CHƯƠNG 19 THẠCH MỘ-
Lúc này là ban ngày nên sẽ chẳng có mối đe dọa trực tiếp nào từ Quỷ Độc. Cũng như bao giống loài của bóng tối, hắn đang phải ẩn náu dưới lòng đất. Và khi Alice bị bịt mắt bịt tai như thế này rồi, hắn sẽ không còn có thể nhìn qua mắt cô ấy hay lắng nghe những gì chúng tôi trao đổi. Hắn sẽ không biết chúng tôi đang ở đâu.
Tôi từng nghĩ sẽ phải có thêm một ngày cuốc bộ vất vả nữa và thắc mắc không biết liệu chúng tôi có đến được Heysham trước khi tối trời hay không. Nhưng ngạc nhiên làm sao là Thầy Trừ Tà đã đưa chúng tôi ngược lên một đường mòn dẫn đến một nông trại và đứng chờ ngoài cổng, đám chó sủa inh ỏi đinh tai nhức óc, trong khi một lão nông khập khiễng chống gậy đi đến. Trên mặt ông ta lộ rõ vẻ lo lắng.
“Tôi xin lỗi,” ông ta rên rỉ. “Tôi thật sự xin lỗi, nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Nếu có thì tôi đã đưa cho ông rồi.”
Hình như năm năm trước Thầy Trừ Tà đã giúp diệt trừ một ông kẹ quấy phá khỏi nông trại của ông già này và thầy vẫn chưa được trả công. Giờ thì thầy tôi muốn được trả công nhưng không phải bằng tiền.
Trong vòng nửa tiếng, chúng tôi đã ngồi trên cỗ xe do một trong những con ngựa thồ to lớn nhất mà tôi từng thấy kéo; ngồi đánh xe là con trai của lão nông nọ. Thoạt đầu, trước khi khởi hành, anh ta đã nhìn vào Alice đang bị bịt mắt, vẻ mặt hoang mang không hiểu.
“Thôi ngay cái trò trố mắt nhìn con bé mà tập trung vào việc của anh đi!” Thầy Trừ Tà nạt um lên làm anh chàng vội vã nhìn đi chỗ khác. Có vẻ anh ta rất vui khi chở chúng tôi đi, mừng vì được thoát khỏi công việc đồng áng thường ngày trong vài tiếng đồng hồ, và chẳng mấy chốc chúng tôi đã men theo những con đường tắt, đi qua khu vực Đông Caster. Thầy Trừ Tà bắt Alice nằm xuống trong xe và dùng rơm che lên mình cô ấy để người đi ngang khỏi nhìn thấy.
Rõ ràng là con ngựa này vốn quen với việc kéo những thồ hàng nặng, nên trong khi chỉ có ba chúng tôi ngồi ở sau thì nó phóng như bay. Thấp thoáng xa xa chúng tôi có thể nhìn thấy thị trấn Caster cùng những tòa lâu đài ở đấy. Rất nhiều phù thủy từng mất mạng tại nơi này sau một phiên xử dài, nhưng ở Caster người ta không hỏa thiêu phù thủy, mà lại treo cổ. Vậy nên, nói theo thuật ngữ thủy thủ của bố tôi thì, chúng tôi “bẻ lái đánh vòng” khỏi thị trấn ấy, và không lâu sau đấy đã bỏ xa nơi này và băng qua cây cầu bắc ngang sông Lune, sau đấy đổi hướng tiến về phía Tây - Nam đi đến Heysham.
Anh chàng nông dân được bảo đứng chờ chúng tôi ở cuối con đường ven rìa làng.
“Bọn ta sẽ quay lại lúc bình minh,” Thầy Trừ Tà bảo. “Đừng lo. Ta sẽ trả công cho anh xứng đáng.”
Chúng tôi leo theo con đường mòn ngược lên đồi, về phía tay phải là một nhà thờ cũ kỹ và một bãi tha ma. Tại đấy, bên phía mạn đồi khuất gió, vạn vật tĩnh lặng, những cây cổ thụ cao to phủ bóng xuống các thạch mộ. Nhưng khi leo qua cánh cổng trên đỉnh mỏm đá thì một cơn gió xiết mang theo mùi vị của biển thốc vào chúng tôi. Trước mặt chúng tôi là tàn tích của một căn nhà nguyện bằng đá nho nhỏ chỉ còn sót lại ba vách tường dựng đứng. Chúng tôi đã leo lên khá cao và tôi có thể nhìn thấy vịnh bên dưới cùng bãi cát dài đang bị thủy triều bao phủ gần hết, kế đến là sóng biển đang vỗ ầm ào vào vách đá của doi đất nhỏ phía xa.
“Đa phần những bờ biển ở phía Tây đều bằng phẳng,” Thầy Trừ Tà giảng giải, “và đây là vách đá cao nhất trong Hạt. Người ta bảo đây là nơi con người đầu tiên đặt chân lên Hạt. Họ đến từ vùng đất miền Tây xa xôi và thuyền của họ bị mắc cạn vào bãi đá bên dưới kia. Hậu duệ của họ đã dựng lên nhà nguyện này.”
Thầy chỉ tay và nơi đấy, ngay phía sau đám tàn tích, tôi trông thấy những thạch mộ. “Trong toàn Hạt chẳng còn nơi nào khác giống nơi này đâu,” Thầy Trừ Tà bảo.
Được khắc sâu vào một phiến đá lớn, ngay bên mép ngọn đồi dốc đứng, là một dãy sáu cỗ quan tài, tất cả đều mang hình dáng thân thể người cùng một nắp đậy bằng đá đặt khít vào rãnh khắc. Các cỗ quan tài này có hình dạng kích thước khác nhau nhưng nhìn chung đều khá nhỏ, như được đẽo ra cho con nít vậy, nhưng đây lại là những nấm mồ của sáu Người Lùn. Sáu người con trai của vua Heys.
Thầy Trừ Tà quỳ xuống cạnh ngôi mộ gần nhất. Trên đầu mỗi ngôi mộ là một hốc hình vuông và thầy lần ngón tay mình theo quanh hốc ấy. Đoạn thầy duỗi những ngón tay bên bàn tay trái. Khoảng gang tay của thầy vừa che đủ hốc đá kia.
“Giờ thì cái này có thể được dùng làm gì nào?” thầy tự mình lẩm bẩm.
“Những Người Lùn lớn đến mức nào ạ?” tôi hỏi. Những nấm mồ có kích thước khác nhau, và khi quan sát kỹ, tôi nhận thấy chúng không thật nhỏ như mình thoạt tưởng.
Để trả lời tôi, Thầy Trừ Tà mở túi lôi ra một thanh thước gấp. Thầy mở thanh thước ra để đo nấm mồ.
“Ngôi mộ này dài khoảng một mét sáu,” thầy thông báo, “và phần giữa rộng khoảng mười ba phân rưỡi. Nhưng còn có nhiều vật dụng tư trang được chôn theo Người Lùn để họ dùng ở thế giới bên kia nữa. Vài người trong số họ cao trên một mét rưỡi, còn rất nhiều người khác thì nhỏ con hơn hẳn. Thời gian trôi đi, mỗi thế hệ trở nên lớn xác hơn nhờ vào những cuộc hôn nhân lai tạp giữa họ và những kẻ xâm lăng từ ngoài biển. Thế nên giống người này không hẳn đã chết hết rồi đâu. Máu của họ vẫn còn chảy qua huyết quản của chúng ta đấy.”
Thầy Trừ Tà quay sang Alice, và ngạc nhiên thật, thầy mở khăn bịt mắt cho cô. Tiếp đấy thầy còn gỡ cả nút nhét tai, rồi cẩn thận bỏ tất cả vào túi. Alice hấp háy mắt rồi nhìn quanh. Cô trông không được vui vẻ gì lắm.
“Chẳng thích nơi này đâu,” cô phàn nàn. “Có gì đấy không ổn. Cảm giác không hay.”
“Thế cơ à?” Thầy Trừ Tà bảo. “Ừ, đây là điều thú vị nhất mà mi nói trong cả ngày hôm nay đấy. Cũng thật lạ vì ta lại thấy nơi này thú vị đấy chứ. Không gì sánh bằng chút khí biển làm khỏe người cả!”
Tôi thì dường như chẳng thấy có gì làm khỏe người ở đây. Gió đã ngừng thổi và giờ đây những cuộn sương mù xoắn tít đang từ ngoài biển trườn vào, không khí mỗi lúc một trở lạnh hơn. Trong vòng một giờ nữa thôi trời sẽ tối. Tôi biết ý Alice muốn nói gì. Đây là nơi cần phải tránh xa khi hoàng hôn buông xuống. Tôi có thể cảm nhận được thứ gì đó và tôi không nghĩ thứ ấy sẽ thân thiện lắm đâu.
“Có thứ gì đó đang lẩn khuất cạnh đây thầy ạ,” tôi bảo với Thầy Trừ Tà.
“Ta hãy lại kia ngồi và cho thứ ấy chút thời gian làm quen với chúng ta đã nào,” Thầy Trừ Tà lên tiếng. “Chúng ta đâu muốn làm cho thứ ấy hoảng sợ mà biến đi mất...”
“Là hồn ma của Naze ạ?” tôi hỏi.
“Ta hy vọng là vậy. Chắc chắn hy vọng thế. Nhưng chúng ta sẽ sớm biết thôi. Cứ kiên nhẫn đã.”
Chúng tôi ngồi xuống bên bờ cỏ cách đấy một quãng, trong khi ánh sáng chầm chậm lịm tắt. Tôi càng lúc càng thấy lo.
“Khi trời tối hẳn thì sẽ ra sao ạ?” tôi hỏi Thầy Trừ Tà. “Liệu tên Quỷ Độc sẽ không xuất hiện sao? Giờ thầy đã tháo khăn bịt mắt cho Alice rồi, hắn sẽ biết chúng ta đang ở đâu mất!”
“Ta nghĩ chúng ta ở đây là an toàn lắm rồi,” Thầy Trừ Tà đáp. “Đây có thể là nơi duy nhất trong toàn Hạt này mà hắn phải tránh xa. Có điều gì đó đã được tiến hành tại đây, và nếu ta không lầm, thì Quỷ Độc sẽ không đến gần khu này trong vòng một dặm. Có lẽ hắn biết chúng ta đang ở đâu nhưng hắn chẳng làm được gì. Ta nói có đúng không nào con nhóc kia?”
Alice rùng mình gật đầu. “Hắn đã cố nói chuyện với cháu. Nhưng giọng của hắn rất xa xôi yếu ớt. Hắn thậm chí còn không thể chui vào đầu cháu được.”
“Đấy chính là điều ta hy vọng,” Thầy Trừ Tà nói. “Nghĩa là cuộc hành trình của chúng ta không đến nỗi uổng phí.”
“Hắn muốn cháu ra khỏi đây ngay lập tức. Muốn cháu đi đến chỗ hắn...”
“Và đấy có phải là điều mi muốn không?”
Alice lắc đầu và lại rùng mình.
“Ta mừng khi nghe thế đấy, bởi vì lần tới ấy mà, như ta đã bảo với mi rồi, sẽ chẳng còn ai có thể cứu nổi mi đâu. Bây giờ hắn đang ở đâu?”
“Hắn ở dưới mặt đất. Trong một hang động tối tăm, ẩm ướt. Hắn tự tìm được vài miếng xương nhưng hắn quá đói nên từng ấy xương là không đủ.”
“Được rồi! Giờ đến lúc ta bắt tay vào việc nào,” Thầy Trừ Tà bảo. “Hai đứa náu mình vào giữa mấy bức tường kia đi.” Thầy khoa tay chỉ về đống nhà nguyện đổ nát. “Cố mà chợp mắt lấy một lúc trong khi ta đứng canh gác cạnh mấy ngôi mộ này.”
Chúng tôi không bàn cãi gì và đến ngồi xuống bãi cỏ giữa đống tàn tích của nhà nguyện. Vì bị hổng mất một bức vách nên chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy Thầy Trừ Tà và những nấm mồ. Tôi nghĩ chắc là thầy sẽ ngồi xuống thôi, nhưng thầy vẫn đứng nguyên, tay trái thầy gác lên thanh trượng.
Tôi đã mệt lử nên chẳng bao lâu sau là ngủ thiếp đi. Nhưng đột nhiên tôi choàng tỉnh. Alice đang lay lay vai tôi.
“Gì thế?” tôi hỏi.
“Lão ta đang phí thời gian vô ích kìa,” Alice chỉ tay về phía Thầy Trừ Tà đang lom khom quanh mấy nấm mồ. “Có thứ gì đấy gần bên nhưng là ở đằng sau kia, gần bờ rào ấy.”
“Cậu chắc chứ?”
Alice gật đầu. “Nhưng cậu đi mà nói cho lão ta biết. Nếu do tớ nói thì lão ta sẽ không tử tế lắm đâu.”
Tôi bước về phía Thầy Trừ Tà và gọi to, “Thầy Gregory ơi!” Thầy chẳng động đậy làm tôi thắc mắc phải chăng thầy vừa lom khom vừa ngủ thiếp đi mất rồi. Nhưng sau đó, thật chậm rãi, thầy đứng dậy quay nửa thân trên về phía tôi, còn hai chân vẫn giữ nguyên tại chỗ.
Có vài khoảng trống giữa các đám mây nhưng những mảng ánh sao ấy vẫn không đủ cho tôi nhìn rõ mặt Thầy Trừ Tà. Dưới mũ trùm của thầy chỉ là một khoảng tối đen.
“Alice bảo đằng sau kia có thứ gì đấy, gần bờ rào ấy ạ,” tôi mách với thầy.
“Vậy sao,” thầy lầm bầm. “Thế thì nên ra sau đấy coi xem nào.”
Chúng tôi bước đến phía bờ rào. Chúng tôi càng đến gần, không khí càng trở lạnh nên tôi biết Alice nói đúng. Có một thứ linh hồn nào đấy đang lẩn khuất quanh đây.
Thầy Trừ Tà chỉ tay xuống dưới, rồi thình lình thầy quỳ thụp xuống, giật giật mớ cỏ dài. Tôi cũng quỳ xuống bắt tay vào giúp thầy. Chúng tôi phát hiện ra thêm hai thạch mộ nữa. Một ngôi mộ dài gần một mét rưỡi nhưng mộ còn lại dài chỉ bằng phân nửa. Đấy là ngôi mộ nhỏ hơn hết thảy.
“Có người mang trong mình dòng máu cổ xưa thuần khiết đã được chôn tại đây,” Thầy Trừ Tà nói. “Cùng với đấy là sức mạnh. Đây là ngôi mộ mà chúng ta đang tìm. Chắc chắn hồn ma của Naze sẽ quanh đây thôi! Lùi lại một chút nào anh bạn. Tránh xa nhé.”
“Con không thể ở lại nghe sao hả thầy?” tôi hỏi.
Thầy Trừ Tà lắc đầu.
“Thầy không tin con sao?” tôi lại hỏi.
“Con có tin chính mình không?” là câu trả lời. “Con hãy tự hỏi mình điều ấy đi! Trước hết là khả năng ông ta chỉ hiện hình khi có một người trong chúng ta ở đây thôi. Vả lại, tốt hơn là con không nên nghe cuộc trò chuyện này. Quỷ Độc đọc được tâm trí, không nhớ à? Con có đủ mạnh để ngăn không cho hắn đọc tâm trí của con không? Chúng ta không thể để hắn biết là chúng ta đang làm chuyện này; rằng chúng ta đang có kế hoạch; rằng chúng ta biết được điểm yếu của hắn. Khi hắn len vào được trong các giấc mơ của con, sục sạo trong não con tìm kiếm manh mối và kế hoạch, con có tin tưởng bản thân mình không để lộ điều gì không?”
Tôi không chắc lắm.
“Con là một cậu bé can đảm, là kẻ can đảm nhất trong những người từng học việc với ta. Nhưng con vẫn chỉ là thế thôi, là một chân học việc, và chúng ta không được phép quên điều này. Vậy nên con lùi lại đi nào!” thầy vừa nói vừa xua tay đuổi tôi đi.
Tôi làm theo lời thầy và tấp tểnh quay về chỗ nhà nguyện hoang phế. Alice đang say ngủ nên tôi ngồi xuống bên cạnh cô ấy một chập nhưng chẳng thể yên lòng được. Tôi nôn nao là vì thực sự muốn biết hồn ma của Naze sẽ tiết lộ điều gì. Còn về chuyện Thầy Trừ Tà cảnh báo tôi việc Quỷ Độc sục sạo trong trí tôi khi tôi đang ngủ, chuyện này không làm tôi lo lắng lắm. Ở đây chúng tôi an toàn khỏi tay hắn, và nếu Thầy Trừ Tà tìm ra được điều thầy muốn tìm, thì đến tối mai mọi chuyện với Quỷ Độc coi như chấm dứt.
Thế là tôi lại rời khỏi đống đổ nát ấy mà bò dọc bức tường đến gần Thầy Trừ Tà hơn. Đây không phải là lần đầu tôi không nghe theo lời thầy, nhưng lại là lần đầu tiên sát sao nguy hiểm đến vậy. Tôi ngồi xuống tựa lưng vào tường và chờ đợi. Nhưng chẳng phải chờ lâu. Dù ở cách xa như thế tôi cũng bắt đầu cảm thấy rất lạnh và cứ run lập cập mãi. Một trong những hồn người đã chết đang tiến đến gần, nhưng liệu đấy có phải là hồn ma của Naze?
Một tia sáng le lói bắt đầu tụ lại từ bên trên nấm mồ bé nhất. Không hẳn ánh sáng ấy mang dáng dấp người, mà chỉ là một cột sáng cao chưa tới đầu gối Thầy Trừ Tà. Ngay lập tức tôi nghe thấy tiếng thầy tra hỏi hồn ma ấy. Không gian vắng lặng tịch mịch, và cho dù Thầy Trừ Tà đang kìm giọng thật khẽ, tôi vẫn có thể nghe rõ từng lời thầy nói.
“Nói mau!” Thầy Trừ Tà bảo. “Nói đi, ta ra lệnh cho ngươi đấy!”
“Mặc ta! Để ta yên nghỉ đi!” tiếng trả lời vọng lại.
Mặc dù Naze đã qua đời khi còn rất trẻ và trong thời sung mãn của mình, giọng nói của hồn ma nghe như tiếng một ông lão rất già. Giọng nói ấy rền rĩ khò khè chất chứa sự mệt mỏi rệu rã. Nhưng không nhất thiết đấy không phải là hồn ma của Naze. Thầy Trừ Tà từng nói cho tôi hay rằng những hồn ma không nói năng như khi họ còn sống. Hồn ma liên lạc trực tiếp với tâm trí ta và vì thế ta có thể hiểu được lời của kẻ đã sống từ bao thế hệ trước; kẻ mà lúc xưa có lẽ đã giao tiếp bằng thứ ngôn ngữ khác hẳn.
“Tên ta là John Gregory và ta là con trai thứ bảy của người con thứ bảy,” Thầy Trừ Tà lên giọng. “Ta đến đây để kết thúc chuyện mà đáng lẽ phải được làm từ nhiều năm trước; để chấm dứt bao điều tàn ác của Quỷ Độc và cũng để ban cho ngươi sự an nghỉ cuối cùng. Nhưng đây là những điều ta cần phải biết. Trước hết, ngươi phải nói cho ta biết tên của ngươi!”
Có một sự im lặng kéo dài làm tôi nghĩ hồn ma này sẽ không trả lời đâu, nhưng cuối cùng hồn ma cũng đáp.
“Ta là Naze, con trai thứ bảy của vua Heys. Ngươi muốn biết những gì?”
“Đã đến lúc chấm dứt chuyện này vĩnh viễn,” Thầy Trừ Tà đáp. “Quỷ Độc đã được tự do và sẽ nhanh chóng khôi phục toàn bộ sức mạnh để đe dọa cả vùng đất này. Hắn phải bị tiêu diệt. Nên ta đến đây hỏi lấy kiến thức của ngươi. Ngươi đã chèn hắn vào khu hầm mộ bằng cách nào? Làm thế nào để giết được hắn? Ngươi có thể cho ta biết chăng?”
“Ngươi có mạnh mẽ không?” giọng của Naze khò khè đáp lại. “Ngươi có thể khép tâm trí lại ngăn không cho Quỷ Độc đọc được không?”
“Có, ta có thể làm được chuyện ấy,” Thầy Trừ Tà đáp.
“Vậy thì may ra còn có hy vọng. Ta sẽ cho ngươi biết ta đã làm gì. Ta đã chèn Quỷ Độc bằng cách nào. Trước hết, ta giao kèo với hắn là ta sẽ hiến máu mình cho hắn. Sau khi hắn có thể uống được ba lần rồi, đổi lại hắn phải ba lần tuân theo lệnh ta. Tại nơi sâu tối nhất trong khu hầm mộ ở Priestown là một hốc chôn cất chứa những hũ hài cốt đựng tro các bậc tổ tiên đã khuất của chúng ta, những bậc cha ông của thần dân chúng ta. Chính trong căn phòng đó ta đã cho gọi Quỷ Độc đến để hắn uống máu mình. Để đổi lại ta cũng chứng tỏ mình là một kẻ cứng đầu chặt chẽ.
Lần đầu tiên ta ra lệnh cho Quỷ Độc không bao giờ được bén mảng đến nơi gò mả và phải tránh xa khỏi nơi mà cha và các anh ta được chôn cất, vì ta muốn mọi người được yên nghỉ. Quỷ Độc rên rỉ thảm thương vì nơi gò mả ấy là nơi trú ngụ yêu thích của hắn, nơi mà hắn ẩn náu qua thời khắc ban ngày và nằm đấy ôm lấy đống xương khô mà hút đến tận những ký ức cuối cùng chứa đựng trong đấy. Nhưng đã giao kèo thì vẫn phải là giao kèo nên hắn chẳng còn cách nào khác, đành phải tuân theo. Khi triệu hắn đến lần thứ hai, ta phái hắn đi đến cùng trời cuối đất để tìm kiếm kiến thức, và thế là hắn phải đi xa trong một tháng một ngày, tạo cho ta có đủ thời gian cần thiết.
Đến khi ấy ta cho người của ta bắt tay vào việc, chế tác và lắp đặt cánh Cổng Bạc. Nhưng ngay cả khi quay về Quỷ Độc cũng chẳng hay biết gì chuyện này vì tâm trí ta rất vững vàng và ta đã giấu nhẹm những suy nghĩ của mình.
Sau khi cho hắn uống máu lần cuối, ta bảo với Quỷ Độc những gì ta yêu cầu, thét vang thật lớn cái giá mà hắn phải trả.
“‘Mi bị chèn vào nơi này!’ ta đã ra lệnh như thế. ‘Bị giam vào bên trong hầm mộ mà chẳng có lối ra. Nhưng vì ta không bao giờ nguyện cho bất cứ sinh linh nào, dù đấy có là thứ xấu xa ghê tởm đi nữa, phải chịu đựng thống khổ mà không có được tia hy vọng, nên ta đã cho dựng cánh Cổng Bạc. Nếu có ai từng ngu si đến nỗi mở cánh cổng ấy ra khi mi đang hiện diện, thì mi có thể thoát khỏi cánh cổng ấy và được tự do. Tuy nhiên, từ đấy trở đi, nếu có khi nào mi quay lại chốn này, mi sẽ bị chèn vùi trong đấy đến muôn kiếp!’”
Do trái tim mềm yếu đã thống trị ta nên việc chèn kia đã không được quyết liệt như đáng ra phải thế. Trong suốt cả đời mình, ta luôn chan chứa niềm cảm thông với tất cả mọi người. Có kẻ xem đấy là yếu điểm và đôi khi cũng đúng thế thật. Vì ta không thể nguyền Quỷ Độc bị cầm tù vĩnh viễn mà không cho hắn một cơ hội mong manh được thoát ra.”
“Ngươi đã hành động đủ rồi,” Thầy Trừ Tà bảo. “Và giờ ta sẽ kết thúc việc ấy. Nếu chúng ta có thể dụ được hắn quay trở lại nơi ấy thì hắn sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn! Khởi đầu từ đấy đi. Nhưng làm sao hắn có thể bị giết chết? Ngươi nói cho ta biết được không? Sinh vật này giờ đây quá tàn độc nên chỉ chèn hắn thôi thì không đủ nữa rồi. Ta cần phải tiêu diệt hắn.”
“Trước hết hắn phải khoác lên mình lốt da thịt. Thứ nữa là hắn phải đang ở sâu trong hầm mộ. Thứ ba là trái tim hắn phải bị xuyên thủng bằng vật làm bằng bạc. Chỉ đến khi nào cả ba điều kiện ấy đều được thỏa thì hắn mới chết hẳn. Nhưng lại có một rủi ro rất lớn cho kẻ nào nỗ lực làm chuyện này. Trong lúc quằn quại với cái chết thì Quỷ Độc sẽ phóng thích một lượng sức mạnh rất lớn đến nỗi kẻ giết hắn gần như chắc chắn là phải chết.”
Thầy Trừ Tà thở dài. “Cảm ơn người về những thông tin này,” thầy bảo với hồn ma. “Sẽ là khó khăn lắm đây nhưng vẫn phải được tiến hành thôi, bằng mọi giá. Nhưng giờ đây nhiệm vụ của ngươi đã hoàn tất. Hãy ra đi thanh thản. Hãy siêu thoát qua thế giới bên kia.”
Đáp lại thì hồn ma của Naze chỉ rên lên khản đặc đến nỗi tóc gáy sau lưng tôi bắt đầu dựng cả lên. Đây là tiếng rên chứa đựng bao đau khổ.
“Sẽ chẳng có thanh thản nào cho ta cả,” hồn ma mệt mỏi rên rỉ. “Chẳng có tí thanh thản nào cho đến khi Quỷ Độc chết hẳn đi...”
Vừa nói cột sáng nhỏ nhoi kia vừa nhạt dần. Không chần chừ thêm nữa, tôi lần theo bức tường và quay trở lại đống đổ nát. Lát sau Thầy Trừ Tà bước vào, nằm xuống nền cỏ và nhắm mắt lại.
“Ta phải suy nghĩ kỹ càng lắm đây,” thầy thì thào.
Tôi chẳng nói gì. Đột nhiên, tôi cảm thấy tội lỗi vì đã nghe trộm cuộc nói chuyện giữa Thầy Trừ Tà và hồn ma của Naze. Giờ tôi lại biết quá nhiều. Tôi e là nếu nói cho thầy nghe thì thầy sẽ đuổi tôi đi để chỉ mình thầy đối mặt với Quỷ Độc mà thôi.
“Sáng sớm mai ta sẽ giải thích cho,” thầy nói khẽ. “Nhưng giờ thì ráng mà ngủ đi. Phải đến khi mặt trời lên cao thì rời khỏi nơi này mới an toàn!”
Tôi ngạc nhiên thấy mình ngủ khá ngon. Chỉ đến khi bình minh sắp ló dạng, tôi mới bị đánh thức bởi tiếng sột soạt lạ lùng. Là Thầy Trừ Tà đang mài sắc lưỡi dao gấp ẩn trong thanh trượng của thầy bằng viên đá mài mà thầy lấy từ trong túi ra. Thầy thao tác rất lớp lang, thi thoảng dùng ngón tay thử độ sắc của lưỡi dao ấy. Cuối cùng thầy cũng ưng ý và sau một tiếng cách, lưỡi dao gập ngược vào trong trượng.
Tôi lồm cồm đứng dậy duỗi chân một đỗi, trong khi Thầy Trừ Tà cúi xuống, lại mở túi ra lục lọi một hồi.
“Bây giờ ta đã biết chính xác cần phải làm gì,” thầy nói. “Chúng ta có thể đả bại tên Quỷ Độc. Có thể chấm dứt chuyện này nhưng đây sẽ là nhiệm vụ khó khăn nhất mà ta từng gánh vác. Nếu ta thất bại thì sẽ rất khốn đốn cho tất cả chúng ta.”
“Phải làm những gì ạ?” tôi hỏi thế nhưng trong dạ thấy khó chịu vì tôi đã biết rồi còn gì. Thầy không trả lời tôi mà lại đi qua tôi thẳng đến phía Alice, lúc này đã ngồi dậy, hai tay bó gối.
Thầy thắt khăn bịt mắt cho chặt rồi nhét nút tai đầu tiên vào. “Giờ đến nút thứ hai này, nhưng trước khi nhét vào, ta muốn mi lắng nghe cho kỹ đây, bởi chuyện này rất quan trọng,” thầy bảo. “Tối nay, khi ta tháo nút nhét tai này ra, ta sẽ bảo ngay với mi và mi phải lập tức làm theo lời ta mà không được hỏi han gì hết. Mi hiểu chưa?”
Alice gật đầu và thầy nhét nút tai thứ hai vào. Một lần nữa, Alice không nghe không thấy gì hết. Và Quỷ Độc sẽ không biết chúng tôi đang tính làm gì và định đi đến đâu. Trừ khi bằng cách nào đó hắn đọc được tâm trí tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy chột dạ vì những gì mình đã làm. Tôi đã biết quá nhiều.
“Rồi,” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa quay sang tôi. “Ta sẽ nói cho con nghe một điều con chẳng thích đâu. Chúng ta phải quay lại Priestown. Trở vào khu hầm mộ.”
Đoạn thầy quay gót, nắm lấy khuỷu tay Alice và dẫn cô quay trở lại cỗ xe ngựa, nơi anh chàng nông dân kia vẫn còn đứng chờ.
“Chúng ta phải đến Priestown nhanh hết mức mà con ngựa này có thể thồ được,” Thầy Trừ Tà bảo.
“Tôi chẳng biết gì chuyện này cả,” anh chàng kia đáp. “Bố tôi đang chờ tôi quay về vào giữa trưa. Có nhiều việc cần làm lắm.”
Thầy Trừ Tà đưa ra một đồng bạc. “Này, cầm lấy đi. Hãy đưa chúng ta đến đấy trước khi trời tối và anh sẽ nhận thêm đồng nữa. Ta không nghĩ bố anh sẽ nề hà gì lắm đâu. Ông ta thích đếm tiền lắm kia mà.”
Thầy Trừ Tà bắt Alice nằm xuống dưới chân chúng tôi và lại lấy rơm phủ lên cô ấy để người nào có đi ngang qua cũng không nhìn thấy được, ngay sau đấy chúng tôi khởi hành. Thoạt tiên chúng tôi đi bọc quanh Caster nhưng rồi, thay vì phải đi ngược về hướng đồi đá, chúng tôi lại hướng ra con lộ chính thẳng đến Priestown.
“Chẳng phải quay trở lại đấy giữa ban ngày ban mặt là nguy hiểm lắm sao thầy?” tôi lo lắng hỏi. Con đường này thật đông đúc và chúng tôi liên tục qua mặt những cỗ xe khác lẫn khách bộ hành. “Lỡ người của tên Phán Quan nhìn thấy chúng ta thì sao?”
“Ta sẽ không bảo là chuyện này không có rủi ro gì đâu,” Thầy Trừ Tà đáp. “Nhưng giờ đây những kẻ đang lùng sục chúng ta hẳn vẫn còn bận rộn với chuyện mang cái xác xuống khỏi vùng đồi đá. Chắc chắn bọn chúng sẽ mang hắn ta về Priestown để mai táng nhưng phải đến ngày mai chuyện ấy mới xảy ra; đến khi đấy thì mọi chuyện đã xong xuôi và chúng ta lên đường mất rồi. Dĩ nhiên, còn phải nghĩ đến chuyện cơn dông nữa chứ. Những ai có chút suy nghĩ sẽ ở yên trong nhà, tránh mình khỏi cơn mưa ấy mà.”
Tôi ngước nhìn lên trời. Ở phía Nam, những đám mây bắt đầu tụ lại nhưng tôi trông không đến nỗi nào là rầm rộ lắm. Khi tôi nói ra thế, Thầy Trừ Tà mỉm cười.
“Con còn phải học hỏi nhiều đấy anh bạn ạ. Đây sẽ là một trong những cơn dông lớn nhất mà con từng chứng kiến đấy.”
“Sau bao nhiêu là mưa trút như thế con những tưởng chúng ta phải có được vài ngày đẹp trời chứ ạ,” tôi than vãn.
“Chắc chắn sẽ được thế thôi. Nhưng chuyện này không tự nhiên chút nào. Trừ phi là ta đoán sai, chứ cơn dông này là do Quỷ Độc hô hào cũng như khi hắn hô phong hoán vũ tấn công nhà ta ấy mà. Đây là một dấu hiệu nữa cho biết hắn đã mạnh đến mức nào đấy. Hắn sẽ sử dụng cơn dông để phô trương nỗi giận dữ bực dọc của mình vì đã không thể lợi dụng Alice như hắn mong muốn. Chà, như thế lại tốt cho chúng ta: trong khi đang tập trung cho chuyện ấy, hắn sẽ không bận tâm lắm đến ta hay đến con đâu. Và điều này sẽ giúp chúng ta đến được thị trấn mà không gặp chút trục trặc nào.”
“Tại sao chúng ta phải đến hầm mộ để giết Quỷ Độc ạ?” tôi hỏi, hy vọng rằng thầy sẽ nói cho tôi biết điều tôi đã rõ. Như thế thì tôi không phải giả vờ mãi nữa.
“Phòng trường hợp ta không thể tiêu diệt được hắn. Ít nhất một khi đã quay vào trong ấy, với cánh Cổng Bạc được khóa chặt, thì Quỷ Độc sẽ lại bị mắc kẹt. Lần này là vĩnh viễn. Đấy là điều mà hồn ma của Naze đã nói cho ta biết. Nhưng rồi, ngay cả khi ta không thành công trong việc tiêu diệt hắn, ít ra là ta đã trả lại mọi chuyện về như nó vốn có. Mà thôi, con hỏi thế là đủ rồi đấy nhé. Ta cần chút thanh tịnh để chuẩn bị cho những gì ta sắp làm đây...”
Thầy trò chúng tôi chẳng nói chuyện với nhau cho đến khi đến được ven rìa thị trấn Priestown. Đến lúc này bầu trời đã đen kịt, những tia chớp ngoằn ngoèo rạch ngang dọc cùng những tiếng sấm nổ vang gần như là ngay trên đỉnh đầu. Mưa trút xối xả làm quần áo chúng tôi ướt sũng, khiến tôi vừa ướt vừa khó chịu. Tôi thấy tội nghiệp cho Alice vì cô ấy vẫn còn nằm ẹp trên sàn xe lúc này đã ngập đến một tấc nước. Hẳn phải rất khó khăn khi không được nhìn, được nghe và được biết là cô ấy đang đi đâu hay khi nào chuyến hành trình mới chấm dứt.
Chuyến đi của chính tôi lại chấm dứt sớm hơn dự kiến nhiều. Ngay ven rìa Priestown, khi chúng tôi băng qua ngã tư đường cuối cùng, Thầy Trừ Tà gọi lớn cho anh nông dân dừng cỗ xe lại.
“Con phải xuống đây thôi,” thầy vừa nói vừa nghiêm nghị nhìn tôi.
Tôi kinh ngạc trố mắt nhìn thầy. Nước mưa đang nhỏ giọt từ chóp mũi xuống hàm râu thầy nhưng thầy chẳng hề chớp mắt trong khi vẫn trừng trừng nhìn tôi với vẻ mặt dữ tợn.
“Ta muốn con quay về Chipenden,” thầy chỉ tay về phía con đường hẹp dẫn chếch theo hướng Đông - Bắc. “Hãy đi vào bếp nói với ông kẹ của ta là có thể ta sẽ không trở về. Bảo với nó trong trường hợp đó nó phải bảo vệ cho căn nhà được an toàn để chờ con khi con sẵn sàng. An toàn và bảo đảm cho đến khi con hoàn tất kỳ học việc và cuối cùng cũng đủ khả năng tiếp quản.
“Làm xong việc đó, con hãy đi lên phía bắc Caster tìm Bill Arkwright, tay Thầy Trừ Tà của vùng. Ông ta hơi cù lần một chút nhưng rất trung thực và ông ta sẽ huấn luyện cho con trong khoảng bốn năm nữa hay gì đó. Sau rốt con cần phải quay về Chipenden để nghiên cứu thật nhiều vào. Con phải cắm đầu cắm cổ vào số sách ấy để bù lại việc ta không còn đó mà huấn luyện cho con nữa!”
“Tại sao cơ? Có chuyện gì không ổn thế ạ? Sao thầy lại không quay về cơ chứ?” tôi hỏi. Lại thêm một câu hỏi mà tôi đã biết tỏng lời đáp.
Thầy Trừ Tà buồn rầu lắc đầu. “Bởi vì chỉ có một cách duy nhất để đối phó với Quỷ Độc và chắc chắn cách ấy sẽ lấy đi mạng sống của ta. Cả mạng của con bé kia nữa, nếu ta không lầm. Chuyện này khó khăn thật đấy anh bạn à, nhưng cũng phải được làm thôi. Có lẽ một ngày nào đấy, cách đây bao nhiêu năm nữa, chính con cũng phải đối diện với một nhiệm vụ như vầy. Ta hy vọng không phải như thế nhưng đôi khi cũng xảy đến đấy. Thầy của ta qua đời khi đang làm nhiệm vụ tương tự và bây giờ là đến phiên ta. Lịch sử có thể lặp lại, và nếu có như vậy, chúng ta phải sẵn sàng hy sinh mạng sống của chính mình. Đấy chỉ là điều đi kèm với công việc này, do đó tốt hơn con nên làm quen với nó đi.”
Tôi băn khoăn không rõ có phải Thầy Trừ Tà đang nghĩ về lời nguyền hay chăng. Có phải thầy đang mong phải chết là vì thế? Nếu thầy chết đi, sẽ chẳng còn ai ở dưới đấy mà bảo vệ lấy Alice đang hoàn toàn nằm trong tay Quỷ Độc.
“Nhưng còn về Alice thì sao ạ?” tôi phản đối. “Thầy đã không nói cho bạn ấy biết chuyện gì sắp xảy ra! Thầy đã gạt bạn ấy!”
“Phải làm vậy thôi. Dù sao con bé này chẳng còn cứu rỗi được nữa đâu. Thế này là hay nhất. Ít ra thì linh hồn con bé sẽ được tự do. Còn tốt hơn là bị trói buộc vào cái kẻ gớm ghiếc ấy.”
“Con xin thầy,” tôi nài nỉ. “Hãy cho con theo thầy với. Để con giúp một tay mà.”
“Cách tốt nhất con có thể giúp là hãy làm theo những gì ta bảo!” Thầy Trừ Tà sốt ruột đáp, đoạn nắm chặt tay tôi rồi thô bạo đẩy tôi ra khỏi xe. Tôi lóng ngóng rơi khỏi xe và té quỳ xuống đất. Khi tôi lảo đảo đứng dậy, cỗ xe đã bỏ đi xa và Thầy Trừ Tà không hề nhìn lại.