← Quay lại trang sách

Chương 13 THẠCH CỔ MỘ

Alice đang chờ ở ven rừng Quạ. Được ánh sáng trước lúc rạng đông soi rọi, cô gái ngồi trên một khúc gỗ mục, thanh trượng của tôi đặt dưới chân. Đối diện với Alice là chị em sinh đôi Beth và Jennet, hai em gái của Mab, với ánh mắt hồ nghi theo sát.

Khi tôi tiến đến, Alice đứng dậy. “Cậu không sao chứ Tom?” cô lo lắng hỏi dồn. “Đây – để tớ tháo cái thứ ác ôn ấy ra cho cậu...”

Alice lôi trong túi váy ra chiếc chìa khóa của tôi và chớp nhoáng là đã tháo khóa tấm bảng gỗ, mở nó ra và quẳng xuống đất. Tôi đứng đấy xoa xoa cho máu huyết trên cổ tay lưu thông lại, thấy nhẹ cả người vì đã được thoát khỏi thứ ấy.

“Mụ Wurmalde đã giết cha Stocks đáng thương và đổ tội cho tớ,” tôi kể cho Alice. “Bọn chúng đang giải tớ đến Caster để treo...”

“Thôi, giờ thì bọn chúng chẳng mang cậu đi đâu cả. Cậu tự do rồi Tom...” Alice nói.

“Nhờ tớ,” Mab xen vào, ngả ngớn cười với tôi. “Là tớ, chứ không phải Alice, mới là người giúp cậu. Nhớ đấy.”

“Phải – cảm ơn,” tôi đáp. “Tôi rất biết ơn cô đã giúp tôi được tự do.”

“Tự do để chúng ta có thể thương lượng,” Mab bảo. “Thôi bắt tay vào nào...”

Alice chậc lưỡi. “Tớ đã nói rõ ngọn ngành cho cô ta rồi Tom à,” Alice bảo, “nhưng cô ả sẽ không trả lại lọn tóc cho tớ. Mà một chiếc rương thôi cũng không bõ bèn gì.”

“Tao không tin mày, Alice Deane à – không chút nào!” Mab nói và bĩu môi. “Hai người bọn mày trong khi chỉ có mình tao, nên tao sẽ giữ rịt lọn tóc đó cho đến khi xong chuyện. Ngay khi tao có thứ tao muốn thì mày sẽ lấy lại tóc. Nhưng một chiếc rương thì không được. Hãy đưa cho tớ cả ba chiếc chìa khóa và đấy là điều kiện thỏa thuận. Đổi lại tớ sẽ đưa cậu vào hầm ngục dưới tháp an toàn. Có tớ giúp thì chúng ta sẽ cứu được cả gia đình cậu. Nếu không có tớ đi cùng, chắc chắn bọn họ sẽ chết.”

Mab trông rất cương quyết và trực giác mách bảo tôi rằng mình sẽ không lấy lại được tóc cho Alice cho đến khi nào cô ta có chìa khóa. Như thế nghĩa là, trong địa đạo, Alice sẽ vẫn bị quyền phép của Mab áp chế và không thể giúp tôi chế ngự cô ta. Tôi sẽ phải tự làm lấy.

Bố tôi đã từng dạy tôi rằng thỏa thuận là thỏa thuận, làm ngược lại lời mình hứa là sai trái. Lúc này tôi đang dự tính làm điều giống thế và tôi thấy thật khó khăn làm sao. Ngoài ra, mặc dù Mab làm vậy là có mục đích, nhưng cô ta đã cứu tôi, nghĩa là tôi không còn là một tù nhân sắp sửa bị giải đến Caster để treo cổ nữa. Về điều này thì tôi nợ ơn cô ta đôi chút, nhưng giờ đây tôi sắp sửa phản bội lại cô ta. Đằng nào tôi cũng thấy có lỗi cả nhưng tôi biết mình không còn lựa chọn nào khác. Tôi phải dối gạt Mab vì nhiều mạng sống đang tùy thuộc vào đấy. Tôi chẳng hề có ý muốn đưa cho cô ta chiếc rương nào, nhưng tôi phải dùng đến mánh khóe thôi.

“Mab này, cô có thể có hai chiếc rương. Không hơn. Đấy là lời đề nghị tốt nhất của tôi rồi...”

Mab cương quyết lắc đầu.

Tôi thở dài và nhìn chằm chằm xuống chân mình, vờ như đang suy nghĩ lung lắm về tình huống này. Sau cỡ gần một phút, tôi nhìn thẳng vào mắt Mab. “Mạng sống gia đình tôi đang gặp nguy khốn nên tôi chẳng còn lựa chọn nào đâu, phải không? Thôi được – cô có thể có cả ba chiếc rương.”

Một nụ cười rạng rỡ nở ra trên gương mặt Mab. “Đưa chìa khóa đây và thỏa thuận nào,” nói đoạn cô ta chìa tay ra.

Lần này đến lượt tôi lắc đầu. “Nếu giờ tôi đưa cho cô chìa khóa, lấy gì đảm bảo cô sẽ dẫn chúng tôi vào hầm ngục? Chẳng khác gì với việc cô đông người hơn trong đường hầm, phải không nào?” tôi nói, khoa tay về phía hai ả phù thủy đang quan sát và lắng nghe từng lời một. “Một khi chúng ta giải cứu xong gia đình tôi rồi thì cô mới có thể có chìa khóa. Không sớm hơn một khắc.”

Mab quay lưng về phía tôi, có lẽ là để tôi không nhìn thấy mắt hay đọc được nét mặt cô ả. Tôi đoan chắc rằng Mab sẽ lừa mình nếu có thể.

Sau cùng cô ta cũng quay lại đối mặt với tôi. “Thỏa thuận thế vậy,” cô ta chấp thuận. “Nhưng chuyện này sẽ khó đấy. Chúng ta sẽ phải tinh khôn lanh lợi mới lẻn được vào trong tháp ấy mà còn sống! Chúng ta sẽ phải hợp tác với nhau.”

Khi chúng tôi chuẩn bị lên đường, tôi nhặt thanh trượng của mình lên.

Mab cau mày. “Cậu không cần cái cây gậy mắc dịch ấy đâu,” cô ta bảo. “Tốt nhất là để lại bên ngoài đi.”

Tôi biết Mab không thích gỗ thanh hương trà và xem đấy như một món vũ khí mà tôi có thể sử dụng để chống lại cô ta, nhưng tôi quả quyết lắc đầu. “Trượng của tôi phải đi cùng tôi, bằng không sẽ hủy thỏa thuận!” tôi bảo.

Alice và tôi theo chân Mab chậm rãi quành từ trái sang phải, vòng ngược chiều kim đồng hồ quanh ngọn tháp. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã bỏ rừng Quạ lại sau lưng nhưng vẫn giữ một khoảng cách tương đương cách xa tháp Malkin, lúc này vẫn luôn hiện rõ phía bên trái chúng tôi, nổi bật trên nền trời đang rạng.

Từ xa xa, phía tay phải chúng tôi, ngọn đồi Pendle đồ sộ cũng rành rành ra đấy và thốt nhiên tôi nghĩ mình trông thấy một đốm sáng lóe lên từ đỉnh đồi, thế là tôi dừng lại nhìn chăm chú theo hướng ấy. Mab và Alice nhìn theo hướng mắt tôi. Trong khi chúng tôi quan sát, ánh sáng ấy nhấp nháy rồi bùng cháy phần phật khiến cho bao dặm quanh đấy cũng có thể nhìn rõ.

“Trông như có ai vừa đốt một ngọn lửa ngay trên đỉnh đồi,” tôi nói.

Khắp Hạt này có những ngọn đồi đặc biệt mà thi thoảng lửa hiệu được đốt lên tại đấy, những tín hiệu truyền từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi khác còn nhanh hơn vận tốc mà người đưa tin phóng ngựa đi. Có vài ngọn đồi thậm chí mang luôn tên “Đồi Đá Lửa Hiệu”, giống một ngọn đồi phía tây Chipenden vậy.

Mab liếc sang tôi, đoạn nở nụ cười bí hiểm, rồi quay đi và tiếp tục cuộc hành trình. Tôi nhún vai với Alice và chúng tôi theo gót Mab. Tín hiệu kia hẳn là dành cho ai đấy, tôi thầm nghĩ. Tôi băn khoăn liệu nó có dính dáng gì đến mấy tộc phù thủy hay chăng.

Sau chừng mười lăm phút, Mab chỉ tay tới trước. “Kia là lối vào!”

Chúng tôi đang tiến vào một nơi mà chắc bố tôi sẽ gọi là “khu rừng bị quên lãng”. Bạn thấy đấy, đa phần các rừng cây đều được “đốt rẫy” vài năm một lần, nghĩa là vài loại cây non bị đốn hạ làm củi. Như thế cũng là giúp cho rừng cây bằng cách tạo ra không gian ánh sáng cho những cây còn lại phát triển, từ đó con người cùng cây cỏ đều hưởng lợi. Nhưng tại đây, giữa những tán cây sum sê trong rừng này – nào sồi, nào thủy tùng, nào tần bì – là một thảm cây con dày đặc đan xen nhau. Khu vực này đã không được đụng đến cả bao năm nay rồi và điều này khiến tôi thắc mắc.

Thế rồi, khi chúng tôi đến được bìa rừng, tôi bỗng trông thấy những bia mộ giữa các bụi cây lúp xúp và nhận ra rằng bao nhiêu cây cối cùng thảm thực vật đã che đi một bãi tha ma không người chăm nom.

Thoạt nhìn khu rừng trông như không đi xuyên qua được, nhưng có một lối mòn nhỏ hẹp dẫn vào bụi cây và Mab dấn bước vào đấy mà không liếc ra sau lấy một lần. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì tôi biết cô ta không thể đặt chân vào vùng đất thánh. Hẳn vùng đất này đã được làm phép hoàn tục, chắc là do một giám mục thực hiện, nên giờ không còn là vùng đất thánh.

Tôi theo chân Mab, Alice bám sát gót tôi, và trong thoáng chốc tôi nhác thấy một tàn tích gì đấy bên tay trái mình, bị rêu xanh và địa y bao phủ. Chỉ còn hai bức vách đứng vững mà phần cao nhất không qua được vai tôi.

“Gì thế kia?” tôi hỏi.

“Là tàn tích của một nhà thờ cổ,” Mab đáp với qua vai. “Đa số mấy ngôi mộ đều đã bị đào lên, xương cốt được đem đi chôn tại chỗ khác. Những gì mà người ta còn có thể tìm ra thôi ấy...”

Ngay chính giữa bụi cây, chúng tôi bước đến một bãi đất quang, rải rác đó đây là các bia mộ. Nhiều bia đã rơi ẹp xuống đất, những tấm khác ngả nghiêng xiên xẹo, trên mặt đất còn có những lỗ hổng là nơi các quan tài đã được đào lên di dời. Người ta chẳng buồn lấp mấy huyệt mộ lại nên giờ đây chúng là những lỗ hổng đầy cây tầm ma lẫn cỏ dại. Và ngay tại đấy, giữa những bia mộ, là một tòa nhà bằng đá nho nhỏ. Một cây ngô đồng còn non đã mọc thẳng xuyên qua mái, chẻ đôi mái đá, những nhánh cây xòe ra thành tán rậm lá. Các bức tường phủ đầy dây thường xuân và tòa nhà này chẳng có cửa sổ, chỉ có một cánh cửa ra vào bằng gỗ mục.

“Gì thế kia?” tôi hỏi. Nơi này quá bé, không thể là nhà nguyện.

“Là một tha...” Alice định đáp.

“Cậu ấy hỏi tao cơ mà,” Mab chen ngang. “Là thạch cổ mộ đấy Tom. Là một nhà mồ trên mặt đất, từng được xây cho một gia đình thừa tiền thiếu trí. Ngôi mộ có sáu ngăn, mỗi ngăn vẫn còn là nơi yên nghỉ cho một bộ xương người chết...”

“Vẫn còn xương cốt ở đó ư?” tôi hỏi mà không biết nên nhìn vào ai. “Sao người ta không mang đi cùng số xương cốt khác?”

“Gia đình ấy không muốn những kẻ quá cố bị quấy nhiễu,” Mab vừa đáp vừa bước đến cửa thạch mộ. “Nhưng họ đã bị quấy nhiễu rồi và sẽ còn lại bị nữa đấy.”

Mab nắm lấy nắm cửa và từ từ đẩy cửa mở ra. Dưới bóng cây ngô đồng ngôi thạch cổ mộ quả thật rất tối, nhưng sau cánh cửa ấy thì tuyền là một màu đen đặc. Tôi không mang theo mẩu nến cùng hộp nhóm lửa nhưng Mab lại cho tay vào túi váy trái lấy ra một cây nến. Nến được làm từ sáp đen, và trong lúc tôi quan sát, tim nến đột nhiên bùng lên thành ngọn lửa.

“Giờ thì có thể trông thấy việc chúng ta sắp làm rồi,” Mab vừa nói vừa mỉm cười quỷ quyệt.

Giơ nến lên cao, Mab dẫn đầu đi vào trong thạch mộ, ánh nến chiếu sáng những phiến đá – ngăn chứa xác người quá cố. Tôi hiểu được ý Mab là thế nào khi nói rằng những người quá cố đã bị quấy nhiễu rồi. Vài bộ xương đã bị xáo trộn khỏi ngăn và rơi rớt trên sàn.

Khi đã vào hết bên trong, Mab bước lui và đóng cửa lại, ngọn nến chập chờn giữa luồng gió khiến cho các hốc mắt từ hộp xương sọ gần đấy nhất trở nên sống động nhờ các bóng tỏa, mấy bộ xương người dường như co giật trông thật quái dị.

Cửa vừa đóng lại thì tôi đã cảm nhận được ngay một cơn ớn lạnh đột ngột và nghe thấy một âm thanh rên rỉ yếu ớt từ góc kia thạch mộ. Là hồn ma hay vãn hồn thế nhỉ?

“Đằng đấy chẳng có gì phải lo đâu,” Mab vừa nói vừa bước đến chỗ phát ra âm thanh đáng ngại kia. “Chỉ là mụ già Maggie Chết Ngắc thôi mà, giờ mụ ta sẽ chẳng đi đâu cả...”

Mụ phù thủy đã chết đang ngồi trong góc, lưng tựa vào bức vách ẩm ướt. Mấy vòng kim loại rỉ sét cùm chặt lấy hai cổ chân mụ, mỗi vòng kim loại nối với một vòng khác được vít chặt vào mấy phiến đá qua một sợi xích. Kim loại ấy là sắt, nên chả trách sao mà mụ ta đang đau đớn. Maggie đang bị mắc kẹt vào đấy.

“Có phải ta vừa đánh hơi thấy một người nhà Deane không nhỉ?” mụ ta thều thào, giọng nói run rẩy trong cơn đau.

“Thật tội nghiệp khi thấy bà trong tình trạng này đấy, Maggie à,” Alice lên tiếng, bước tới gần mụ ta. “Là cháu, Alice Deane...”

“Ôi! Giúp ta với, cháu gái!” Maggie van xin. “Miệng ta còn khô khốc hơn là dúm xương đang đau nhức của ta. Ta không chịu nổi mấy cái cùm này. Hãy giải thoát ta khỏi cơn đau đớn này với!”

“Cháu không giúp bà được đâu Maggie ạ,” Alice vừa đáp vừa bước tới gần hơn. “Ước gì cháu có thể nhưng ở đây còn có một kẻ nhà Mouldheel nữa. Con ả đang giữ một lọn tóc của cháu nên cháu bất lực rồi ạ.”

“Vậy thì lại gần đây nào bé con,” Maggie rền rĩ.

Alice ngoan ngoãn cúi xuống gần và mụ phù thủy quá cố thì thầm điều gì đấy vào tai cô.

“Không được nói thầm! Không bí mật gì ở đây hết! Tránh xa Maggie ra,” Mab cảnh cáo.

Ngay lập tức Alice tránh ra xa, nhưng tôi hiểu cô quá rõ nên có thể nhận ra một thoáng thay đổi trên nét mặt cô gái: Maggie đã thì thầm điều gì đấy quan trọng; điều có thể giúp chúng tôi chống lại Mab.

“Được rồi!” Mab bước tiếp. “Ta đi tiếp thôi nào. Hãy theo tôi. Chật hẹp vô cùng đấy...”

Mab quỳ xuống và bò qua ngăn chứa xác thấp nhất phía bên trái, làm xáo trộn bộ xương đang nằm trên đấy. Trong nháy mắt, tôi chỉ còn nhìn thấy hai bàn chân trần của cô ta trước khi chúng biến mất khỏi tầm nhìn như toàn bộ thân người cô ả. Mab đã cầm theo ngọn nến nên bên trong thạch mộ chìm trong bóng tối.

Thế là, tay nắm chặt trượng, tôi bò lên phiến đá lạnh lẽo, theo chân Mab vào khoảng không chật hẹp giữa phiến đá và ngăn chứa xác bên trên, cảm nhận được bộ xương dưới thân mình trong lúc tôi lê người băng qua. Bên kia ngăn chứa xác, những ngón tay bên bàn tay phải tôi bấu vào đất mềm, và khi trông thấy ánh sáng chập chờn phía trước, tôi nhoài người, vươn đầu tới trước, tiến vào một đường hầm thấp cạn nơi Mab đang chờ. Mab đang bò trên hai tay hai chân – trần địa đạo quá thấp nên cô ta không đứng lên được.

Alice từng bảo lối duy nhất để đưa những chiếc rương của tôi ra khỏi tháp Malkin là phải qua cánh cửa gỗ tán đinh sắt to tướng kia, theo cùng một lối mà rương được khuân vào, và chỉ liếc qua không gian tù túng này một lượt tôi đã xác nhận điều ấy. Vậy Mab hy vọng làm được gì đây? Dù cô ta có đến được chỗ mấy chiếc rương đi nữa thì cũng sẽ không có cách nào mang chúng ra bằng đường này.

Tôi cũng đối mặt với rắc rối tương tự, nhưng ít ra tôi còn cứu được gia đình mình. Miễn là tôi không giao ra chìa khóa, không một phù thủy nào có thể mở mấy chiếc rương ấy ra.

Khi Alice đã bò đến chỗ chúng tôi trong đường hầm, Mab không chần chừ gì bò ngay đi trên hai tay hai chân trong khi chúng tôi men theo bằng mọi khả năng có thể. Kể từ lúc trở thành chân học việc cho Thầy Trừ Tà tôi có đi vào vài khu đường hầm, nhưng chưa bao giờ gặp phải một địa đạo chật chội và tù túng đến phát ghê như thế. Đường hầm này không có cột chống nào và tôi phải ép mình không được nghĩ đến khối lượng đất khổng lồ bên trên. Nếu đường hầm này mà sập, chúng tôi sẽ bị mắc kẹt trong này trong bóng tối: có thể chúng tôi sẽ nhanh chóng bị đè bẹp; có thể chúng tôi sẽ phải chịu chết ngạt một cách đáng sợ, từ từ.

Tôi mất hẳn khái niệm thời gian. Dường như chúng tôi bò lần theo đến vô tận, nhưng rốt cuộc cũng đi vào được một căn phòng bằng đất đủ rộng cho chúng tôi đứng lên. Trong một đỗi tôi tưởng chúng tôi đang đứng ngay dưới ngọn tháp, nhưng rồi tôi trông thấy trước mặt mình là một đường hầm khác. Không giống như địa đạo chúng tôi vừa bò qua, đường hầm này đủ rộng để mọi người bước thẳng vào và có cả cột kèo bằng gỗ chắc chắn đỡ lấy trần hầm.

“Đấy,” Mab lên tiếng, “tớ đã chỉ đi đến tận đây thôi. Đường hầm này có mùi không hay...”

Nói thế, cô ta rướn người vào đánh hơi ầm ĩ ba lần. Tôi thắc mắc cô ta giỏi đánh hơi đến độ nào nhỉ. Thầy Trừ Tà từng bảo tôi khả năng này ở mỗi phù thủy mỗi khác nhau. Sau một cái đánh hơi nhanh gọn, Mab quay đi và rùng mình ghê sợ. “Dưới kia có thứ gì đó vừa ướt nhẹp vừa mang mùi chết chóc,” cô ta bảo. “Không thích cái đường hầm này chút nào!”

“Đừng có nhát thế chứ!” Alice mai mỉa. “Để tao cũng đánh hơi xem nào. Hai cái mũi thì tốt hơn một mà – phải thế không?”

“Được thôi – nhưng mà nhanh nhanh lên đấy,” Mab đồng ý, đưa mắt bồn chồn nhìn đường hầm.

Alice chẳng chút do dự. Ngửi một lần chóng vánh và cô gái mỉm cười. “Dưới kia chẳng có gì phải lo lắm đâu. Ẩm ướt hay chết chóc chúng ta đều xử lý được mà. Tom có mang theo thanh trượng đấy thôi. Thế là đã đủ để cái thứ ấy tránh xa ra rồi. Thôi nhé Mab, đi thôi nào. Mày đi trước đi! Đấy là nếu như mày không sợ quắn lên ấy. Tao tưởng bọn Mouldheel chúng mày gan lì lắm cơ mà!”

Mab lừ mắt nhìn Alice một chốc và cong cớn môi lên, nhưng rồi cô ta dẫn đầu đi vào đường hầm. Tôi siết chặt trượng thanh hương trà. Có gì đấy mách bảo với tôi rằng mình sẽ phải cần đến trượng đây.