm sung sướng được nhìn Maneck chào hỏi khách và chuyện trò với họ, kể về đàn khỉ hung hãn nó đã trông thấy khi ngồi trên xe buýt đến trường sáng hôm đó, hay tham gia vào cuộc bàn luận về một thác nước bị cạn. Được sinh ra và lớn lên ở đây, bản tính dễ gần của dân tỉnh lẻ hình thành một cách tự nhiên ở Maneck, và bố cậu lấy làm hoan hỉ lắm khi thấy con hòa đồng với mọi người dễ dàng đến thế.

Nhiều lúc, khi chiều buông, giữa cảnh ồn ã náo nhiệt của cửa hàng, được vây quanh bởi vợ con và khách hàng, những người cũng là bạn bè và hàng xóm của mình, anh Kohlah hầu như quên hết những mất mát mình đã phải chịu. Ừ, lúc ấy anh thầm nghĩ, phải, cuộc sống vẫn tốt kia mà.

Nhà Kohlah bán báo, mấy loại trà, đường, bánh mì và bơ; cả nến và rau củ muối, đèn pin và bóng đèn, bánh quy và chăn mền, chổi và sô-cô-la, khăn quàng và ô; rồi lại có cả đồ chơi, gậy chống, xà phòng, dây, và nhiều thứ khác.

Chủng loại hàng hóa không thật phong phú – chỉ có những mặt hàng thực phẩm cơ bản, một số món nhu yếu phẩm gia đình, và một ít đồ xa xỉ phẩm.

Cách thức buôn bán gần gũi thoải mái của cửa hàng đã biến nó thành điểm đến ưa thích của cả dân cư trong thị trấn lẫn dân ở các khu vực lân cận. Giả thử có khách nào không đủ tiền mua cả một gói bánh quy chẳng hạn, chị Kohlah sẽ chẳng ngần ngại xé luôn vỏ mà bán cho khách nửa gói; chị tin rằng thế nào cũng có người đến mua nốt nửa còn lại. Nếu một món hàng nào đó đã hết; anh Kohlah sẽ vui vẻ đặt ngay, chỉ cần khách không quá quan trọng về ngày nhận hàng. Mà kể cả nếu yêu cầu về ngày giờ có gắt đi chăng nữa, thì cũng chả làm gì hơn được vì chuyện vận chuyển còn tùy thuộc vào đường sá, còn đường sá tùy thuộc vào thời tiết, mà ai chả biết thời tiết tùy thuộc vào ông Trời. Báo buổi sáng thường đến nơi vào đầu giờ tối, khi ấy các vị khách quen tụ họp trên thềm nhà để hút thuốc hoặc nhâm nhi tách trà và vừa xem vừa bàn bạc về các tin tức, rồi đọc to các tít báo cho anh Kohlah cùng được nghe nếu anh đang mải lúi húi làm gì đó bên trong cửa hàng.

Tuy bán lắm thứ hàng hóa là thế, nhưng kì thực, xương sống của cửa hàng là một công thức nước giải khát bí mật đã được lưu truyền trong gia đình Kohlah qua bốn thế hệ. Dưới tầng hầm có một gian xưởng nhỏ, tại đây, món nước giải khát nói trên được pha chế, sục ga, và đóng chai. Một người thợ phụ lo súc rửa và chuẩn bị chai không, rồi đóng chai vào các thùng để chuyển đi. Để giữ bí mật công thức, anh Kohlah đích thân đảm trách mọi công đoạn pha chế và gia công; miếng bịt mắt của anh có thể xác thực điều đó: nó giúp che kín vết thương sâu hoắm tạo thành do một cái chai lỗi phát nổ do áp lực khí các-bon-níc.

Khi ấy, anh áp một cái khăn mù soa che đám bầy nhầy trên mặt rồi chạy lên gác tìm vợ. Lúc ấy họ mới cưới nhau được chưa đầy một năm, và đây là sự cố đầu tiên của hai vợ chồng. Chị sẽ khóc lóc vật vã, hay ngất xỉu, hay vẫn bình tĩnh? Anh lo cho con mắt của mình, nhưng cũng tò mò về phản ứng của vợ không kém.

Đang chửa đến tháng thứ bảy, Aban Kohlah tỏ ra khá gan dạ. “Farokh, anh có muốn làm một tí brandy trước không?” Anh đáp có. Chị cũng tợp một ngụm nhỏ, rồi lái xe đưa anh xuống bệnh viện dưới thung lũng. Các bác sĩ bảo anh may lắm mới giữ được mạng – cặp kính anh đeo đã triệt tiêu bớt sức mạnh của viên đạn thủy tinh, ngăn nó không găm sâu vào não anh. Nhưng con mắt của anh thì không cách gì cứu nổi nữa.

Anh Kohlah bảo thế cũng chẳng sao. “Một mắt là đủ để nhìn thứ tôi đang mong được thấy rồi,” anh mỉm cười, đoạn đặt tay lên cái bụng lùm lùm của vợ. Vả lại, anh tiếp lời, từ nay trở đi, những thứ xấu xí của thế giới cũng chỉ làm anh khó chịu bằng một nửa trước kia mà thôi.

Khi hốc mắt đã lành, anh không chịu lắp nhãn cầu thủy tinh. Miếng bịt mắt trở thành một phần trong trang phục thường nhật của anh. Anh đeo nó khi làm việc trong cửa hàng, để đến các cuộc họp mặt, hội hè. Tuy nhiên, trong những cuộc bách bộ dài trong khu rừng bên sườn đồi buổi chiều tà, miếng bịt mắt lại được yên vị trong túi, còn anh vừa trầm trồ không biết đến lần thứ bao nhiêu vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa nhai rau ráu một củ cà rốt.

Biến cố mất một con mắt đã cho phép anh dung túng sở thích chén cà rốt của mình. Ý thích này vốn bị chị Kohlah kiềm chế tới nơi tới chốn, chị bảo cà rốt thì tốt thật, nhưng nghiện món gì quá cũng là không nên. Nhưng giờ chị đành phải để mặc tình yêu của anh được thể phát huy tối đa: nước ép cà rốt, xa lát cà rốt, cà rốt hầm thịt, cà rốt bỏ sẵn trong túi làm bạn đi đường với anh.

“Anh cần cà rốt,” anh Kohlah quả quyết. “Con mắt còn lại của anh phải thật khỏe mạnh, nó phải làm việc nặng gấp đôi kia mà.”

Thằng con trai của anh chị, mỗi lúc một lớn như thổi, sớm nhận ra niềm đam mê của bố. Mỗi khi bị mắng vì nghịch ngợm, nó lại lẻn xuống bếp lấy trộm một củ cà rốt và mang đến biếu bố làm quà dàn hòa, dù có thể sẽ phải nhận một trận quở quang thứ nhì từ mẹ nó.

Sau tai nạn kia, anh Kohlah càng cẩn trọng hơn khi làm việc dưới hầm. Anh cấm tiệt mọi người không được lai vãng gần khu vực này khi những cỗ máy cũ kĩ mệt mỏi kêu lạch xạch và phun phì phì, rót đầy chai tiếng xèo xèo của món Cola nhà Kohlah và lấp đầy ngăn kéo tiếng leng keng của những đồng tiền mà cả nhà rất cần.

Lo cho sự an nguy của anh, các bạn bè của anh tỏ niềm quan tâm bằng những câu đùa bỡn. “Cẩn thận nhé, Farokh, chui xuống lòng đất là nguy hiểm lắm đấy. Khai thác Cola cũng rủi ro chẳng kém gì khai thác than đâu.” Nhưng anh chỉ cười xòa và lờ tịt những lời bóng gió nọ.

Vứt quách tế nhị, họ bèn gợi ý anh nên nghiêm túc xem xét việc thay thế các máy móc cổ lỗ đi, và tính chuyện hiện đại hóa và mở rộng quy mô sản xuất. “Này, Farokh, anh nên suy nghĩ tỉnh táo một tí,” họ hối thúc. “Chất lượng của Kohlah Cola thật miễn chê, lẽ ra nó phải được cả nước biết mặt, chứ không nên chỉ quanh quẩn ở cái xó nhỏ hẹp của bọn ta.”

Song hiện đại hóa và mở rộng sản xuất là những tư tưởng quá đỗi xa lạ, khó hiểu đối với một người thậm chí còn từ chối cả việc quảng cáo. Kohlah Cola (hay còn được gọi là Kaycee) vốn nức tiếng trên khắp các làng bản thị trấn nằm rải rác trên sườn đồi trong bán kính mấy dặm. Tiếng tăm truyền miệng đã đủ dùng với cha ông của anh, anh bảo, thì cũng đủ với anh như thường.

Thỉnh thoảng cũng có những đối thủ trống giong cờ mở kéo đến, chào mời những loại nước giải khát khác, nhưng chẳng bao lâu sau đã phải bán xới mà đi vì không cạnh tranh nổi với sản phẩm của gia đình Kohlah. Không gì có thể sánh được với Kaycee, các khách hàng trung thành khẳng định – hương vị thơm ngon của nó cũng độc đáo hệt như không khí vùng núi cao vậy. Món nước giải khát và cửa hàng bách hóa tổng hợp ngày một phồn thịnh hơn.

Và cứ như vậy, đến khi Maneck bắt đầu đi học, công việc kinh doanh đã đi vào ổn định. Anh Kohlah bảo vệ công thức giúp mang lại nguồn sống cho cả nhà hết sức cẩn thận, chờ đến ngày anh có thể đem truyền lại cho Maneck, như khi xưa bố anh đã truyền lại cho anh. Cảm giác viên mãn bao bọc cuộc đời anh, một niềm kiêu hãnh ngấm ngầm vì đã sống sót qua cuộc thử lửa. Nó chỉ phát lộ trong những cuộc tụ họp hàng xóm láng giềng tối tối, khi cuộc chuyện trò từ từ chuyển về những ngày đã xa, về chuyện đời mỗi người; và khi đến lượt mình, anh Kohlah lại kể về những ngày vinh hiển của gia đình, không phải do thương thân hay ra vẻ, cũng chẳng phải để ca tụng những thành tựu của riêng mình trong hiện tại, chỉ là một bài học về đời người sống nơi biên ải – những tấm bản đồ hiện đại có thể tàn hại bản thân anh, nhưng chúng không thể phá vỡ giấc mơ anh dành cho gia đình mình.

Dĩ nhiên, ai cũng đã nghe những câu chuyện đó, nhiều lần là đằng khác; dẫu vậy, vẫn luôn có dịp để kể thêm lần nữa. Và anh Kohlah cũng không phải người duy nhất mắc tội “nhai lại”.

Đa phần bạn bè của hai vợ chồng Kohlah là quân nhân và vợ của họ, những con người vốn đã quen với cả một đời sống theo nếp nhà binh kiểu Anh, đã chọn cách dưỡng già nơi đồi núi, vì không tài nào ưng nổi một cuộc quy hương hồi cố về nơi đồng bằng bụi bặm và chốn thành thị hôi hám. Họ cũng có những câu chuyện hằng kể để nói, về những ngày xa xưa, khi kỉ cương là kỉ cương, chứ không phải một thứ phiên bản pha loãng không xứng với danh xưng ấy. Khi các nhà lãnh đạo có thể lãnh đạo, khi tất cả mọi người đều biết rõ vị trí của mình trong trật tự tạo vật, và cuộc sống diễn ra một cách quy củ nề nếp, chứ đâu có bị đe dọa từng ngày từng giờ bởi cảnh loạn li.

Khi đến dùng trà ở nhà Kohlah, các vị thiếu tướng, thiếu tá, và đại tá về hưu đều đóng bộ quân phục cùng giày bốt, như cách gọi của họ, với đồng hồ quả quýt bỏ túi và cà vạt trên cổ. Những món y phục lằng nhằng rắc rối này có vẻ lố bịch trước con mắt thiên về khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, nhưng nó lại mang giá trị như một món bùa phép đối với người mặc. Đó là tất cả những gì còn chắn giữa họ và sự vô tổ chức đang gõ thình thịch lên cửa. Chính anh Kohlah cũng rất mê nơ bướm. Chị Kohlah mời trà trong tách sứ xương hiệu Aynsley; còn thìa nĩa là của Sheffield. Nếu là bữa tối đặc biệt nhân dịp lễ Navroze hoặc Khordad Sal, chị sẽ dùng bộ bát đĩa Wedgwood.

“Họa tiết thật đáng yêu,” bà Grewal xuýt xoa. “Bao giờ dân nước này mới học được cách làm những món đồ đẹp như thế?”

Ngài thiếu tướng và bà Grewal là những người hàng xóm thân thiết nhất của vợ chồng Kohlah, và thường ghé chơi nhà họ khá thường xuyên. Bà Grewal cũng là vị thủ lĩnh không đối thủ trong đám vợ tướng tá. Nghe ám lệnh bà phát ra, một người gõ nhẹ chiếc ly thủy tinh để thử độ tinh khiết của nốt nhạc mà nó tạo ra; một người khác lại lật ngược chiếc đĩa để âu yếm ngắm nhìn mấy chữ lồng tên nhà sản xuất. Những lời ca tụng được rót xuống với phân lượng ngang nhau, phần dành cho các loại đồ ăn thức uống, phần dành cho những bát cùng đĩa chứa chúng. Trật tự hỗn loạn lại bị chặn đứng thành công thêm một ngày nữa.

Sau đó, cuộc trò chuyện chuyển hướng sang, như vô số lần trước đó, cơn ác mộng sẽ còn ám ảnh họ đến những ngày cuối đời – họ mổ xẻ Chiến dịch li khai, dẫn lại niên đại của từng sự kiện, và xót xa trước cuộc chém giết vô nghĩa lý. Thiếu tướng Grewal tự hỏi không hiểu các miền phân ly còn mong ngày hợp lại làm một chăng. Anh Kohlah mân mê miếng bịt mắt và nói mọi sự đều có thể xảy ra. Niềm an ủi, như mọi khi, được tìm thấy trong những cuộc chỉ trích rối beng nhắm vào các nhà khai phá thuộc địa, trong lúc không còn bụng dạ nào để dàn xếp mọi sự cho thỏa đáng, đã vội vã bỏ đi, mặc dù những kẻ ở lại lại được xoa dịu bởi nỗi hoài nhớ dành cho những ngày quá vãng.

Sau những buổi tối như thế, anh Kohlah luôn băn khoăn tại sao cảm giác viên mãn của anh lại như xao động – không phải bị xói mòn đi, mà như có ai đó hoặc cái gì đó đang cố xới xáo nó lên. Anh rất thích các bữa tối cùng tiệc trà đó, và sẽ không bỏ lỡ chúng vì bất cứ lý do gì; thế nhưng, anh vẫn thấy phảng phất đâu đây chút bất an, giống như một thứ mùi không nên có mặt, của thứ gì đó thối rữa.

Mất khoảng một, hai ngày sau đó, trạng thái cân bằng mới trở lại với anh. Và anh lại bắt đầu cảm thấy rằng phải, quyết định không rời bỏ ngôi nhà trên miền đồi núi là đúng đắn, đây vẫn là chỗ tốt cho gia đình anh. “Không khí và nước thật trong lành, những ngọn núi thật đẹp, và công việc kinh doanh đang rất suôn sẻ,” anh và chị Kohlah viết cho những người họ hàng vẫn định kì hối thúc họ ra đi. “Không còn nơi nào hứa hẹn triển vọng tốt đẹp hơn cho tương lai Maneck.”

Nếu được hỏi ý kiến, chắc Maneck cũng hoàn toàn đồng tình; và đừng nói đến tương lai, hiện tại cũng đã là một lý do quá đủ đối với cậu, với vũ trụ tuổi thơ hạnh phúc của cậu. Mỗi ngày của cậu đều ngập tràn niềm vui, sáng và chiều đi học, rồi về phụ ở Cửa hàng, nối tiếp bằng một cuộc dạo chơi với bố vào lúc tối muộn, khi ấy, cậu sẽ sải những bước dài đầy nam tính để bắt kịp bố, kẻo bố sẽ trêu cậu là trâu chậm uống nước đục.

Song Chủ Nhật là ngày tuyệt vời nhất. Vào Chủ Nhật, một người làm vườn tên là Bhanu sẽ đến dọn dẹp khu vườn sau nhà. Maneck ngóng chờ suốt cả tuần để được ra ngoài với Bhanu, lang thang quanh vườn và làm đủ thứ việc lặt vặt mà anh ta sai. Khu đất trải dài hơn năm mươi bộ quanh nhà; ở chỗ ngọn đồi bắt đầu dốc xuống, một chốn hoang dại với đủ loại cây bụi, cây gỗ và lớp cây con rậm rịt, là nơi thú vị nhất. Ở đó, Bhanu dạy cậu tên của các loại kì hoa dị thảo, những loài cây không mọc gần mặt tiền ngôi nhà, vốn là lãnh địa của hoa hồng, hoa huệ cùng cúc vạn thọ. Anh ta còn chỉ cho cậu xem cây cà độc dược có thể gây chết người và loại cây giải độc cho nó, và những loại lá có thể giúp giảm nhẹ độc tính của một số loại rắn, rồi một số lá khác có thể chữa các chứng đau bụng, và những thứ thân cây có lõi giúp chữa lành các vết thương hở. Anh ta hướng dẫn Maneck cách bóp một bông mõm sói để hoa mở nụ. Đến cuối năm, khi trời trở rét, lúc ngày ngả về chiều, họ gom hết củi cành thừa vãi và đốt một đống lửa nhỏ.

Thỉnh thoảng Bhanu dắt theo cả con gái anh, Suraiya, cũng bằng tuổi Maneck. Những hôm ấy, Maneck sẽ chia thời gian ra để vừa làm vừa chơi. Đến trưa, chị Kohlah gọi hai đứa vào ăn trưa. Suraiya ngượng, không quen ăn trên bàn, trong nhà nó chẳng có cái ghế nào cả. Mất vài buổi nó mới chịu chạy vào với Maneck và hăm hở ngồi vào chỗ dành cho mình. Bhanu vẫn ăn cơm riêng ở bên ngoài nhà.

Một buổi chiều nọ, Suraiya ngồi xổm trên con dốc xa giữa những bụi cây. Maneck đứng chờ ở một chỗ khuất tầm mắt, rồi tò mò bám theo bạn. Thấy cậu lại gần, con bé cười toe. Cậu nghe thấy có tiếng xè xè khe khẽ, bèn cúi xuống nhòm. Dòng nước bé tí của con bé đã tạo thành một vũng nước sủi bọt.

Cậu cởi khuy quần ngay bên cạnh bạn và bắn ra một vòng cung nước. “Tớ biết tè đứng đây này,” cậu nói.

Miệng cười khanh khách, con bé đái nốt rồi kéo quần lên. “Anh tớ cũng làm được như thế, anh ý có cái chim bé tí giống hệt cậu.”

Từ đó, chuyện đi giải cùng nhau trở thành một nghi thức mỗi khi Suraiya đến làm cùng bố. Dần dần, bản tính hiếu kì lôi kéo hai đứa tới những cuộc khám phá cơ thể thân mật hơn.

“Có chuyện gì vậy?” Chị Kohlah hỏi khi hai đứa dắt nhau vào nhà để uống trà. “Sao hai đứa lúc nào cũng rúc rích thế?”

Mấy ngày Chủ Nhật sau đó, chị bắt đầu theo dõi hai đứa từ cửa sổ bếp, và thấy chúng liên tục kéo nhau xuống dưới con dốc, nơi mắt chị không thể bám theo. Chị ra rình chúng, nhưng cũng chẳng xong. Chúng nghe thấy tiếng bước chân chị trước cả khi chị kịp đến gần, và chạy biến đi, miệng cười như nắc nẻ.

Sau đó, chị đành giãi bày mối nghi ngờ của mình cho anh Kohlah. “Anh Farokh, em nghĩ anh nên trông chừng thằng Maneck. Những lúc con bé Suraiya ở đây.”

“Sao phải thế, nó đã làm gì?”

“Thì… bọn nó vào trong bụi cây và…” mặt chị đỏ bừng. “Em cũng chưa nhìn thấy gì cả, nhưng…”

“Thằng quỷ con,” anh Kohlah cười. Ngày Chủ Nhật tiếp theo đó, anh ra vườn, giám sát công việc của Bhanu và tuần tiễu khắp con dốc. Việc này trở thành một phần trong thời gian biểu của anh cho đến hết năm. Hai đứa trẻ phải giở đủ mọi trò ma mãnh hòng thoát khỏi ánh mắt tọc mạch của người lớn.

Khi Maneck học xong lớp bốn, anh Kohlah bắt đầu tìm hiểu khả năng gửi con đến một trường nội trú. Chất lượng giảng dạy ở ngôi trường ngoại trú trong vùng đã xuống dốc đáng kể, thiếu tướng Grewal và mọi người đều đồng tình. “Một nền giáo dục tốt là yếu tố quan trọng nhất,” họ nói.

Ngôi trường nội trú họ chọn cách nhà tám tiếng xe buýt. Maneck kinh sợ quyết định này. Ý nghĩ phải xa rời thị trấn miền núi – cũng là toàn bộ vũ trụ của cậu – đẩy cậu vào trạng thái hoảng loạn. “Con thích trường con ở đây,” cậu van vỉ. “Với lại, làm sao con phụ việc trong cửa hàng vào buổi tối được, nếu bố mẹ bắt con đi học xa?”

“Con mới mười một tuổi, lo chuyện công việc làm gì,” anh Kohlah cười ồ. “Con cứ tận hưởng thời niên thiếu trước đã. Được sống với các bạn bè cùng trang lứa sẽ vui lắm đấy. Thế nào con cũng thích trường mới. Mà cửa hàng vẫn còn đây những lúc con về nghỉ lễ kia mà.”

Maneck học cách chịu đựng trường nội trú, nhưng không yêu nó. Lòng cậu nhức nhối cảm giác bị phản bội. Chẳng có một ngày nào trôi qua mà cậu không nhớ ngôi nhà, nhớ bố mẹ, nhớ cửa hàng, nhớ những ngọn núi. Cậu cảm thấy các bạn học của mình khác hẳn những thằng bé cậu từng quen. Chúng cư xử như thể mình ở chiếu trên. Bọn con trai lớn toàn tán phét về lũ con gái, rồi sờ soạng mấy thằng con trai ít tuổi hơn. Có đứa còn cho cậu xem một bộ bài in hình những phụ nữ trần truồng. Mảng đen sì giữa háng họ khiến cậu thất kinh. Có lẽ nào lại thế, chắc chắn là ảnh giả, cậu nghĩ, nhớ lại cái cửa mình nhẵn nhụi, thơm tho của Suraiya.

“Đấy là lông, chỗ đấy nó phải thế,” một thằng lớn tuổi nói. “Đây là ảnh chụp thật đấy. Đây này, để tao cho mày xem.” Đoạn nó tụt quần ra và phô đám lông mu của nó, tiện thể giải phóng cái dương vật đã cương cứng khỏi vòng tù hãm.

“Nhưng anh là con trai mà, thế chả chứng minh được gì về bọn con gái cả,” Maneck nói. Cậu muốn xem kĩ hơn mấy lá bài. Thằng kia không cho, trừ phi cậu chịu làm một việc. Nó kéo sát Maneck lại, cọ miết vào người cậu bé và rên rỉ. Tiếng gì nghe lạ quá, Maneck nghĩ, cứ như nó đang rặn ỉa không bằng. Bộ bài được trao tay sau khi thằng kia đã phóng tinh xong.

Maneck về chơi nhà nhân dịp lễ pali, chờ qua hai ngày, rồi cố nài bố mẹ đừng bắt mình trở lại trường. Cậu nằn nì mãi, đến mức anh Kohlah phát cáu. “Bố cấm con không được nhắc đến chuyện đấy nữa,” anh nói.

Maneck bỏ đi ngủ mà không thèm chúc bố mẹ ngủ ngon. Cử chỉ vô lễ ấy giày vò cậu một lúc lâu, khoét thành một lỗ hổng mà giấc ngủ từ chối khỏa lấp. Đến lúc quá nửa đêm, cậu định bụng lên phòng bố mẹ và sửa chữa cái tội hỗn hào ngu ngốc vừa qua. Nhưng lòng tự ái, cộng với nỗi e sợ mình sẽ lại chọc giận bố lần nữa, đã giữ cậu lại trên giường.

Thức dậy lúc bình minh, cậu ôm lấy mẹ đang ở bên bếp, và khẽ chào mẹ buổi sáng, rồi bước thẳng qua mặt bố lúc ấy đứng bên cửa sổ và ngồi vào chỗ của mình. “Ông hoàng con vẫn còn dỗi kia à,” anh Kohlah vừa cười vừa nói.

Maneck cắm mặt xuống cốc nước của mình, cau mày nhìn nó. Cậu không muốn để miệng méo xệch đi, bèn cười lại.

Hôm ấy là Chủ Nhật, và Bhanu lại đến như thường lệ để chăm sóc khu vườn. Suraiya không đi cùng bố. Maneck đi cùng anh ta một lúc rồi mới dám hỏi về cô bé.

“Con bé ở nhà với mẹ,” Bhanu nói. “Từ rày trở đi, nó sẽ theo mẹ.”

Maneck thấy như một mảng khác trong vũ trụ của mình vỡ tan. Ăn trưa xong, cậu không trở ra vườn nữa. Chị Kohlah kéo con sang một bên và bảo đối xử không tốt với bố là chẳng ngoan tí nào, bố yêu cậu thế cơ mà. “Việc bố làm, gửi con đến một trường tốt, là vì muốn tốt cho con thôi. Con đừng nghĩ đấy là hình phạt.”

Đến tối, anh Kohlah gọi con ra ngồi cạnh mình trên ghế sô pha. “Con có phải học trường nội trú cả đời đâu,” anh nói. “Con nên nhớ, bố mẹ còn nhớ con hơn cả con nhớ bố mẹ kia. Nhưng biết làm sao được? Con đâu muốn biến thành kẻ ngu si dốt nát, không biết đọc biết viết, giống mấy người làm vườn nghèo khổ kia, sống cả đời lạnh lẽo đói rách, chỉ có vài con cừu con dê, lần hồi qua ngày. Nhớ lấy, trâu chậm uống nước đục. Chỉ cần con nhận được tấm Bằng Tốt nghiệp Trung học sau sáu năm nữa, sẽ chẳng ai bắt con phải xa nhà nữa. Cơ nghiệp này lúc ấy sẽ để cho con cai quản.”

Maneck cho phép mình mỉm cười, còn bố cậu tiếp: “Thật ra, được thế sớm ngày nào, bố mừng ngày ấy. Bố có thể nghỉ ngơi và đi dạo cả ngày.”

Vào giờ ăn sáng hôm sau, anh Kohlah đưa con cái tách lớn đặc biệt để uống trà. Rồi anh để con ngồi bên cạnh mình cho đến khi phải ra trả tiền thừa cho khách. Maneck giữ mãi ngày hôm ấy trong lòng cho đến hết năm học. Mỗi khi nỗi đau bị đày ải trỗi dậy, cậu lại gọi về những kí ức hạnh phúc để đối trọng lại tâm trạng tuyệt vọng, cùng những suy nghĩ đen tối của cảm giác cô đơn và bị bỏ rơi.

Chẳng thèm đếm xỉa đến nỗi khiếp sợ ban đầu của Maneck đối với quãng thiên thu kéo dài sáu năm, thời gian đều đặn tước đi ba năm trong số đó. Maneck lên mười bốn tuổi, và lại về nhà chơi nhân kì nghỉ tháng năm.

Năm đó, lần đầu tiên, bố mẹ để cậu ở nhà một mình hai ngày để đi ăn cưới. Thay vì khóa cửa nhà và gửi cậu sang một nhà hàng xóm, anh Kohlah quyết định cho cậu trông nom cửa hàng một mình, coi như một phần thưởng đặc biệt.

“Cứ làm mọi việc y như cách bố con ta làm khi bố ở đây,” anh nói. “Rồi sẽ đâu vào đấy hết thôi. Đừng quên đếm số thùng nước giải khát chú tài xế lấy đi nhé. Và nhớ gọi điện nhắc người ta giao sữa cho ngày mai – cực kì quan trọng đấy. Nếu có chuyện gì, cứ gọi Bác Grewal. Bố đã nhờ bác tối tối sang kiểm tra tình hình con rồi.” Anh và chị Kohlah dẫn Maneck đi vòng quanh cửa hàng một lần nữa, nhắc thứ nọ, chỉ thứ kia, rồi mới rời nhà.

Ngày hôm đó trôi qua như mọi ngày. Những đợt bận rộn nối tiếp từng khoảng thời gian nhàn nhã, nhân đó cậu lau chùi các tủ kính, phủi bụi trên giá, quét quáy mặt quầy. Các khách hàng quen hỏi chuyện bố mẹ cậu đi vắng, và hết lời khen ngợi cậu. “Xem anh chàng tổ chức doanh trại quy củ chưa kìa. Đáng thưởng huân chương!”

“Nếu thích, Farokh với Aban có thể về hưu ngay ngày mai cũng được,” Thiếu tướng Grewal nói. “Đã có Đại nguyên soái Maneck nắm quyền ở Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp thì còn phải lo gì nữa.” Nghe câu đó, những người có mặt đều cười nhiệt tình.

Tối muộn, ánh sáng ban ngày nhạt dần, bầu không khí tĩnh lặng từ từ bao trùm cả khu nhà. Maneck bật đèn ngoài hiên lên, cảm thấy vô cùng tự hào về một ngày làm việc của mình. Đã gần đến lúc đóng cửa hàng. Phần việc còn lại chỉ là lấy hết tiền trong ngăn kéo ra, đếm, và ghi sổ. Cậu đứng ngoài bậc thềm nhìn vào trong cửa hàng, và hơi ngừng lại. Cái tủ kính lớn ở chính giữa, chứa xà phòng và bột tan – nếu kê ở mặt tiền sẽ đẹp hơn. Còn chiếc bàn cũ chuyên để bày báo ngay gần cửa ra vào, sứt sẹo và lung lay – đẩy nó sang hẳn một góc chẳng phải sẽ tốt hơn sao?

Ý tưởng đó bám riết lấy Maneck và xâm chiếm trí óc cậu cả khi cậu hâm thức ăn. Càng nghĩ, cậu càng thấy cách bố trí mới là hợp lý. Cậu có thể tự kê lại, ngay tối nay. Thế nào bố mẹ cũng ngạc nhiên lắm khi về đến nơi.

Ăn tối xong, cậu quay ra gian cửa hàng tối om, bật đèn lên, và kéo chiếc bàn cũ ra xa khỏi lối ra vào. Cái tủ kính thì khó hơn, nó nặng, lại cồng kềnh. Cậu lấy hết hàng hóa đựng bên trong ra và từ từ đẩy nó đến vị trí mới, nổi bật hơn. Rồi cậu xếp lại những lon và hộp vào tủ, nhưng không theo kiểu chất đống buồn tẻ như cũ – cậu xếp thành những hình kim tự tháp, hình xoắn ốc nom đến vui mắt. Tuyệt, cậu tự nhủ, đoạn đứng lùi lại để chiêm ngưỡng công trình kì khu của mình, và đi ngủ.

Buổi tối hôm sau, anh Kohlah bước vào nhà và nhận ra sự đổi khác. Không hề dừng lại để chào Maneck hay hỏi han tình hình ở nhà, anh bảo con ra khép cửa, treo biển “Đóng cửa” lên.

“Còn một tiếng nữa mới đến giờ đóng cửa mà bố,” Maneck nói, nóng lòng chờ nghe một lời khen ngợi từ bố.

“Bố biết rồi. Con cứ ra đóng cửa đi.” Rồi bố cậu sai con xếp đặt mọi thứ lại như cũ. Giọng anh lạnh tanh, không chút cảm xúc.

Thà rằng bố cứ mắng hoặc tát, hay trách phạt kiểu gì tùy thích, Maneck còn thấy dễ chịu hơn. Còn thái độ khinh miệt, thậm chí không thèm đả động một câu như thế kia thì thật quá sức chịu đựng. Mọi niềm háo hức tan biến trên khuôn mặt cậu, bỏ lại một nỗi đau đớn hoang mang, cậu cảm giác như mình sắp bật khóc đến nơi.

Xót con, mẹ cậu bèn xen vào. “Nhưng anh Farokh à, anh không thấy kiểu sắp xếp của Maneck trông đẹp hơn sao?”

“Xấu đẹp thế nào không quan trọng. Anh và em đã dặn nó những gì, khi ta phó thác cửa hàng cho nó trong hai ngày? Thế mà nó đáp lại sự tin tưởng của bố mẹ nó thế đấy. Đây là vấn đề kỉ luật và chấp hành mệnh lệnh, không phải chuyện xấu hay đẹp.”

Maneck kê đặt tủ bàn cùng hàng hóa trở lại vị trí cũ, nhưng trong suốt thời gian còn lại của kì nghỉ, cậu nhất quyết không chịu đặt chân vào cửa hàng. “Bố có cần con đâu – con không muốn ra đấy,” cậu nói với mẹ, giọng uất ức.

“Bố chỉ cần một thằng đầy tớ thôi.”

Trên giường tối hôm ấy, chị bảo với anh Kohlah rằng Maneck đau lòng lắm. “Anh biết chứ,” anh nói, đoạn quay mặt đi. “Nhưng nó phải học bò rồi mới lo học chạy được. Một thằng bé chưa đến tuổi đã cho là ta đây biết tuốt thì không tốt chút nào.”

Chị vẫn kiên trì, và đã thành công ngay trước khi kì nghỉ kết thúc. Hòa bình được tái lập giữa cha và con vào một buổi sáng khi anh Kohlah bắt tay vào bày biện lại một cái tủ kính và gọi Maneck xuống cửa hàng để hỏi ý kiến. Gần kề ngày mở trường, hai bố con bắt đầu làm việc với nhau trở lại trong xưởng pha chế nước giải khát dưới tầng hầm, Maneck mang chai đã súc sạch xuống, rồi bê những thùng Kaycee mới đóng chai lên.

Buổi tối cuối cùng, anh Kohlah nói, khi đang tắt máy: “Ngày mai con đi rồi, bố sẽ nhớ con lắm.” Giữa tiếng xình xịch của động cơ đang chết máy dần, những lời anh nói chỉ có thể tuyệt vọng bấu lấy bầu không khí ẩm thấp nơi hầm tối. Anh ôm lấy Maneck khi hai bố con cùng nhau đi lên.

Trường nội trú là nguyên nhân gây ra cuộc phân ly không mong muốn thứ hai của Maneck với những ngọn núi. Lần đầu tiên xảy ra khi cậu bé lên sáu, cậu cùng mẹ về thành phố thăm bà con họ hàng bên ngoại, đi tàu hỏa mất hai ngày. Cậu bị mê hoặc bởi những tòa nhà cao chất ngất và những rạp chiếu phim tráng lệ, cơn lũ xe hơi, xe buýt cùng xe tải, và ánh sáng lóa mắt của phố xá lên đèn khi đêm xuống. Nhưng chỉ được dăm ngày, cậu đã nhớ bố quay quắt. Cậu phấp phỏng mong tới lúc được về nhà khi kì nghỉ kết thúc.

“Con sẽ không đời nào rời xa những ngọn núi nữa,” cậu nói. “Không bao giờ.”

Chị Kohlah thì thầm cái gì đó vào tai chồng, khi ấy đang đứng đợi dưới sân ga, chờ đón hai mẹ con. Anh cười, đoạn ôm chầm lấy Maneck và bảo anh cũng thế.

Nhưng chẳng bao lâu sau, đã đến cái ngày những ngọn núi rời bỏ họ. Tất cả bắt đầu với những con đường. Các kĩ sư đội mũ cát tìm đến với đủ thứ dụng cụ hung gở và phác thiết kế của mình lên hàng tập giấy. Rồi sẽ có những con đường hiện đại, họ hứa, những con đường rộn tiếng lại qua của các loại xe cộ hiện đại. Những con đường, rộng rãi và bền chắc, để thay thế những lối mòn nên thơ nơi núi non vốn quá nhỏ hẹp đối với tầm nhìn rộng lớn của các nhà kiến quốc và các chuyên viên của Ngân hàng Thế giới.

Một buổi sáng nọ tại công trường, một vị bộ trưởng được trao vòng hoa giữa tiếng nhạc rộn rã. Đó là Ban hành khúc Bhagatbhai Naankhatai: gồm ba kèn đồng, một cặp trống con, và một trống cái. Họ mặc đồng phục màu trắng, với mấy chữ BNMB[31] thêu bằng chỉ vàng trên lưng; trên mặt trống cái, cụm chữ viết tắt được sơn màu đỏ. Chuyên môn của ban vốn là nhạc rước đám cưới, cùng các tiết mục phụ bao gồm bài tán ca của mẹ cô dâu, khúc than khóc của mẹ chú rể, cuộc tuần du khải hoàn của chú rể, bài thơ ca ngợi bà mối, và một bài ca chúc cô dâu chú rể con đàn cháu đống. Song nhóm đã khéo léo thay đổi chương mục cho phù hợp với buổi lễ. Dàn trống đập dồn những nhịp sặc mùi quân sự, như báo trước cuộc hành quân của tiến bộ, còn chiếc kèn trombone cố nhịn những nốt luyến láy não nề dành riêng cho đám cưới để thay bằng các đoạn ngắt nhịp rộn rã.

Đám đông khán giả gồm toàn dân làng vô công rồi nghề hoan hô vang dậy mỗi khi có hiệu lệnh, hăm hở chờ đến lúc được lấy tiền công tham dự. Diễn văn được đọc trên một chiếc bục dựng tạm. Ngài bộ trưởng vung cây cuốc chim bằng vàng lên nhưng bổ trật đích. Ngài nhe răng cười với đám đông và bổ lại một nhát nữa.

Các vị mũ cao áo dài đi rồi, công nhân kéo đến. Ban đầu tiến độ rất chậm, chậm đến nỗi anh Kohlah và toàn bộ dân cư miền đồi đều ấp ủ một mối hi vọng phi lý: công trình sẽ không bao giờ hoàn thành, chốn nương náu bé nhỏ của họ sẽ được bảo toàn nguyên vẹn. Đồng thời, anh cùng Thiếu tướng Grewal tổ chức các cuộc họp mặt cho người dân thị trấn, tại đây những người có mặt ra sức lên án chính sách phát triển đầy khiếm khuyết, óc thiển cận, lòng tham lam đang hi sinh vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước cho con quỷ dữ của tiến bộ. Họ kí đơn, đệ trình kháng nghị của mình lên chính quyền, và chờ đợi.

Song con đường tiếp tục dấn tới từng phân, nuốt trọn những gì nằm trên đường tiến công của nó. Hai bên sườn những ngọn đồi xinh đẹp của họ trở nên sứt sẹo lở loét. Đứng từ trên đỉnh dốc nhìn xuống, những con đường đất chạy ngược lên đồi trông chẳng khác nào những dòng sông bùn thách thức trọng lực, như thể thiên nhiên đã hóa dại. Tiếng nổ ầm ầm như sấm văng vẳng phía xa cùng tiếng gầm rú của các loại máy xúc máy ủi nổi dậy từ sáng tinh mơ, và vẻ mộng mơ của làn sương sớm biến thành một cơn ác mộng.

Anh Kohlah bất lực nhìn quá trình rải nhựa được khởi động, biến dòng sông màu nâu thành màu đen, hoàn tất công cuộc thay hình cải dạng chốn chôn nhau cắt rốn thân yêu của anh, nơi cha ông anh đã sống tựa như trên thiên đường. Anh đành trân mắt nhìn,