← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2 QUÁ KHỨ CỦA THẦY TRỪ TÀ

Hai ngày sau, trở lại Chipenden, Thầy Trừ Tà bắt tôi kể lại mọi chuyện. Khi tôi kể xong, thầy lại bắt tôi lặp lại. Lặp lại xong, thầy gãi gãi chòm râu mà thở dài thật lớn.

“Thế thầy thuốc đã nói gì về ông anh gàn dở của ta vậy?” Thầy Trừ Tà hỏi. “Thầy thuốc có cho là ông ta sẽ bình phục không?”

“Thầy thuốc bảo có vẻ như cha xứ đã qua giai đoạn tồi tệ nhất rồi, nhưng vẫn còn quá sớm nên chưa thể kết luận gì đâu ạ.”

Thầy Trừ Tà trầm ngâm gật đầu. “Ừ thôi, này anh bạn, con đã làm rất tốt,” thầy bảo. “Ta không nghĩ ra được bất cứ điều gì mà đáng lẽ con phải làm tốt hơn. Vậy nên con được phép nghỉ ngơi đến hết ngày hôm nay. Nhưng đừng có ngủ quên trên chiến thắng nhé. Ngày mai mọi việc trở lại như cũ đấy. Sau bao nhiêu chuyện phấn khích ấy, con cần phải trở lại luyện tập như thường thôi.”

Ngày hôm sau, thầy lại bắt tôi luyện tập nặng nhọc gấp đôi bình thường. Những bài học bắt đầu ngay lúc bình minh ló dạng và bao gồm cả phần mà thầy gọi là “phần thực hành”. Mặc dù giờ đây tôi đã chèn được một ông kẹ thực thụ rồi, nhưng vẫn có nghĩa là tôi phải thực hành đào hố.

“Con có cần phải đào thêm hố chèn kẹ nào nữa không vậy thầy?” tôi mệt mỏi hỏi.

Thầy Trừ Tà khinh khỉnh nhìn tôi mãi cho đến khi tôi phải cụp mắt xuống, bụng cảm thấy thật ái ngại.

“Này anh bạn, con nghĩ giờ con giỏi hơn cả rồi phải không?” thầy hỏi. “Không, con chẳng giỏi gì đâu, cho nên đừng có mà tự mãn! Con vẫn còn phải học hỏi nhiều lắm. Đúng là con đã chèn được ông kẹ đầu tiên của mình, nhưng đấy là khi con được những người rất thạo việc giúp cho cơ mà. Một ngày nào đó, biết đâu con phải tự mình đào hố và phải làm thật nhanh để cứu lấy một mạng người thì sao.”

Sau khi đào xong chiếc hố và sơn phủ khắp bằng muối và sắt, tôi lại phải thực hành đặt đĩa mồi vào trong lòng hố mà không làm sánh ra ngoài một giọt máu nào. Đương nhiên, vì đây là chỉ là một phần trong quá trình luyện tập nên chúng tôi sử dụng nước lã thay cho máu thật, tuy vậy, Thầy Trừ Tà vẫn rất coi trọng việc này và thường hay nổi đóa nếu tôi không thành công ngay lần đầu tiên. Nhưng lần này thầy chẳng có cơ hội đâu nhé. Tôi đã xoay xở ổn thỏa ở Horshaw và tôi thực hành cũng giỏi không kém, mười lần liên tục thành công cả mười. Nhưng dù là vậy, Thầy Trừ Tà cũng chẳng khen tôi lấy một tiếng, thế nên tôi bắt đầu thấy hơi hơi bực mình.

Tiếp đến là phần thực hành mà tôi thực sự rất thích – tập sử dụng sợi xích bạc của Thầy Trừ Tà. Trong khu vườn phía Tây có một chiếc cột cao một mét tám được dựng lên với mục đích là để quất sợi xích quấn vòng quanh nó. Thầy Trừ Tà bắt tôi đứng cách cây cột này từ nhiều khoảng cách khác nhau để tập luyện ở mỗi vị trí một tiếng, trong đầu luôn phải tâm niệm là một lúc nào đấy có thể tôi sẽ đối mặt với một mụ phù thủy thực thụ, và nếu tôi quất hụt thì chẳng còn cơ hội làm lại nữa. Có một cách chuyên biệt để sử dụng sợi xích. Ta phải cuộn tròn sợi xích vào bàn tay trái và vung xích ra bằng cách vẫy cổ tay cho nó tung theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, rơi xuống thành hình xoắn ốc từ trái qua phải để bọc lấy cây cột mà thít chặt vào đấy. Từ khoảng cách hai mét rưỡi, giờ đây mười lần hết chín là tôi có thể quấn sợi xích quanh cột, nhưng như thường lệ, Thầy Trừ Tà chỉ khen mai mỉa.

“Không tồi nhỉ, chắc vậy,” thầy bảo. “Nhưng đừng tự mãn nhé anh bạn. Một phù thủy thực sự sẽ không ngoan ngoãn đứng yên đó cho con tung xích ra đâu. Đến cuối năm nay, ta mong con làm được mười lần hết cả mười chứ không được kém hơn đâu đấy!”

Đến đây, tôi lại càng thấy bực bội hơn. Bao lâu nay tôi luyện tập rất chăm và đã tiến bộ rất nhiều. Đâu chỉ có thế, tôi cũng vừa mới chèn được một ông kẹ và ra tay khi chẳng có sự trợ giúp nào từ Thầy Trừ Tà nữa cơ mà. Tôi buộc lòng thắc mắc, chẳng biết khi còn là chân học việc thầy có làm giỏi bằng tôi không đây.

Vào buổi chiều, Thầy Trừ Tà cho phép tôi lên thư viện tự học, đọc tài liệu và ghi chép, nhưng thầy chỉ cho tôi đọc một số sách nhất định. Về điều này thì thầy rất nghiêm. Tôi vẫn còn trong năm học việc đầu tiên, cho nên ông kẹ là lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu của tôi. Nhưng thi thoảng, khi thầy phải ra ngoài làm việc gì đó, tôi cũng không thể không nhìn qua vài cuốn sách khác của thầy.

Vậy là, sau khi đọc chán chê về ông kẹ, tôi đi đến ba dãy kệ dài gần cửa sổ để chọn ra một trong những cuốn sổ ghi chép bìa da to tướng từ tầng kệ trên cùng. Đấy là những cuốn nhật ký, vài cuốn do các thầy trừ tà viết ra cách đây hàng trăm năm. Mỗi cuốn được ghi chép trong khoảng năm năm.

Lần này tôi biết chính xác mình đang tìm kiếm gì. Tôi chọn lấy mấy cuốn nhật ký mới đây nhất của Thầy Trừ Tà, lòng tò mò muốn biết lúc trẻ thầy đã kham lấy việc này như thế nào và liệu thầy có tài giỏi hơn tôi hay chăng. Tất nhiên, thầy đã từng là cha xứ trước khi được huấn luyện thành người trừ tà, nên chắc chắn khi học việc hẳn là thầy lớn tuổi lắm rồi.

Mà thôi, tôi chọn đại vài trang và bắt đầu đọc. Dĩ nhiên tôi nhận ra chữ viết tay của thầy, nhưng nếu là người lạ lần đầu tiên đọc một đoạn trích trong này sẽ không thể nào đoán ra là do chính Thầy Trừ Tà đã viết. Khi nói chuyện, giọng thầy đặc sệt giọng dân vùng Hạt điển hình, rất bình dân và không hề có hơi hướm gì theo kiểu mà bố tôi hay gọi là “ra vẻ thanh tao”. Nhưng khi thầy viết thì lại khác. Cứ như thể mọi cuốn sách thầy đọc qua đã làm thay đổi giọng văn của thầy, trong khi đó tôi chủ yếu nói sao viết vậy; nếu bố tôi có khi nào đọc được những ghi chép của tôi, hẳn ông sẽ rất tự hào về tôi và biết rằng tôi vẫn là con trai của bố.

Thoạt tiên, những gì tôi đọc dường như không khác với những ghi chép của Thầy Trừ Tà dạo gần đây, trừ mỗi việc là thầy phạm nhiều sai lầm hơn. Như mọi khi, thầy luôn luôn thành thực, và mỗi lần thầy đều giải thích vì sao mình đã sai. Cũng như thầy luôn nhắc nhở tôi rằng, việc viết lại mọi chuyện là rất quan trọng, vì nhờ đó ta có thể học hỏi từ những gì đã qua.

Có một tuần, thầy giải thích mình đã bỏ ra hàng giờ đồng hồ luyện tập với đĩa mồi như thế nào và thầy của thầy đã giận dữ ra sao vì thầy không thể làm tốt hơn mức trung bình là tám trên mười lần! Chuyện này làm tôi thấy vui hơn hẳn. Và rồi tôi đọc được điều còn làm cho tinh thần mình phấn chấn hơn. Phải làm chân học việc cho đến gần mười tám tháng, Thầy Trừ Tà mới chèn được ông kẹ đầu tiên. Mà lại nữa, đấy chỉ là một kẹ lông lá chứ chẳng phải kẹ xé xác nguy hiểm gì!

Đấy là điều hay ho nhất tôi có thể tìm thấy để khích lệ bản thân: rõ ràng Thầy Trừ Tà từng là một người tập sự chăm chỉ, tài giỏi. Rất nhiều phần tôi tìm thấy chỉ toàn là những việc thường ngày, nên tôi nhanh chóng lật qua cho đến thời điểm thầy tôi trở thành thầy trừ tà chuyên nghiệp hoạt động một mình. Tôi đã đọc hết những gì mình thực sự cần biết và chuẩn bị gấp sách lại thì có điều gì đấy đập vào mắt tôi. Tôi lật ngược trở lại phần ghi chép ấy để kiểm lại cho chắc, và đây là những gì tôi đã đọc. Cũng không phải chính xác từng từ một như thế nhưng tôi có trí nhớ tốt nên đây cũng gần giống lắm rồi. Sau khi đọc xong những gì thầy viết, chắc chắn tôi sẽ không quên đi được.

Vào cuối thu, tôi du hành mãi lên miền Bắc của Hạt, được gọi lên đấy để đối phó với một dị nhân, kẻ từ bao lâu nay gieo rắc kinh hoàng lên khắp trấn. Rất nhiều gia đình trong vùng đã phải khốn khổ dưới bàn tay tàn bạo của kẻ này và đã có biết bao thương vong tàn tật.

Tôi bước vào khu rừng lúc trời chạng vạng. Toàn bộ lá cây đã rụng rơi, mục ruỗng xếp lớp nâu đen dưới mặt đất, và tòa tháp trông như một ngón tay quỷ sứ đen tối chĩa thẳng lên trời. Tôi nhìn thấy một cô gái đang vẫy tay từ ô cửa sổ độc nhất của tòa tháp, điên cuồng vẫy gọi xin cứu giúp. Kẻ kia đã bắt lấy cô ấy làm của riêng và giờ đây giam giữ cô ấy để tiêu khiển, cầm tù cô giữa những bức tường đá nặng nề nhớp nháp kia.

Đầu tiên tôi nhóm lửa rồi ngồi xuống, vừa đưa mắt nhìn ngọn lửa chăm chăm vừa thu gom lòng can đảm. Tôi lấy viên đá mài ra khỏi túi, mài thật sắc lưỡi dao của mình cho đến khi những ngón tay tôi không thể nào chạm vào lưỡi dao mà không đổ máu. Cuối cùng, đến đúng nửa đêm, tôi đi đến ngọn tháp và gióng lên lời thách thức vào cánh cửa bằng cây trượng của mình.

Sinh vật ấy xông ra với tay khua dùi cui loạn xạ và rống lên giận dữ. Đây là một thứ xấu xí trong lốt thú vật, toàn thân nồng nặc mùi máu tanh và mỡ động vật hôi thối, và nó tấn công vào tôi với lòng phẫn nộ kinh hoàng.

Thoạt đầu tôi thối lui, chờ cơ hội ra tay, nhưng sau đấy, khi sinh vật ấy phóng đến, tôi liền rút lưỡi dao từ ngách bí mật trên thanh trượng ra, và, với hết sức bình sinh, tôi thọc thẳng lưỡi dao vào đầu nó. Nó ngã vật xuống chết ngắc dưới chân tôi nhưng tôi chẳng thấy hối tiếc gì về việc đã kết liễu đời sinh vật này, vì bằng không nó sẽ lại giết người mải miết và sẽ chẳng bao giờ chán chê thỏa mãn.

Đúng lúc ấy, cô gái lớn tiếng gọi tôi, giọng nói thánh thót của cô dẫn dụ tôi bước lên những bậc cấp bằng đá. Rồi ở nơi đấy, trên căn phòng cao nhất của tòa tháp, tôi tìm thấy cô trên một đụn rơm, bị một sợi xích bạc dài trói chặt. Với làn da trắng mịn như sữa và mái tóc dài mượt, cô ấy là người phụ nữ xinh đẹp nhất mà tôi từng thấy. Tên cô ấy là Meg và cô năn nỉ được tháo khỏi sợi xích, giọng nói cô ấy thiết tha thuyết phục đến nỗi bao lý lẽ của tôi bay biến đi đâu mất và cả thế giới quanh tôi quay cuồng.

Ngay khi tôi vừa gỡ cô ấy ra khỏi cuộn xích thì cô ấy đã ghì sát môi mình lên môi tôi. Những nụ hôn của cô ngọt ngào đến nỗi tôi gần như lả đi trong vòng tay cô ấy.

Tôi thức dậy khi ánh nắng mặt trời rọi thành tia qua cửa sổ và lần đầu tiên mới nhìn thấy cô ấy được rõ ràng. Cô ấy là một trong những phù thủy nữ yêu và người cô mang dấu vết của loài rắn. Dù khuôn mặt cô xinh đẹp đến nhường ấy, nhưng dọc xương sống cô vẫn còn phủ đầy vảy màng vàng khè và xanh lục.

Lòng cuộn trào phẫn nộ vì bị lừa gạt, tôi trói cô lại bằng xích và mang cô đến tận chiếc hố ở Chipenden. Khi tôi gỡ xích ra, cô đã chống cự quyết liệt tới mức tôi không thể chế ngự được cô mà buộc phải nắm lấy mớ tóc dài rồi lôi xềnh xệch cô xuyên qua những rặng cây, trong khi cô hét la quát mắng đến đinh tai nhức óc. Hôm ấy trời mưa nặng hạt và cô cứ té trượt trên cỏ ướt, nhưng tôi vẫn tiếp tục lôi cô dọc theo bãi đất, dẫu cho hai tay hai chân trần của cô bị bụi cây mâm xôi cào xước cả. Chuyện này thật tàn nhẫn nhưng vẫn phải được tiến hành thôi.

Nhưng khi tôi chuẩn bị thảy cô qua miệng hố, cô bám lấy đầu gối tôi và bắt đầu khóc lóc đến tội nghiệp. Tôi đứng đó thật lâu, lòng đau đớn, sém chút loạng choạng ngã nhào xuống hố, cho đến khi tôi đưa ra quyết định mà biết đâu sau này mình phải hối tiếc.

Tôi giúp cô đứng dậy, choàng tay ôm cô rồi cả hai chúng tôi cùng khóc. Làm sao tôi có thể xô cô ấy xuống hố khi tôi nhận ra mình đã yêu cô ấy còn hơn chính tâm hồn mình?

Tôi van cô ấy tha lỗi cho mình rồi chúng tôi cùng nhau quay đi, tay nắm chặt tay, bước đi xa khỏi hố.

Từ lần chạm trán đó tôi thu nhặt được một sợi xích bạc, một dụng cụ đắt tiền mà hẳn là tôi sẽ phải lao động cực nhọc nhiều tháng liền mới có thể có được. Nhưng thứ tôi đã đánh mất, hay là chưa mất hẳn, thì tôi không dám nghĩ đến.

Sắc đẹp là một điều kinh khủng; nó trói buộc một người đàn ông còn chặt hơn một sợi xích bạc quấn quanh phù thủy.

Tôi không thể tin được những gì mình vừa đọc! Trước kia Thầy Trừ Tà không chỉ một lần nhắc nhở tôi về những người phụ nữ xinh đẹp, nhưng thầy lại phá vỡ quy tắc của chính mình! Meg là một phù thủy, thế mà thầy lại không đẩy mụ ta xuống hố!

Tôi nhanh tay lật coi qua hết phần còn lại của cuốn sổ ghi chép, lòng thầm mong tìm thấy có trang nào đề cập đến mụ ta nữa không, nhưng chẳng có gì – không có gì sất! Giống như là mụ ta không còn tồn tại nữa.

Tôi hiểu biết kha khá về phù thủy, nhưng trước đây chưa từng nghe đến phù thủy nữ yêu bao giờ, thế nên tôi cất cuốn sổ vào chỗ cũ rồi tìm kiếm từ dãy kệ tiếp theo trở xuống, nơi các cuốn sách được sắp xếp theo thứ tự chữ cái. Tôi mở cuốn sách mang nhãn Phù thủy ra nhưng trong đấy không đề cập đến mụ Meg nào. Tại sao Thầy Trừ Tà không viết gì về mụ ta hết vậy? Chuyện gì đã xảy ra cho mụ ấy? Mụ có còn sống không? Vẫn còn ở đâu đó ngoài kia, quanh quất trong Hạt không nhỉ?

Tôi rất lấy làm tò mò và nảy ra một ý kiến khác; tôi lôi cuốn sách to tướng từ dãy kệ dưới cùng ra. Cuốn này mang tiêu đề Toàn thư về thú vật và trong đấy liệt kê theo thứ tự bảng chữ cái tất tần tật các loài sinh vật, bao gồm cả phù thủy. Cuối cùng tôi cũng tìm ra được mục mình cần: Phù thủy nữ yêu.

Dường như phù thủy nữ yêu không phải phù thủy bản địa ở Hạt, mà chúng đến đây từ những vùng đất xa xôi bên kia biển lớn. Chúng tránh xa ánh sáng mặt trời, nhưng vào ban đêm chúng tìm bắt đàn ông làm mồi và uống máu của họ. Chúng là loại biết biến hình và thuộc vào hai loại khác nhau: loại hoang dại và loại thuần dưỡng.

Loại hoang dại là những phù thủy nữ yêu trong trạng thái tự nhiên, rất nguy hiểm và không thể lường trước được, với hình dạng cơ thể rất ít giống con người. Tất cả đều có vảy thay vì da và mang móng vuốt thay cho móng tay. Một số thì bò trườn trên mặt đất bằng cả hai tay hai chân, trong khi một số khác phần thân trên lại có cánh, lông vũ và có thể bay được một quãng ngắn.

Nhưng một phù thủy nữ yêu hoang dại có thể biến thành loại thuần dưỡng bằng cách kết giao mật thiết với con người. Dần dà sau đấy, loại này sẽ mang vào mình hình dáng của một người phụ nữ và trông rất giống người, ngoại trừ một dải hẹp những vảy màu vàng khè và xanh lục vẫn còn lộ rõ dọc theo sống lưng. Những phù thủy nữ yêu thuần dưỡng thậm chí còn được biết đến là có thể chia sẻ những đức tin của con người. Thông thường thì chúng thôi không còn ác nữa mà trở thành lành, làm những việc vì lợi ích của người khác.

Vậy thì Meg rốt cuộc có trở thành lành hay không? Liệu Thầy Trừ Tà có đúng khi đã không chèn mụ ta xuống hố?

Đột nhiên tôi nhận ra đã muộn lắm rồi nên tôi vùng chạy ra khỏi thư viện để đến lớp học, trong đầu vẫn còn mòng mòng đủ chuyện. Vài phút sau, thầy trò tôi đi đến mép khu vườn phía tây, đứng dưới những rặng cây nhìn ra toàn cảnh rõ ràng của các rặng núi đá, mặt trời mùa thu đang lùi dần về phía chân trời. Tôi ngồi trên băng ghế như mọi khi, bận rộn với việc ghi chép trong khi Thầy Trừ Tà đi đi lại lại đọc chính tả. Nhưng tôi không tài nào tập trung được.

Chúng tôi bắt đầu bài học tiếng La tinh. Tôi có một cuốn sổ đặc biệt để ghi chép văn phạm và những từ vựng mới mà Thầy Trừ Tà dạy cho. Cuốn sổ đầy đặc các danh sách và gần kín hết chỗ.

Tôi những muốn đối mặt Thầy Trừ Tà mà hỏi cho ra lẽ về những gì mình vừa đọc được, nhưng sao mà làm đây? Bản thân tôi đã vi phạm quy định khi không chỉ đọc những cuốn sách thầy từng chỉ rõ. Đáng lẽ tôi không được phép đọc những cuốn nhật ký của thầy và giờ đây tôi lại ước sao mình đã không làm thế. Nếu tôi đề cập đến điều này với thầy, tôi biết thầy sẽ giận lắm.

Vì những gì mình đã đọc trong thư viện, tôi cảm thấy mỗi lúc một khó mà chú tâm vào lời thầy đang nói. Tôi cũng rất đói nữa và cứ nôn cho đến giờ ăn tối. Thông thường các buổi tối tôi được toàn quyền tự do làm bất cứ chuyện gì mình thích, nhưng hôm nay thầy bắt tôi luyện tập thật vất vả. Tuy vậy, còn chưa tới một tiếng nữa mặt trời đã lặn rồi và phần khó khăn nhất của các bài học đã qua.

Thế rồi tôi nghe thấy một âm thanh khiến ruột gan tôi rên rỉ.

Là tiếng chuông ngân nga. Không phải chuông nhà thờ đâu. Không, đây là tiếng có âm vực cao hơn, lảnh lót hơn của một chiếc chuông bé hơn nhiều – là chiếc chuông mà các khách đến viếng chúng tôi sử dụng. Không ai được phép đi thẳng đến nhà của Thầy Trừ Tà nên người ta phải đi đến ngã tư đường để rung chuông lên cho thầy tôi biết là họ cần giúp đỡ.

“Con ra xem ai đi nào anh bạn,” Thầy Trừ Tà vừa bảo tôi vừa hất đầu về hướng tiếng chuông. Thường thì cả hai thầy trò sẽ cùng ra xem nhưng giờ thầy hãy còn yếu sức sau cơn bệnh lắm.

Tôi chẳng vội vã gì. Khi đã đi khuất khỏi căn nhà và những khu vườn, tôi chậm nhịp lại để bước thong dong. Giờ này quá gần lúc hoàng hôn nên tối nay chẳng kịp làm gì đâu, nhất là khi Thầy Trừ Tà vẫn còn chưa bình phục hẳn, nên dù là việc gì cũng phải đợi đến sáng mai. Tôi sẽ mang câu chuyện rắc rối ấy về và thuật lại chi tiết cho Thầy Trừ Tà trong bữa tối. Tôi càng trở về muộn bao nhiêu thì sẽ đỡ phải ghi chép bấy nhiêu. Cả ngày nay tôi đã học tập quá đủ rồi và cổ tay tôi đang đau nhức.

Được bao phủ bởi những rặng liễu mà trong Hạt này chúng tôi gọi là “cây liễu gai”, ngã tư đường ấy là một nơi u ám ngay cả vào lúc giữa trưa và nơi này luôn làm tôi bồn chồn lo lắng. Vì một lẽ, bạn không bao giờ biết sẽ có ai đang đứng chờ nơi ấy; vì một lẽ khác, họ hầu như lúc nào cũng mang đến tin xấu bởi đó là lý do khiến họ đến. Họ cần sự giúp đỡ của Thầy Trừ Tà.

Lần này là một anh chàng đang đứng ở đấy. Cậu ta mang đôi ủng to lớn của dân thợ mỏ còn các móng tay thì cáu bẩn. Cậu ta trông còn lo lắng hơn tôi cảm thấy, nhanh miệng liến thoắng thuật lại câu chuyện nhanh đến mức tai tôi nghe theo còn không kịp và tôi phải bảo cậu ta lặp lại. Khi cậu ta rời đi, tôi quay bước trở lại nhà.

Tôi không còn thong dong rảo bước nữa, mà tôi co giò chạy.

Thầy Trừ Tà đang đứng cạnh băng ghế, đầu cúi gằm. Khi tôi tiến đến, thầy nhìn lên và gương mặt thầy dường như u sầu. Không biết sao tôi đoán rằng thầy đã biết tôi sắp nói ra chuyện gì, nhưng đằng nào tôi cũng phải nói.

“Tin xấu từ Horshaw ạ,” tôi vừa nói vừa hổn hển lấy hơi. “Con rất tiếc nhưng đấy là về anh trai của thầy. Thầy thuốc không cứu được ông ấy. Ông ấy đã qua đời sáng hôm qua, ngay trước lúc bình minh. Tang lễ là vào sáng thứ Sáu ạ.”

Thầy Trừ Tà thở hắt một hơi dài và chẳng nói chẳng rằng trong vài phút. Tôi không biết phải nói gì nên đành im lặng. Thật khó mà đoán ra thầy đang cảm thấy thế nào. Vì hai người họ chẳng nói chuyện với nhau trong cả bốn mươi năm nên họ không thể nào thân thiết đến thế, nhưng cha xứ vẫn là anh trai của thầy và hẳn thầy vẫn phải có đôi ba ký ức vui vẻ về ông ta – có lẽ là trước khi họ lời qua tiếng lại với nhau hay là khi họ còn thơ ấu.

Rốt cuộc Thầy Trừ Tà lại thở dài rồi cất tiếng.

“Thôi đi nào anh bạn,” thầy bảo. “Ta dùng bữa tối sớm luôn cho rồi.”

Chúng tôi dùng bữa trong im lặng. Thầy Trừ Tà khơi khơi thức ăn làm tôi thắc mắc liệu có phải đấy là vì tin tức không vui về anh trai của thầy hay là vì thầy vẫn chưa ăn được ngon miệng trở lại từ lúc bị ốm. Thường thì thầy cũng nói đôi ba lời gì đó, ngay cả chỉ để hỏi tôi bữa ăn như thế nào. Đấy dường như là một thông lệ vì chúng tôi cứ phải ca ngợi ông kẹ Thầy Trừ Tà nuôi trong nhà, là ông kẹ đã chuẩn bị các bữa ăn, nếu không nó sẽ hờn dỗi ngay. Những lời ca ngợi trong bữa tối là rất quan trọng, bằng không vào sáng hôm sau thịt muối sẽ cháy khét cho xem.

“Món thịt hầm khoai tây thật ngon ạ,” mãi sau tôi lên tiếng. “Con không nhớ lần cuối cùng mình được ăn món thịt hầm ngon dường này là khi nào.”

Ông kẹ đa phần là vô hình nhưng nhiều khi nó cũng đội lốt một con mèo hung to tướng; và nếu rất hài lòng, nó sẽ cọ nhẹ vào chân tôi dưới gầm bàn bếp. Lần này thì thậm chí còn không giống như một tiếng gừ thật khẽ. Hoặc là tôi nghe không được thuyết phục cho lắm hoặc nó đang giữ im lặng vì tin xấu.

Thình lình Thầy Trừ Tà đẩy đĩa ra và đưa tay trái lên gãi râu. “Chúng ta sẽ đi đến Priestown,” thầy bất chợt thốt lên. “Tinh mơ ngày mai ta sẽ khởi hành.”

Priestown ư? Tôi không thể tin được những gì mình vừa nghe thấy. Thầy Trừ Tà luôn tránh xa nơi ấy như tránh ổ dịch hạch cơ mà, và có lần thầy từng nói với tôi là thầy sẽ không bao giờ đặt chân vào vùng đấy. Thầy không nói rõ lý do và tôi cũng chưa khi nào hỏi, bởi bạn luôn luôn nhận biết khi nào thì thầy không muốn giải thích chuyện gì đó. Nhưng trước đây, khi chúng tôi đi đến sát vùng duyên hải và cần phải băng qua sông Ribble thì nỗi căm ghét thị trấn này của Thầy Trừ Tà đã trở thành một điều thực sự khó chịu. Thay vì đi qua cây cầu tại Priestown, chúng tôi phải đi vào đất liền hàng dặm dài đến cây cầu tiếp theo để tránh xa thị trấn ấy.

“Tại sao vậy ạ?” tôi hỏi, giọng tôi chỉ hơn tiếng thì thào chút xíu, lòng tự hỏi liệu những gì mình nói có làm thầy nổi cáu hay không. “Con nghĩ có lẽ chúng ta sẽ đi đến Horshaw chứ ạ, để dự tang lễ ấy.”

“Chúng ta sẽ đến dự tang lễ đấy anh bạn,” Thầy Trừ Tà đáp, giọng thầy thật bình tĩnh và kiên nhẫn. “Ông anh trai ngớ ngẩn của ta chỉ làm việc tại Horshaw thôi, nhưng ông ta là cha xứ: nếu một cha xứ trong Hạt mất đi, người ta sẽ đem xác ông ta về lại Priestown để tổ chức tang lễ trong thánh đường ở đấy rồi mới cho hài cốt ông ta an nghỉ trong sân nhà thờ.

“Vậy là chúng ta sẽ đến đó để bày tỏ nghĩa tử. Nhưng đấy không phải là lý do duy nhất. Ta còn có chút chuyện dang dở ở cái thị trấn đáng nguyền rủa đó. Lấy sổ ghi chép của con ra nào, anh bạn. Lật sang trang trống mà viết tiêu đề này vào nào...”

Tôi còn chưa ăn xong món thịt hầm của mình nhưng tôi vẫn làm ngay theo lời thầy. Khi thầy bảo “chút chuyện dang dở”, tôi hiểu ngay đấy là công việc của người trừ tà, nên tôi lấy lọ mực từ túi ra đặt xuống bàn, ngay cạnh đĩa thức ăn của mình.

Nhiều chuyện nảy ra trong đầu tôi. “Thầy muốn nói đến ông kẹ xé xác mà con đã chèn ấy ạ? Thầy nghĩ là nó trốn thoát rồi sao? Lúc ấy không có đủ thời gian để đào cho được hai mét bảy. Thầy nghĩ là nó trốn sang Priestown ạ?”

“Không phải đâu anh bạn, con làm rất tốt. Ở nơi đấy còn có thứ xấu xa hơn thế nhiều. Thị trấn ấy bị nguyền rủa! Bị nguyền rủa bởi thứ mà lần cuối cùng ta đối mặt với nó là hai mươi năm trước. Khi đấy hắn mạnh hơn ta và làm ta phải nằm liệt giường trong sáu tháng. Thật ra là ta sém mất mạng ấy chứ. Kể từ đấy ta chưa khi nào quay lại Priestown, nhưng vì chúng ta cần phải đến nơi ấy nên ta xử lý chút chuyện dang dở luôn cho rồi. Không, đâu phải chỉ đơn thuần là loại kẹ xé xác nào đó đang hoành hành tại thị trấn ấy. Đấy là một linh hồn độc ác cổ xưa được gọi là ‘Quỷ Độc’ và là thứ độc nhất vô nhị. Sinh vật này mỗi lúc mỗi thêm lớn mạnh nên phải có gì đó cần được thực thi và ta không thể nào tránh né mãi được.”

Tôi viết lên tiêu đề “Quỷ Độc” lên đầu trang mới nhưng rồi, thật thất vọng làm sao, bỗng nhiên Thầy Trừ Tà lắc đầu rồi tiếp theo sau đấy lại ngáp rõ to.

“Mà thôi nhắc đến chuyện này, để mai hẵng nói đến cũng được, anh bạn à. Con ăn nốt bữa tối đi. Sáng mai chúng ta sẽ khởi hành sớm nên tốt nhất là chúng ta nên đi ngủ.”