← Quay lại trang sách

Tiếng Chuông Chùa Làng

Đang ngồi đọc lại bức thư, có tiếng chuông réo lên, Mẫn ngửng đầu nhìn ra gương mặt rạng rỡ hẳn, vội vàng đứng dậy chạy tới.

MẪN (vừa mở cửa vừa nói như reo) – A bác, thưa bác cháu có ý mong bác mấy hôm nay rồi!

TIẾNG NGƯỜI BÁC – Lũ trẻ đâu cả?

MẪN – Thưa bác lũ chúng giờ này cháu bắt lên gác cả.

Một người trạc lục tuần bận quốc phục bước vào, tóc hoa râm, bộ râu mép cũng vậy, đôi mắt sáng, không đeo kính, khuôn mặt hồng hào phúc hậu. Mẫn khóa trái cửa lại rồi cả hai tiến vào trong.

MẪN (cùng ngồi xuống với người bác). – Thưa bác từ hôm lộn xộn, các trường được lệnh tạm đóng cửa nghỉ dạy học cháu mong bác hoài, giá cháu không bận trông cho họ sửa nốt mấy chỗ giột trên mái ngói trước khi mùa mưa tới thì cháu đã lại đằng bác rồi.

NGƯỜI BÁC – Thì bác cũng thấy đường cái cứ về chiều là lộn xộn nên chán chẳng muốn đi đâu.

MẪN (đưa một tờ thư cho người khác) – Lần này có thư của mẹ cháu viết cho chúng cháu.

NGƯỜI BÁC (cầm lấy lá thư) - Ồ hay quá nhỉ. Cũng may gia đình mình có người nhà ở bên Pháp, thư từ tin tức vừa nói được nhiều vừa mau, chứ cứ như nhiều gia đình khác trông vào bưu thiếp thì chán chết.

MẪN (giọng buồn rầu) – Lần nào được đọc thư của mẹ cháu, cháu cũng chỉ muốn khóc!

Người bác cười gật đầu và cúi xuống chăm chú đọc. Tiếng bà mẹ miền Bắc rầu rầu vẳng lên từ những dòng thư.

“Các con của mẹ

Nghe tin ở bên này các con các cháu mạnh khỏe mẹ mừng, còn ở nhà thấy mẹ và các em các cháu đều mạnh khỏe cả. Các con cứ yên tâm giữ đạo đức tốt thì mẹ rất mừng. Khi nào đại gia đình xum họp mẹ sẽ nói chuyện nhiều. Các con nhớ giữ gìn sức khỏe kẻo mẹ thấy các con lo bận công việc hình như có gầy đi nhiều.

“Anh Toàn, cháu của già…

NGƯỜI BÁC (ngẩng lên hỏi Mẫn) – Toàn thỉnh thoảng có về đây không cháu?

MẪN – Dạ, chú ấy mới về đây hôm nọ rồi lại phải lên Tây Ninh ngay, chú ấy trông coi kho sang trên ấy.

Người bác cúi xuống đọc tiếp. Tiếng nói nhẫn nại và tràn đầy yêu thương của người mẹ vang lên buồn buồn:

“Anh Toàn cháu của già…Già nói chuyện gia đình nhà để con biết, thầy con khỏe mạnh, vợ con và các con đều mạnh khỏe, con cứ yên tâm, vợ con ở nhà rất tốt, trông nom hai con của con rất đầy đủ, học hành năm nào cũng lên lớp. Khi giỗ mẹ con có mời cả già, các cậu, các mợ tới ăn giỗ vui vẻ lắm. Nội ngoại rất thương vợ con, vì hai chữ đạo đức là vốn rất quý, con cố gắng gửi thư và ảnh về cho vợ con kẻo ở nhà rất mong. Thôi già chả biết nói chuyện gì nữa, chúc các cháu đều mạnh khỏe cả, đợi ngày đoàn tụ

Mẹ của các con

MẪN – Bao giờ đọc thư của mẹ, cháu cũng không cầm được nước mắt. Mà rõ ràng trong thư mẹ cháu không bao giờ than khổ than cực cả và đúng như trong thư điều căn dặn duy nhất suốt đời mẹ cháu bao giờ cũng là: “Các con cứ yên tâm giữ đạo đức tốt thì mẹ rất mừng!”

NGƯỜI BÁC – Mẹ cháu cũng giống bà sinh ra bác, mẹ cháu còn thuộc thế hệ cũ mà, nếp sống cổ là một cái gì thuần phác (cười để che cảm động cho cháu).- Mẹ cháu cũng biết để ngụy trang cho bức thư là “Pa-ri ngày…”

MẪN (cũng cười theo, qua một giây suy nghĩ bỗng sực nhớ ra điều gì) – A thưa bác cũng chuyến thư này cô em cháu ngoài đó cho hay tin bác Cửu đã mất.

NGƯỜI BÁC – Bác Cửu mất rồi?

MẪN – Hình như bác Cửu hơn tuổi thầy cháu.

NGƯỜI BÁC – Ông Cửu tuổi Canh Tí, bác nhớ lắm, hơn thầy cháu ba tuổi, thầy cháu tuổi Quý Mão (cười) bọn an hem chúng tôi nhớ tuổi nhau lắm chứ không như các cậu bây giờ đâu, (khẽ vuốt chòm râu muối tiêu) thành thử ra xóm nhà giờ đây chỉ còn mình thầy cháu là già khọm nhất (lắc đầu chép miệng) những an hem đồng cỡ tuổi với bác giờ còn lác đác như sao về sáng, cứ rụng dần…rụng dần…

MẪN – Thế bác kém thầy cháu mấy tuổi?

NGƯỜI BÁC – Một tuổi thôi, bác tuổi Giáp Thìn. Ấy cũng vì bác kém thầy cháu một tuổi mà dạo đó đại gia đình nhà ta bèn chấp nhận cho bác theo Tây học. (có tiếng ồn ào dữ dội từ ngoài đường vọng vào) Gì mà dữ vậy. lại biểu tình hả cháu?

MẪN – Vâng (nhìn đồng hồ) sáu giờ chiều rồi, giờ biểu tình đấy cho nên bác có thấy dọc theo hàng phố các cửa tiệm, cửa nhà đều đóng im ỉm?

Có tiếng đập cửa rộn ràng, cả hai bác cháu cùng giật mình ngồi thẳng người. Tiếng réo từ bên ngoài: “Chủ nhân đồng bào ra nhờ một tí” rồi lại tiếng đập cửa, rồi lại tiếng thét: “Chủ nhân đồng bào ra nhờ một t!í”

NGƯỜI BÁC – Cháu cứ lánh mặt vào trong này đi, để bác ra cho. (Mẫn lánh vào chỗ khuất nhưng vẫn nhìn rõ phía ngoài cửa. Người bác vuốt mớ tóc muối tiêu đứng dậy thong thả đi ra phía cửa). Các ông hỏi gì? Chủ nhân đi vắng, tôi là bác chủ nhân đây.

Bên ngoài cửa, hai thanh niên áo sơ mi phanh ngực, quần ống túm, mỗi tên cầm một cây mía gãy, miệng nhả mía ngồm ngoàm. Ngoài mặt đường nhốn nháo khoảng một trăm người biểu tình khác sát khí đằng đằng.

THANH NIÊN I – Ông cụ ủng hộ cho hai cây gậy để căng biểu ngữ.

THANH NIÊN II – (nhổ bã mía, cắn một khẩu khác, vừa nhai vừa nói, thỉnh thoảng sặc nước mía một chút). – Chả biểu ngữ chúng tôi căng bằng hai cây mía này gẫy mất rồi. Ủng hộ cho hai cây gậy đi, bọn tôi tranh đấu là tranh đấu cho cả đồng bào mà.

NGƯỜI BÁC – Các cậu đợi tôi chút nhé (ông trở vào tìm các xó cửa gầm giường thấy có một chiếc gậy mang ra) Nhà chỉ còn một chiếc gậy này, các cậu dùng!

THANH NIÊN I – Ông vào tìm cho cây nữa đi, có một là phải có hai, bọn tôi tranh đấu là tranh đấu cho tất cả đồng bào mà.

THANH NIÊN II (ngửa cổ nhìn lên ban công) – À có thêm chiếc gậy nữa đây rồi. Ê! này chú bé, vứt cho chiếc cán cờ trên đó xuống đây.

TIẾNG MỘT ĐỨA TRẺ (từ trên gác nói xuống) – Sức mấy, cán cờ của nhà người ta!

NGƯỜI BÁC (nhận ra tiếng đứa trẻ) – Thằng Hiến đấy phải không?

TIẾNG ĐỨA TRẺ - Thưa ông vâng ạ

THANH NIÊN I – Vứt cho goa chiếc cán cờ xuống đây!

ĐỨA TRẺ - Hôm nay ngày giỗ Quốc Tổ, cờ treo ngày giỗ Quốc Tổ anh không biết sao?

THANH NIÊN II – Khỏi cần giỗ tổ, bọn goa tranh đấu thế này là đủ rồi. Vứt chiếc cán cờ xuống đây mau.

NGƯỜI BÁC – Cứ gấp cờ lại đưa cho người ta cái cán, cháu!

Thằng bé tuân theo lời ông hì hục trên ban công một phút rồi ném chiếc cán cờ xuống. Một người xịch bước tới và dừng lại, đó là một thanh niên sĩ quan, trên má bên phải một vệt xẹo dài ăn sâu xuống, kỷ niệm một lần đạn sẹt qua trong chiến dịch mùa mưa năm ngoái. Thanh niên I và Thanh niên II vừa lồng biểu ngữ vào gậy vừa ngước lên, gặp tia nhìn lạnh lùng của viên sĩ quan trẻ tuổi, tia nhìn không những coi khinh sự chết mà coi khinh cả sự sống nữa. Hai thanh niên vội vã cầm biểu ngữ đi vào đám đông đã bắt đầu di chuyển. Người bác trở vào nhà, Mẫn ra, hai bác cháu tiếp tục câu chuyện.

MẪN –Thưa bác nhà cháu ở trong bếp sắp ra chào bác.

Vợ Mẫn từ trong ra.

VỢ MẪN – Lạy bác ạ, bác vẫn được mạnh?

NGƯỜI BÁC – Kìa cháu, cảm ơn cháu, bác vẫn mạnh. Các cháu nhà này vẫn ngoan cả đấy chứ?

VỢ MẪN – Thưa bác chúng nó nghịch lắm ạ (cười) có lẽ chỉ sang năm là đã có đứa đi biểu tình được rồi. Thưa bác hôm nay bác sơi cơm với chúng cháu rồi nghỉ lại luôn đây, chín giờ đã giới nghiêm rồi.

NGƯỜI BÁC – Tất nhiên thế rồi. Cháu cứ vào bếp đi, có món muối vừng thường lệ cho bác không?

VỢ MẪN (cười) – Thưa bác từ ngày nhà cháu bắt chước bác ăn cơm gạo lức muối mè mỗi tuần một lần, thì thường xuyên nhà có món muối vừng. Xin phép bác, cháu vào.

NGƯỜI BÁC - Ừ cháu vào.

Vợ mẫn vào.

MẪN – Thưa bác thế mà di cư vào đây đã mười hai năm rồi, thấm thoắt chóng thế.

NGƯỜI BÁC – Các cháu còn trẻ không sao, chứ như bác bây giờ gần đất xa trời rồi nên đêm nào không ngủ được nhớ làng đáo để.

MẪN – Địa thế làng ta đẹp thật chứ bác nhỉ ngay sát bờ con sông nhỏ, vào làng phải qua một chiếc cầu đá, ngay đầu làng là một cây si cổ thụ với một tòa miếu cổ. Cháu còn nhớ mỗi lần đứng ở đầu làng nhìn sang con đường nhựa bên kia sông dẫn về Hà Nội cháu tưởng như nhìn sang một thế giới nào khác biệt hẳn với thế giới thanh bình của làng.

NGƯỜI BÁC - Ấy thế mà trẻ con xóm Chợ ngay đầu làng còn như chịu ảnh hưởng của con đường nhựa thường có thái độ ngỗ ngịch. Đi sâu vào giữa làng thì con đường nhựa, hình ảnh của nền văn minh mới, cũng mờ đi. Nếu lại rẽ vào xóm nhỏ hai bên với những hàng rào ô rô những hàng rào râm bụt với những ao bèo thì hoàn toàn là đi vào thế giới thuần phác của người dân Việt thuần túy.

MẪN – Thưa bác chắc bác còn nhớ cô Ty cháu, cô cháu đã mất trong một ngõ xóm như vậy.

NGƯỜI BÁC – Bác nhớ, cô cháu về nhà chồng được hơn một năm, sinh đứa con đầu lòng đâu được ba tháng thì thọ bệnh mất.

MẪN – Cô cháu bị bệnh tả đấy bác nhỉ.

NGƯỜI BÁC (gật đầu) – Dạo đó mùa hè nào mà chẳng có bệnh tả hoành hành.

MẪN – Đến ngày nay mà cháu còn như nghe rõ tiếng than khóc của bà cháu và còn như thấy rõ thằng em trai, con cô cháu, vào lúc gà lên chuồng khóc đòi mẹ và sà xuonsg theo bất kỳ bóng người đàn bà nào đến giơ tay bế nó, Bà cháu còn khóc cô cháu mấy ngày sau, người kể lể nào là ông cháu mất sớm, bây giờ lại đến lượt cô cháu, thành thử người chỉ còn một mình thầy cháu. Người than rằng người khổ từ trẻ đến già. Tiếng bà cháu khóc than thật là sầu thảm vang lên trong chiều quê ngày nay nhớ lại cháu còn muốn chảy nước mắt.

NGƯỜI BÁC - Ờ.. ờ bác nhớ…bác nhớ…(lái sang chuyện khác). Ấy, thế đất của làng là thế đất Ngô Công – thế đất con rết – đìn làng lại ở thế đất Qua Đằng – thế đấy giây dưa kết từng chùm – nhiều thầy địa lý cho rằng vì vậy các họ trong làng đều khá đều. Bác nhận có đúng thế, Này nhé họ Viết trước đây cũng cung cấp cho làng được mấy ông cử nhân. Đên họ Quản mả tổ chôn ở bãi Đình Hát trông ra gò Thiên Tôn thì trước đây cũng có đến hai đời quận công. Họ Nguyễn mả tổ chôn ở gò Con Tiên cũng đã có người làm đến chưởng lục bộ tưởng ấn tức như tể tưởng…

Có tiếng ồn ào bên ngoài Mẫn cau mày nhìn ra. Tiếng người từ ngoài đường loáng thoáng lọt vào: “Họ đốt tòa báo!” “Cảnh sát ném lựu đạn cay giải tán đấy!”…

NGƯỜI BÁC (tiếp tục câu chuyện về làng) – Mả họ Lê đặt vào thế đất có Dần – thủy, giàu nhưng hay bị ác tật như lao, cùi. Bác nhận xét thấy có thế thật! Đẹp nhất phải nói đến hướng đình làng ta nhìn ra con quy là một cái gò lớn. Vào những ngày mưa rằm tháng tám, tháng chín, nước từ con quy rềnh lên…rềnh lên trắng xóa, trông tuyệt đẹp. Thế nước rềnh lên như vậy các thầy địa lý gọi là ngọc-giai-thủy-nước như thềm ngọc!

Có tiếng gõ cửa. Hai bác cháu ngừng chuyện cùng quay ra yên lặng nghe ngóng. Lại có tiếng gõ cửa.

NGƯỜI BÁC – Để bác ra xem sao.

Người bác tới cửa nhận ra người gõ là chàng sĩ quan khi nãy có cái nhìn khinh bỉ lạnh lùng của kẻ không những coi thường sự chết mà còn coi thường cả sự sống nữa.

CHÀNG THANH NIÊN SĨ QUAN – Thưa cụ mấy tiệm giải khát quanh đây họ đóng cửa cả, cháu khát nước quá, phiền cụ cho cháu ly nước.

NGƯỜI BÁC – Xin mời ông vào nhà một chút không chi phiền, xin mời ông vào!

Hai người vào, Mẫn đứng lên đón chào.

MẪN – Mời anh ngồi, để tôi vào lấy nước trà (Mẫn vào)

NGƯỜI BÁC – Tôi cứ ngỡ quân nhân như các ông trong mấy ngày gần đây đều phải cấm trại một trăm phần trăm?

Mẫn ra, mang theo ly nước trà đặt trước viên sĩ quan.

C.T.N.S.Q (khẽ cúi đầu nói với Mẫn) – Cảm ơn anh (với người bác) thưa cụ đơn vị cháu đóng ở miền Trung, cháu mới xin được nghỉ phép về đây tìm người nhà, tìm một bà chị để báo tin buồn.

MẪN – Thế anh đã tìm thấy bà chị chưa?

C.T.N.S.Q – Thưa chưa, chị tôi vừa đổi sang chỗ ở mới tận bên Gia Định, có lẽ mai tối có thể tìm thấy được.

MẪN – Anh về Sài gòn có nhà người quen?

C.T.N.S.Q (lúng túng) – Dạ cũng có… tức là nhà…bà chị tôi….

MẪN – Vậy thì đêm nay anh chưa có chỗ ở?

C.T.N.S.Q – Thưa tôi định tìm đến một khách sạn.

MẪN – Thôi anh cứ ở luôn đây, trên lầu ba có một căn phòng duy nhất là căn phòng làm việc của tôi, anh nghỉ thảnh thơi lắm, mai sang Gia Định sớm. Bây giờ tiện thể anh xơi cơm chiều với bác cháu chúng tôi.

C.T.N.S.Q - Ồ…vâng…cám ơn anh nhiều lắm. (Mẫn vào nhà, chàng sĩ quan nói với người bác) Thưa cụ cháu thật hên, quả tình cháu đương băn khoăn không biết tìm khách sạn ở đường nào bây giờ, cháu ít khi vào SàiGòn nên không thạo đường cho lắm.

Vợ Mẫn theo Mẫn bưng mâm cơm ra đặt lên bàn, cúi đầu chào đáp lễ chàng sĩ quan.

VỢ MẪN – Thưa bác, để bác và nhà cháu ngồi tiếp khách ngoài này, cháu xin phép trông nom cho ba cháu ăn ở trong nhà.

NGƯỜI BÁC – Được, thế món muối vừng của bác đâu?

VỢ MẪN (chỉ vào chiếc lọ Mẫn đương cầm tay) – Thưa bác nhà cháu đích thân phụ trách mang ra đây ạ. (Mọi người cùng cất tiếng cười, vợ Mẫn lui vào. Ba người đàn ông sửa soạn bát đũa rồi cùng vừa ăn vừa nói chuyện).

MẪN – Thưa bác lúc nãy bác cháu mình đương nhắc đến chuyện của làng mình nhỉ. À phải rồi bác đương nhắc đến chuyện địa lý (nói với viên sĩ quan) thưa anh ấy lúc buồn tôi thích được nghe bác tôi nhắc đến chuyện làng.

C.T.N.S.Q – Chính tôi cũng cùng tâm trạng ấy, mà có lẽ tất cả những ai đã từng sống ở chốn đồng quê đều cùng tâm trạng như vậy. Nghĩ về làng, nghĩ về nếp sống ở thôn ổ, mình mới có cảm tưởng là mình bất diệt (cười) thật vậy thưa cụ sống ở miền hỏa tuyến như cháu sống chết luôn luôn như treo trên sợi tóc mà cháu dám nói là mình bất diệt với làng xóm.

NGƯỜI BÁC – Tôi nghe giọng nói thì hình như ông là người Quảng Nam?

C.T.N.S.Q – Thưa cụ vâng, làng cháu cách tỉnh lỵ chừng mười hai cây. Người anh rể cháu tập kết ra Bắc để lại vợ và hai đứa con. Cháu được tin ảnh đã lấy vợ khác ngoài đó và mới năm ngoái đây theo quân đội Bắc vô hoạt đông ngay tại vùng Một chiến thuật tức là vùng quê hương của chúng cháu.

MẪN – Thế anh đã có lần nào được gặp ông anh nhà?

C.T.N.S.Q (lắc đầu) – Tất nhiên là chưa anh ạ. Điều đáng buồn là hai anh em mà nay ở hai trận tuyến (giờ tay sờ vết sẹo ở bên má phái) vết thương này tôi nhận ở mặt trận Cau Lai năm ngoái biết đâu không do viên đạn của chính ông anh rể tôi (cười ngao ngán). Có thể lắm chứ! Đến như tháng trước đây hai đứa cháu về quê nội ăn giỗ thì ban đêm bị đạn súng cối 81 câu nhầm vào nhà chết cả hai (lại lắc đầu ngao ngán). Có thể là đạn súng cối của ông anh tôi, của cha hai đứa trẻ, câu vào lắm chứ, sao không.

MẪN – Vì vậy nhân dịp nghỉ phép anh vào đây báo tin buồn cho bà chị hay?

C.T.N.S.Q – Vâng.

MẪN – Sao bà chị anh không cho hai cháu cùng vào đây?

C.T.N.S.Q – Bà chị dâu tôi mới tái giá!

Cả Mẫn và người bác cũng cất tiếng “à” một tiếng rồi im lặng kéo dài tới vài phút. Sau cùng Mẫn tìm cách đổi hướng câu chuyện.

MẪN – Thưa bác, bác có nhớ sự tích vị thành hoàng thờ ở đình làng ta?

NGƯỜI BÁC – Làng ta không thờ một thành hoàng như mọi làng mà thờ năm vị cả thẩy, một vị ở đình, một vị ở miếu Chợ, một vị ở miếu Chùa và hai vị ở miếu Cả. Đó là năm vị Cao Sơn Đại Vương con đức Lạc Long Quân theo mẹ xuống biển. Chả làng ta gần sông gần nước nên thờ các vị.

MẪN - Ồ bây giờ cháu mới biết điều đó.

NGƯỜI BÁC – Cháu có nhớ miếu Cả còn thờ bà Phi họ nhà?

MẪN – Dạ cháu nhớ. Thường thường đêm giao thừa năm nào thầy cháu cũng mang đồ lễ ra miếu cả.

NGƯỜI BÁC – Không riêng người trong xóm mình, người trong họ mình, mà cả làng cứ vào dịp nguyên đán mọi người điều sắm sánh lễ vật mang tới dâng cúng Đức Bà. Cả làng, nhất là những người hay đi xa, đều coi Đức Bà như vị phúc thần luôn luôn che chở cho họ. Có nhiều người thuật lại những khi ốm đau hoặc gặp cơn nguy hiểm nơi đồng đất nước người thường nằm mơ thấy một bà đầu tóc bạc phơ, nón thúng quai thao tới an ủi, rồi chẳng bao là tai qua nạn khỏi. Thêm một điều, hễ ai phải dời làng thì ở chốn tha phương làm ăn thế nào cũng khá, ai cũng bảo đó là do Đức Bà phù trợ. Bác nghĩ thật Đức Bà đã làm vinh hạnh cho dòng họ nhà. Về những điều này bác giữ nguyên tín ngưỡng cổ truyền và bác tin rằng bác không lạc hậu, đức tin đó là quý cháu ạ (với viên sĩ quan) Có phải không, thưa ông.

C.T.N.S.Q – Dạ, cụ dạy đúng ạ.

NGƯỜI BÁC (với Mẫn) – Cháu ơi, làng cả hai miền giờ đây đều bị phá vỡ bằng cách này hay cách khác mà chưa có gì thay vào đó. Cháu trông đấy làng trong này bị bom đạn tơi bời, bị trái phá tự đôi bể rót vào, một phần phải bỏ làng vào những ấp tân sinh, một phần phải lên tỉnh ở, sống chen chúc bên đám dân thị thành ích kỷ, giả dối, bỉ ổi sống bám vào chiến tranh nhưng hễ mở miệng ra là ra điều ta đây nguyền rủa chiến tranh. Lũ nào có chút quyền thế thì ỷ vào quyền thế mà ăn cắp, lũ nào có chút của, thì ỷ vào của cải mà thao túng thị trường chợ đen chợ đỏ. Mới cách đây ít lâu bác gặp một người học trò cương trực của bác, hắn nói “Thưa thầy nếu con có quyền con đốt béng thành thị đi, bắt tụi chúng tản hết về quê mà ở”. Ý kiến ngộ mà hay đấy chứ cháu, làm thế thôn quê trở thành phồn thịnh, văn minh lên và cứu được làng.

C.T.N.S.Q – Cháu đã từng sống nhiều ở làng nên cháu thông cảm với lòng yêu làng của cụ.

NGƯỜI BÁC – Chính đời sống khốn nạn ở chốn thị thành này giết những người thanh niên của cả đôi bên trên bãi chiến trường. chính đời sống khốn nạn nơi đây giúp những kẻ cầm đầu bên kia có cớ xui những thanh niên xông ra chết thay cho chúng (chỉ vào mâm cơm) Nhưng chẳng có dân nước nào mâm cơm có ớt cay chuối chát như dân mình, chẳng có dân nào estampe vẽ tranh trèo dừa và dùng toàn loại màu sắc thuần túy như dân mình, chẳng có dân nào có những chuyện tiếu lâm như những chuyện tiếu lâm của dân mình và đào đâu trên thế giới ra một Hồ Xuân Hương thứ hai? Cho nên nghĩ đi thì cũng nên nghĩ lại, nếu trách sự sa đọa nổi lên mặt từng ở chốn đô thị này, thì cũng đừng nên quên rằng dân mình đã lì lợm chịu đựng cuộc chiến tranh từ hai mươi năm nay, sự lì lợm của người dân cả đôi miền đã làm cho những quan sát viên quốc tế phải la hoảng, phải điên đầu, họ thú thực là chịu không hiểu nổi dân mình, nhưng nói như vậy là họ đã hiểu rồi đó, hiểu rằng làm sao cái dân tọc nhỏ bé này mang nổi trên đôi vai gầy sức nặng của ngót năm ngàn năm lịch sử mà vinh quang đồng nghĩa với gian khổ.

C.T.N.S.Q – Thưa cụ, lại có người căn cứ vào sám Trạng Trình: “Mã đề cương nước anh hùng lân, Thân Dậu niên lai kiến thái bình”. Có lẽ dân mình sau một thời gian chịu đựng dịch tả thực dân rồi dịch hạch cộng sản, đến lúc được hưởng giai đoạn thanh nhàn chăng?

NGƯỜI BÁC – Không phải dân mình chịu đựng thực dân và cộng sản, mà phải nói chính thực dân và cộng sản chịu đựng dân mình. Cả hai lần lượt bước vào đất nước này thoạt như chủ nhưng chẳng bao lâu họ thấy rằng đó chỉ là ảo tưởng. Bắt đầu từ đấy họ sống như một cuộc sống làm điên đầu họ, chủ không ra chủ, nô lệ không ra nô lệ, cuộc sống của họ chợt nổi lềnh bềnh như một thây ma trên dòng sông lì lợm là thái độ sống của dân mình và họ vùng vẫy…họ vùng vẫy với chính họ mong sớm thoát khỏi ảo tưởng đó trong…danh dự! Cộng sản khi ra khỏi cuộc chiến đấu này không còn là công sản nữa đâu, ông bạn trẻ ạ, ông cứ tin tôi, tôi là nông dân mà.

MẪN (nói với viên sĩ quan) - Bác tôi vẫn thường tự hào mình là một nông dân chính cống.

NGƯỜI BÁC – Thật thế đấy ông bạn trẻ ạ, đó là một điều may mắn tôi còn giữ được tính chất nông dân của ông cha để lại (hỏi Mẫn) cháu có nhớ cây đa cổ thụ ở đăng sau miếu Cả làng nhà?

MẪN – Dạ cháu nhớ, trời ơi, lúc bé mỗi lần qua đó vào giờ gà lên chuồng cháu sợ muốn chết, ông già bà cả vẫn bảo là sống dưới gốc đa đó có con bạch xà thành tinh.

NGƯỜI BÁC – Tương truyền tại gốc cây đa cổ thụ đó vào năm Quý Dậu 1873, năm Tây hạ thành Hà Nội, chúng có lần đem quân về làng ta, đàn bà trẻ con chạy thoát cả, chúng bắt được mấy ông đồ bèn đem ra bắn tại gốc đa. Ấy đấy các cây cối, miếu mạo, ruộng đồng nơi làng mạc thường hoặc là những căn cứ kháng chiến hoặc là bãi chiến trường hoặc là nơi pháp trường hành quyết ông cha thất thế, như vậy đi vào cảnh trí làng mạc đồng quê không cảm thấy như đi vào linh hồn của cha ông sao được?

Vợ Mẫn theo dấu tay làm hiệu của chồng tới dọn bàn ăn, rồi mang đồ nước ra. Trong khi đó câu chuyện vẫn tiếp tục.

C.T.N.S.Q ( giơ tay lên gãi đầu về suy nghĩ giây lâu rồi mới nói). – Thưa cụ bây giờ cháu mới cảm thấy rằng cái chết của bao nhiêu người trong hơn hai mươi năm nay không vô ích.

NGƯỜI BÁC – Không đâu ông bạn, máu không đổ thì thôi, một khi máu đã đổ, máu mang ơn, máu ghi ơn…chẳng bao giờ máu đổ vô ích đâu ông bạn! Quá nửa đời sống của tôi là ở chốn thôn ổ như cây bắt rễ sâu ở lòng đất, cây xanh không hận thù ông bạn trẻ ạ và tôi đoán chắc thế đấy, ra khỏi cuộc chiến đấu này cộng sản không còn là cộng sản nữa đâu. Ông bạn trẻ cũng đừng quên chính cộng sản đương chịu đựng sự lì lợm của dân ta – dân của cả hai miền – chứ không phải chúng ta chịu đựng cộng sản. Dân ta lì lợm như con gà đợi giờ gáy sáng. Trong tiềm thức mọi người kể cả những cặn bã đang nổi lên mặc tầng xã hội ngày nay đều hoạt động ngầm theo chiều hướng đó. Mặc cho phần trên mặt biển phong ba gào thét, phần dưới vẫn trầm lặng ôm ấp những cá kình cá ngạc. Chẳng biết có phải đó là ý nghĩa câu “vô vi nhi vô bất vi” của Lão Tử chăng.

Người bác đứng dậy đã toan đi thẳng vào buồng nhưng chợt dừng lại, đôi mắt thoáng như mất hút vào một ý nghĩ thăm thẳm nào, đồng thời với một nụ cười mỉm trên miệng, nụ cười thật hiền nhưng đượm chút mỉa mai.

NGƯỜI BÁC – Dù sao thì đó cũng chỉ là những vai trò! (Với viên sĩ quan). Phải đến tuổi tôi, ông bạn trẻ ạ, mới thấy rõ điều này! Mỗi ngày chúng ta đóng một vai trò trên cái sân khấu đời này (ông khẽ lắc đầu) một vai trò không hơn không kém (với Mẫn) Thôi bác vào.

MẪN – Dạ bác đã mệt để mời bác đi nghỉ.

VỢ MẪN (ở trong ra) – Thưa bác cháu đã làm xong giường ở trong này, mời bác vào.

NGƯỜI BÁC (nói với viên sĩ quan) – Xin phép ông, tôi thường có thói quen đi nằm sớm (với vợ chồng Mẫn) ờ bác vào đây.

NGƯỜI BÁC VÀO

MẪN (với viên sĩ quan) – Để tôi đưa anh lên căn phòng gác ba của tôi, anh cũng cần nghỉ sớm để mai còn sang Gia Định tìm bà chị.

C.T.N.S.Q – Vâng tôi xin theo anh.

Viên sĩ quan trẻ tuổi theo Mẫn lên gác. Tới gác ba, cả hai cùng dừng lại ngoài sân gác.

C.T.N.S.Q – Có lẽ đây là lần đầu tiền tôi nhìn thành phố Sài Gòn ban đêm từ cao nhìn xuống (chỉ về phía chiếc building xa) Trông như chiếc boong tàu lừ đừ trôi trên không trung anh nhỉ. Ủa mà sao nhà cửa cây cối thảy đều như không có chiều dày, trông như một thứ descor vẽ trên phông vậy. Hay tại tâm trạng tôi dạo này nhiều chán nản âu lo mà nhìn cảnh vật ra vậy?

MẪN – Cảnh vật từ lúc hoàng hôn trở đi rồi về đêm bao giờ cũng như thế anh ạ. Nhiều buổi hoàng hôn cảnh vật mỏng và hư ảo đến rợn người.

C.T.N.S.Q – (chỉ vành trăng thượng tuần) – Trăng lặn về phía này ư anh?

MẪN – Vâng trăng lặn phía đó!

C.T.N.S.Q – Ông bác anh có vẻ thích làng xóm lắm nhỉ?

MẪN – Thích lắm. Chả chúng tôi mới nhận được thư của gia đình ngoài ấy. Nhiều khi chán nản quá, tôi phải tìm đến nói chuyện với bác. Người có một niềm tin bất biến như vậy và niềm tin đó rất dễ truyền cảm. Mỗi lần nói chuyện với người tôi cũng được ấm lòng tới nửa tháng sau. Không hiểu sao.

C.T.N.S.Q – Cụ nói đúng, đúng nên hỏi tại sao, cụ tin với cả con người cụ, con người còn giữ được đức tin hồn nhiên giao hòa với thiên nhiên. Thế hệ của tôi xấu số nhất khi biết mở mắt trông ngắm thì giang sơn đã nghiêng ngửa, tan nát vì bom đạt, thiên nhiên nháy xém trong hận thù. Xông pha nơi tiền tuyến, tôi không sợ chết nhưng chỉ mong cho cái chết của mình có ý nghĩa, mà điều này thì tôi chẳng bao giờ được thỏa mãn, anh tính hậu phương của mình sa đọa trong tiền bạc, ươn hèn trong tham vọng trong vị kỷ như vậy…

MẪN – Anh có thấy bác tôi khi đề cập đến họ người cũng nguyền rủa, nhưng rồi người lại có giọng điệu tha thứ ngay, hình như ông bác tôi có khả năng cùng một lúc nhìn được cả hai chiều của sự vật.

C.T.N.S.Q – Đó là điều chúng ta phải học của cụ (lắc đầu) mà biết có học được không. Bọn mình như cái cây bị nhổ bật rễ khỏi xóm làng, và chúng mình bị phân hóa thật dễ dàng (suy nghĩ giây lâu). Trong một xã hội đương bị phân hóa đến tàn nhẫn như thế này, mọi danh từ sáng tạo dù cao quý đến mấy cũng chỉ dùng được một lần, y như trinh tiết của đàn bà!

Trước đây tôi vẫn tự cho là mình sáng suốt nhưng bất lực, tới hôm nay được nói chuyện với ông bác anh, tôi chợt nhận chân rằng: Sáng suốt mà bất lực thì quả đó là thứ sáng suốt què quặt!

MẪN (chợt vỗ túi áo trên rút ra tờ thư) - Ấy lúc nãy tôi còn dấu bác tôi là thư này, tuy rằng nếu người biết người cũng đánh chữ đại xá đi cho (đưa bức thư cho viên sĩ quan) Đây là bức thư của thằng em rể tôi, nhân dịp đầu xuân năm nay cậu ta tới thăm chùa làng rồi viết vào nhắc chuyện cũ với tôi.

C.T.N.S.Q (nhìn qua bức thư) - Ủa thư viết bằng văn vần.

MẪN – Vâng, lục bát. (Hạ giọng) Chúng tôi xưa chả rất bê bối về vấn đề tình ái.

C.T.N.S.Q (bắt đầu đọc thành tiếng bài thơ thật sự)

THĂM CHÙA LÀNG

(Thân tặng anh Mẫn)

Mở trang lịch mới năm nay

Xuân về nhớ lại những ngày xuân xưa

Quên sao Tết ấy thăm chùa

Ai xui gặp gỡ thẫn thờ lòng ai

Nâu sồng tươi nét trên vai

Lặng thầm đôi mắt, then cài tuổi xuân

Đậm đà câu chuyện giai nhân

Vì ai vương vấn bụi trần vấn vương

Phận đài sức nực mùi hương

Nâu sồng còn vướng tơ vương ngại ngần.

C.T.N.S.Q (phá lên cười) – Thì ra mùa xuân năm xưa đó anh bê bối với một ni cô.

MẪN (cũng cười thôi) – Chùa làng!

C.T.N.S.Q (tiếp tục đọc)

Ra về lòng những tần ngần

Thương người lẻ bóng tuổi xuân bẽ bãng

Anh tôi lưu luyến chùa làng

Bưởi tơ hoa trắng thêm càng yêu hoa

Mẫn ơi có nhớ cô Nho

MẪN - Ấy Nho là tên cô em họ tên, vợ hắn. Cô em tôi biết chuyện kỳ kèo tụi tôi quá xá.

C.T.N.S.Q (nghiêng mắt nhìn Mẫn cười hóm hỉnh rồi tiếp tục đọc)

Mẫn ơi có nhớ cô Nho

Nhẹ nhàng gợi ý đắn đo lựa lời

“Rằng hồng nhan tự ngàn đời

“Âm thanh cảnh Phật là nơi nương nhờ

“Cho sầu lắng đọng, cho thư thái lòng

“Nỡ nào khấy đục khơi trong

“Đón xuân xin chớ để lòng vương tơ”

Thế rồi xuân ấy trôi qua

Trần duyên còn vướng, lòng ta được nào

Đêm đêm bên đĩa dầu hào

Nam mô cứu khổ lòng xao xuyến lòng

Trải bao ngày đợi tháng trông

Bưởi tơ cũng đã mấy vòng trổ hoa

Giữa mùa xuân cốm quê ta

Giữa mùa hồng chín ni cô lên đường

Dời tạm quan, nhẹ bước ngang

Chẳng còn lẻ bóng bẽ bàng như xưa

Nâu sồng đã đổi áo hoa

Tung tăng em bé bài thơ cuộc đời

MẪN (cười lớn để chấm dứt cho bài thơ) – Thằng cha nhắc lại kỷ niệm này làm tôi ngậm ngùi đáo để. Thế là nàng đã có con rồi đấy anh ạ. Chợt (chăm chú nhìn viên sĩ quan). Anh bị động viên vào Thủ Đức khóa mấy?

C.T.N.S.Q – Tôi xuất thân ở trường Đà Lạt.

MẪN – Trước khi tự ý gia nhập quân đội anh làm gì?.

C.T.N.S.Q – Tôi học trường Văn Khoa trên đó.

Cả hai cùng nhìn ra phía xa, một trái hỏa châu vọt lên rực rỡ như một ngôi sao tự thiêu. Ngôi sao tự thiêu đó hạ thấp dần để lại chỗ cũ một vùng khói đượm màu huyền áo, đồng thời có tiếng sung trọng liên vọng lại.

MẪN – Lại một vụ tấn công phi trường nữa chắc

C.T.N.S.Q – Giờ này chúng chưa thể tấn công phi trường được, đấy là đồn nào đó của mình thấy khả nghi thì bắn ra.

MẪN – Đương học Văn Khoa anh nghĩ thế nào lại gia nhập quân đội?

C.T.N.S.Q – Ngồi nghe giảng ở Văn Khoa cũng như ngồi xem phanh phui những xác ướp, mà đêm đêm nghe tiếng súng từ xa vọng lại tôi có cảm tưởng như mình nằm ngủ trên gai…và tôi đã chấp nhận thà rồi đây chết vô lý còn hơn sống hèn. Tưởng cần nói thêm với anh: cha tôi là một trong số lãnh tụ đảng quốc gia bị bên kia ám hại từ trước hiệp định Genève.

MẪN (gật gù) – Vâng, tôi hiểu…tôi hiểu…

Lại một trái hỏa châu vọt lên khoảg cũ tiếng đại liên vọng lại, lần này có thêm cả tiếng súng lớn “ùng oàng”…Cũng như lần trước khối ánh sáng ấy hạ dần xuống rồi tắt ngấm, tiếng súng tạm ngừng, cả hai cùng vô tình đưa mắt xuống đường phố phía có đặt mấy chiếc ống xi măng cỡ lớn để dẫn nước sông Đồng Nai sau này.

Mội đôi trai gái bình dân xuất hiện dưới ánh đèn vỉa hè ngay bên dưới. Người con gái mới lớn, nước da bánh mật khỏe mạnh, cơ thể nảy nở và rắn chắc dưới lần áo mỏng mặc bó lấy thân hình; người con trai đầu chải vắt cánh phượng về phía sau, dáng đi khuỳnh khuỳnh kiểu cách, anh chàng nghiêng đầu lẳng lơ nói thầm những gì bên tai người yêu nhưng cô này lắc đầu quầy quậy phản đối, một lần anh chàng định phóng tay về phía trước ngực, cô gái vội đập tay đến “đét” một cái. Mẫn và viên sĩ quan đưa mắt nhìn mau mỉm cười. Đôi trai gái đã sang bên kia đường, cùng đảo mắt nhìn quanh rồi cùng chui tụt vào chiếc ống cống lớn dẫn nước sông Đồng Nai sau này.

MẪN (mỉm cười)– Đó là một chị hai với một anh xếp typo, cả hai cũng là hàng xóm nên tôi biết họ vẫn hẹn hò với nhau như vậy.

C.T.N.S.Q – Họ có lý! Và hình như tất cả mọi người trong thời đại chúng ta đều đi tìm cái lý của họ, chỉ còn cái lý đó là có lý hơn cả ở cái thời mạt kiếp này!

Cả hai cùng bật cười. Họ cúi chào nhau lần nữa. Mẫn đi xuống. Viên sĩ quan vào phòng, đóng cửa lại, cởi áo ngoài, tắt đèn lớn để đèn đêm rồi lên giường nằm. Mẫn cũng đã xuống tới phòng dưới nằm xuống chiếc giường nhỏ đối diện với giường của vợ và con.

Ánh sáng dịu dần…dịu dần…chỉ còn mờ mờ…Trăng thượng tuần từ từ chìm nghỉm xuống chân trời. Những vì sao lấp lánh…Thỉnh thoảng vẫn có những trái hỏa châu bắn sáng rồi tàn lụi dần và những tiếng súng xa vọng lại.

Viên sĩ quan lúc đã ngủ say, gương mặt nhìn thật gần đượm vẻ ưu tư. Khuôn mặt chàng bỗng nhăn nhúm rồi trở thành trắng bệch chìm dần vào thế giới mộng. Chàng thoạt thấy lại đôi trai gái bình dân dẫn nhau chui vào ống cống lớn trong đó họ quấn lấy nhau trong đam mê như thể hai con mãng xà thời tiền cổ. Một trái hỏa châu soi sáng và nhuốm hồng khuôn mặt, chàng sĩ quan chợt thấy mình đứng trong một căn nhà hoang vu đất ẩm và ngổn ngang những đống cứt chuột. Chàng cúi xuống nhặt chiếc áo lót rơi dưới đất, thấy chiếc áo thủng lỗ chỗ khắp nơi vì những vết cắn. Chàng khơi một khe hở gần đấy, đất rụng xuống lả tả để lộ cả một cửa hầm lớn. Chàng rùng rợn nhận thấy dưới hầm là một hang chuột lúc nhúc những con chuột lớn dễ bằng những con lợn con. Có những con hung hăng muốn xông tới cắn, chàng phải tung roi da quất tới tấp khiến chúng buộc lòng phải rút lui vào phía sâu trong hang.

Một con bò lớn, đầu còn nguyên, hai mắt mở lớn, nhưng mình và đùi sau đã bị đục khoét chỉ còn trơ xương với ít da thịt sót lại đọng máu đỏ lòm. Trước con bò đương bị đục khoét đó là một bộ xương đứa trẻ đã bị mối đùn gần lấp hết hình hài. Trước bộ xương đứa trẻ là một con cừu lông trắng bẩn xù lên đứng ủ rũ đợi đến lượt mình làm thức ăn cho lũ chuột hung tợn. Chàng sĩ quan toát mồ hôi lạnh bừng tỉnh, đôi mắt mở lớn còn ngơ ngác trong ánh hồng rực rỡ của một trái hỏa châu mới được phóng lên.

Gương mặt của Mẫn cũng đương ngợp trong một giấc mơ. Mẫn mơ thấy mình trở lại đời sống độc thân mười mấy năm trước ở làng quê miền Bắc. Làn sóng đó sắp tràn tới thì phải. Dân làng tổ chức ngày kỵ Đức Bà ở miếu cả rồi biến đêm không ngủ thành một cuộc biểu tình vĩ đại. Mẫn không dự đêm không ngủ với dân làng mà trở về tuy biết rằng ở nhà khi đó không có ai, mẹ chàng còn đi tần tảo nơi xa. Nhưng kìa cửa ngõ đã mở, mẹ chàng đã về, bên trong cầu tiêu mùi hôi nồng nặc vẫn treo những bộ quần áo quý (khi nào vắng nhà mẹ cũng cất quần áo như vậy để khỏi mất trộm) Mẫn mang những bộ đồ đó qua sân, chiếc sân trước đây trồng hoa mẫu đơn tử vi, thược dược, đào và mai nữa, nhưng nay những cây hoa đó không còn, sân lá gạch phẳng lì một cách vô duyên. Cất những bộ đồ quý lên nhà xong Mẫn mới nói với mẹ: “Mẹ đưa tiền cho con đi đóng học cho cô Uyên đầu làng” (Uyên là cô gái chàng yêu). Chàng đạp chiếc xe vélo solex, xe đi rất chậm và rất nặng vì máy không nổ. Tới đầu làng chàng dựng xe vào một bục gạch. Một tên say rượu nhô đầu ra la hét, lũ trẻ quanh đấy sợ hãi dạt ra xa. Gần nhà người say rượu là chiếc lô-cốt nhưng bên trong không giam người mà thấp thoáng một con chó hung hăng như hổ, Mẫn phải đi vòng sau căn nhà giam đó để tới nhà Uyên. Cô gái đưa chàng lên gác, cầu thang lớn, căn gác rộng gió thổi lộng vì bốn bề chỉ có cột chống mà không có tường. Chiếc giường của nàng kê chính giữa như một chiếc huyệt nổi và cả căn gác bỗng biến thành nhà mồ, nhưng Mẫn không thấy ghê rợn, trái lại thấy thèm khát ái tình vì gió càng trở nên lộng và lạnh. Hai người tới ngồi trên giường, Mẫn quệt má Uyên nói: “Em ngủ một mình ở đây lạnh lắm nhỉ?” Nàng cười ưng chịu. Thế là bước đầu khó khăn đã qua. Nàng hỏi: “Anh lạnh lắm sao?” và trao cho chàng lọ dầu. Cái nắp bỗng bị gió thổi bay xuống bực thang. Chàng vội lần xuống bực thang nhặt chiếc nắp, khi trở lại ôm nàng liền và kéo nàng nằm xuống giường, vì kéo quá mạnh một cánh tay nàng bị mắc kẹt khoảng dưới lưng nhưng chàng vẫn cúi xuống hôn nàng mặc cho cánh tay bị đè dưới hai lần sức nặng…

Sực tỉnh dậy Mẫn vùng ra ban công. Thấy có tiếng động phía trên Mẫn ngửng đầu lên hỏi “Anh còn thức sao?” Viên sĩ quan nhô đầu nhìn xuống đáp: “Tôi vừa thức giấc thôi!” Cả hai cùng nhìn về phía trước vì một trái hỏa châu vừa bắn lên rực rỡ cả vòm trời khuya, tiếng trống liên hoàn với tiếng “ùng oàng” của trọng pháo, một phi cơ phản lực sẹt qua nền trời thủ đô.

Khuôn mặt hiền từ của người bác xuất hiện với tiếng thở điều hòa, khuôn mặ cổ kính và thanh nhàn. Ông mơ thấy mình đang đánh răng cùng với một người đàn bà, ông không chú ý xem người đó có đẹp hay không, điều đó quá với tuổi ông, ông chỉ coi người đàn bà như người bạn đồng hành. Ông và người đó đánh răng rất kỹ càng một thứ muối tán nhỏ mằn mặn và có tính cách sát trùng. Trong giấc mơ ông cho điều kiện căn bản của nếp sống tập thể là miệng mọi người phải sạch và thơm như vậy chiên hậu mới tính chuyện bàn bạc việc này việc khác. Rồi ông ra khỏi cửa bỏ quên người đàn bà ở nơi phòng đánh răng. Ông đi vào một cánh đồng rộng mà không nhận ra ngay là cánh đồng làng, vì lũy tre dài và rộng thế kia đúng là lũy tre nơi chôn rau cắt rốn của ông, cái đình uy nghi nhường kia nhìn ra cánh đồng mở rộng có con quy thế kia đúng là đình làng ông rồi còn gì. Thế là ông say mê ngắm lại hướng đình làng với khoảng nước ngọc trai giai thủy lênh láng màu bạc quý giá. Hình như trời mưa và thềm nước ngọc đó dâng lên…dâng lên đầu…dưới một thứ ánh sáng dìu dịu nửa như ánh trăng, nửa như ánh mặt trời chiều. Tiếng chuông nhà thờ gần đấy vang lên đó là chuông lễ nhất khoảng bốn giờ rưỡi sáng. Tiếng chuông lẫn vào trong giấc mơ cảu người bác trở thành muôn vàn êm ả, tiếng chuông như được vo tròn thành từng khối bông nhẹ nhõm vàng màu nắng quái rồi cuốn theo gió chiều lăn nhẹ trên những ngọn lúa xanh màu con gái của cánh đồng quê mênh mông. Người bác thấy như mình đương được nghe vang vọng ngân nga tiếng chuông chùa làng. Phải chuông đó được đúc là từ Lý Thân Tông, tục truyền nhà vui là hậu thân của ngài Từ Đạo Hạnh.