← Quay lại trang sách

Chương 17 ÁNH TRĂNG

Sao! Thư nói gì thế?” Mab hỏi dồn.

Tôi ngần ngừ nhưng rồi suy nghĩ thật mau. Các chị của mẹ ư? Là kiểu chị gì mà lại ngủ trong rương nhỉ? Và họ đã ở trong đấy bao lâu rồi? Từng ấy năm kể từ lúc mẹ đến Hạt này và kết hôn với bố ư? Hẳn là mẹ đã mang các chị của mình từ Hy Lạp đến đây!

Và trước đây tôi đã từng trông thấy thứ rất giống thế, lúc còn ở Anglezarke ấy. Phù thủy nữ yêu. Có hai loại phù thủy nữ yêu – loại thuần hóa và loại hoang dã. Loại đầu tiên giống Meg Skelton, tình yêu đích thực của Thầy Trừ Tà: bề ngoài giống hệt một người phụ nữ bình thường, trừ một đường vảy hai màu vàng và xanh lục chạy dọc trên lưng. Loại thứ hai như chị của Meg, mụ Marcia: lạch bà lạch bạch lê lết bằng tứ chi, người đầy vảy, chuyên uống máu. Một số còn có thể bay một quãng ngắn. Có khi nào mẹ tôi là phù thủy nữ yêu, loại lành và thuần hóa không? Dù gì thì Hy Lạp cũng là quê hương của Meg và Marcia kia mà. Mụ nữ yêu hoang dã Marcia đã quay về cố hương trong một cỗ quan tài để không gây kinh sợ đến đám hành khách trên thuyền – Thầy Trừ Tà đã dùng một loại thảo dược làm mụ ngủ thiếp đi trong suốt cuộc hành trình. Thầy từng dùng cùng thứ thuốc ấy để làm Meg ngủ vùi hàng tháng trời.

Rồi tôi nhớ đến việc tháng nào mẹ cũng đi lên phòng bà một lần. Mẹ lên đấy một mình và tôi chẳng bao giờ hỏi mẹ làm gì trên ấy. Liệu có phải mẹ đã trò chuyện với các chị mình rồi làm họ ngủ lại bằng cách nào đấy? Tôi khá chắc họ là phù thủy nữ yêu hoang dã. Có lẽ hai phù thủy này hợp sức sẽ ngang ngửa với Mab cùng lũ Mouldheel còn lại.

“Thôi nào, tớ đang chờ đấy!” Mab gắt lên. “Tớ không kiên nhẫn được lâu đâu.”

“Thư bảo rằng hai rương còn lại chỉ mở được dưới ánh trăng và phải là tôi xoay chìa mới được.”

“Thế có thấy bảo trong ấy có gì không?”

“Chẳng có chút manh mối nào Mab à,” tôi dối. “Nhưng hẳn là thứ gì đó đặc biệt và giá trị hơn những gì chúng ta tìm thấy trong rương này. Bằng không thì đã chẳng khó mở như thế.”

Mab ngờ vực nhìn tôi nên tôi phải tiếp tục nói để đánh lạc hướng. “Chuyện gì đã xảy ra với những chiếc hộp bé hơn trong phòng mẹ tôi vậy?” tôi hỏi. Trong đấy từng có rất nhiều thùng bộng khác, tất cả đều đã bị đám phù thủy đến càn quét nông trại cướp đi.

“Ồ, mấy cái hộp ấy đấy à... Nghe nói chúng toàn đồ rác rưởi – mấy kim cài áo lẫn đồ trang trí rẻ tiền không thôi. Lũ Malkin đã đem chia hết cho nhau rồi.”

Tôi buồn bã lắc đầu. “Như thế thật không phải. Những món ấy thuộc về tôi cơ mà. Tôi có quyền trông thấy chúng.”

“Cậu hãy cứ thấy là mình gặp may vì đã còn sống đi,” Mab bảo.

“Thế cô chịu để Alice và gia đình tôi rời đi chưa nào?” tôi dồn ép Mab.

“Để tớ nghĩ đã...”

“Jack đang ốm – anh ấy cần được giúp đỡ. Họ cần có ngựa lẫn xe để đưa anh ấy đến thầy thuốc càng nhanh càng tốt. Nếu anh ấy có mệnh hệ gì, tôi sẽ không bao giờ mở rương ra đâu. Coi nào Mab, giữ lời đi chứ. Cô đã có một chiếc rương và tôi sẽ mở hai chiếc còn lại ngay khi trăng lên. Làm ơn đấy.”

Mab nhìn chòng chọc vào mắt tôi một đỗi, đoạn quay sang hai con em. “Đi bảo mấy đứa kia thả bọn chúng đi đi.”

Jennet và Beth dùng dằng.

“Anh ấy cần cỗ xe, Mab ạ. Jack không bước đi được,” tôi nằn nì.

Mab gật đầu. “Vậy hắn sẽ có xe. Để xem xem cậu có giữ lời không. Đi đi nào, nhanh lên!” Mab quát lên, quay lại với hai ả em. “Với lại bảo bọn chúng hối đám thợ nề lên đây mau!”

“Thợ nề à?” tôi hỏi khi Jennet và Beth làm theo lời chị chúng.

“Thợ nề để sửa lại bức tường. Bọn Malkin đã chấm hết tại đây rồi. Giờ ngọn tháp này thuộc về bọn tớ. Thời thế đã thay đổi. Giờ thì chúng tớ thống trị Pendle!”

Trong vòng một giờ đồng hồ, một đội bốn bác thợ nề đã đến nơi và bắt tay vào sửa lại bức tường thành. Bốn người đàn ông có vẻ bồn chồn và rõ ràng là bị cưỡng ép làm việc. Hiển nhiên bọn họ muốn làm xong việc càng nhanh càng tốt, nên họ ra sức phô trương sức lực lẫn khả năng khéo léo nhấc những phiến đá nặng trịch trả lại vị trí cũ.

Bọn khác trong tộc theo lệnh đi xuống mấy bậc cấp để thắt chặt an ninh ở khu vực dưới thân tháp. Chúng nhanh chóng quay trở lên, báo cáo lại rằng, đúng như dự đoán, lũ Malkin đã rời khỏi phần hầm ngục bên dưới và đào thoát qua đường hầm. Mab ra lệnh cho những tên canh gác phải ở yên dưới đấy để trông chừng. Khi phát hiện ra quân lính đã rời khỏi vùng lân cận thì đám Malkin có thể quay trở lại.

Trước khi hoàng hôn buông xuống lỗ hổng trên tường thành đã được bít lại, nhưng Mab vẫn còn một việc nữa cho mấy bác thợ nề. Cô ả bắt họ phải khiêng hai chiếc rương khóa kín nặng trịch qua những bậc thang hẹp lên pháo đài bên trên. Làm xong việc này, mấy bác thợ vội vã bỏ về và chiếc cầu kéo được hạ xuống, phong tỏa chúng tôi bên trong ngọn tháp.

Ngoài Mab và hai con em, còn có mười mụ phù thủy khác nữa cho đủ số đầu người của một hiệp hội. Nhưng cũng có thêm bốn người phụ nữ lớn tuổi hơn, với nhiệm vụ là nấu nướng chăm lo cho những kẻ còn lại. Họ nấu một món xúp loãng gồm khoai tây và cà rốt, và bất chấp thực tế là món này do một thành viên trong tộc phù thủy nấu cho, tôi vẫn nhận lấy một đĩa đầy. Sợ rằng có loại thuốc độc hay dược thảo nào đó sẽ khiến mình lọt vào tầm khống chế của Mab, tôi kiểm tra xem có phải đĩa xúp của mình được múc từ cùng một nồi xúp cho những kẻ còn lại. Khi bọn chúng ăn rồi, tôi mới nhúng bánh mì vào xúp và bắt đầu ăn.

Sau bữa tối, tôi những muốn bắt tay vào xem qua những món đồ trong rương của mẹ, nhưng Mab lại không cho phép và bắt tôi phải tránh xa rương ra. “Chưa kịp xem xong thì cậu đã ngấy đến tận cổ cho xem,” cô ả bảo tôi. “Cậu sẽ phải mất hàng tháng trời để dịch những cuốn sách kia ra...”

Ngay sau khi mặt trời lặn, mang theo ngọn đèn lồng, Mab dẫn tôi đi lên phía pháo đài, Beth và Jennet theo sát đằng sau. Lên đến đầu cầu thang, chúng tôi bước vào một căn phòng khác có sàn bằng gỗ, phòng này chứa máy móc điều khiển cầu kéo. Nó bao gồm một bánh tời to tướng bằng gỗ cùng một hệ thống bánh răng, bánh cóc, đòn quay gắn vào một sợi xích. Khi quay bánh tời, sợi xích sẽ cuộn quanh đấy mà nâng cầu lên.

Qua khỏi phòng này chúng tôi bước ra hàng lỗ châu mai nền lát đá, từ nơi đây có thể trông rõ toàn cảnh bốn hướng. Đồi Pendle nhô cao lên khỏi những rặng cây trong Rừng Quạ, và nhờ vào bãi cỏ bằng phẳng giữa tháp tới ven rìa những rặng cây bao quanh, không ai có thể tiến gần tới tháp mà không bị phát hiện. Các tay pháo thủ đã bỏ đi tham chiến và giờ đây ngọn tháp lọt vào tay bọn Mouldheel, theo lý thuyết là không thể bị tấn công. Nhưng rồi tôi liếc sang hai chiếc rương. Bọn Mouldheel này chẳng biết thứ gì đang chờ đón chúng trong những chiếc rương ấy.

Trời tối dần, ngọn đèn lồng dường như bừng sáng hơn. Tôi biết mặt trăng đã nhú khỏi đường chân trời rồi, nhưng từ phía tây lại có ngọn gió phần phật thổi tới, lùa những đám mây nặng nước sà thấp ngang qua bầu trời. Có lẽ phải mất một lúc lâu ánh trăng mới rọi lên những chiếc rương, nếu trăng còn có thể soi tỏ.

“Trông có vẻ muốn mưa, Mab nhỉ,” tôi bảo cô ả. “Thôi thì ta chờ đến đêm mai vậy.”

Mab đánh hơi không khí, đoạn lắc đầu. “Trăng sẽ sớm chường mặt ra thôi,” cô ta đáp. “Từ đây đến lúc ấy, chúng ta cứ việc chờ trên này.”

Tôi đưa mắt nhìn chăm chăm vào màn đêm, lắng tai nghe lấy tiếng gió văng vẳng than van qua những rặng cây, suy nghĩ mông lung về những chuyện xảy đến trong mấy ngày qua kể từ khi chúng tôi đến Pendle. Giờ này Thầy Trừ Tà đang ở đâu nhỉ? Và thầy có thể làm được gì để chống lại sức mạnh của những tộc phù thủy đây? Cha Stocks tội nghiệp đã chết, còn thầy tôi, nội việc đuổi bọn Mouldheel ra khỏi tháp Malkin cũng đã chẳng có cơ may nào, nói gì đến chuyện đối đầu với bao phù thủy khác – nhất là bọn Malkin. Rồi thầy còn không biết đến sự tồn tại của mụ Wurmalde, một kẻ thật sự khó hiểu. Mụ ăn nhập thế nào vào xã hội phù thủy rối rắm ở Pendle? Mụ từng nói đến việc trả thù mẹ tôi, nhưng chính xác thì mụ ta đang cố đạt được gì tại Pendle này?

Tôi liếc sang Mab, cô ả đang chăm chú nhìn lên trời đêm. “Cô đã làm rất khéo đấy Mab,” tôi tâng bốc cô ả, hy vọng cô ta chịu mở miệng để tôi có thể tìm hiểu nhiều hơn về thứ mà chúng tôi đang đối mặt. “Cô đã đánh bại bọn Malkin. Và dù là có nhà Deane giúp sức đi nữa thì bọn chúng cũng không bao giờ đuổi được cô ra khỏi tháp này. Giờ đây ngọn tháp vĩnh viễn thuộc về cô rồi.”

“Tớ cứ tưởng là không bao giờ thành sự ấy chứ,” Mab đồng tình, đưa mắt nhìn tôi nghi ngại. “Nhưng tớ đã trông thấy cơ hội của mình và nắm bắt lấy. Cùng với sự giúp sức của cậu đấy Tom. Bọn mình thật là một đội ăn ý, cậu và tớ ấy, cậu không nghĩ thế sao?”

Tôi không rõ cô ả đang cố lái câu chuyện đi đâu. Chắc không đời nào Mab lại đắm đuối tôi đâu nhỉ. Không thể nào là tôi, chân học việc cho Thầy Trừ Tà. Không, đấy hẳn là phép bỏ bùa và mê hoặc mà cô ả đang cố gieo rắc lên tôi thôi. Tôi quyết định tảng lờ Mab và đổi đề tài.

“Cô biết gì về mụ Wurmalde không?” tôi hỏi.

“Wurmalde à!” Mab thốt lên, nhổ toẹt xuống nền đá. “Mụ chỉ là một kẻ nhập cư. Là một kẻ thích xía mũi vào chuyện người khác, và sẽ là người đầu tiên hứng chịu những chuyện tồi tệ xảy đến với mụ ta. Tớ sẽ xử con mụ này.”

“Nhưng tại sao mụ lại đến đây trong khi không xuất thân từ bất cứ tộc nào? Mụ ta muốn gì?”

“Mụ thân cô thế cô. Vì không xuất thân từ một tộc tiếng tăm nào nên phải nhập bọn với kẻ khác. Và vì một lý do nào đấy mụ muốn đến Hạt này để khơi dậy quyền năng của bóng tối – để loại trừ cậu và mẹ cậu, tớ nghĩ thế. Mụ từng nhắc đến mẹ cậu; có vẻ cực kỳ căm ghét mẹ cậu vì chuyện nào đấy.”

“Tôi nghĩ hai người họ quen biết nhau lúc còn ở Hy Lạp,” tôi nói.

“Mẹ cậu là phù thủy ư?” Mab hỏi thẳng.

“Tất nhiên là không phải rồi,” tôi đáp, nhưng bản thân lại không tin tưởng lắm chứ đừng nói gì là Mab. Quyền năng pháp thuật, thảo dược, cúc áo bằng xương và giờ là hai “chị gái” nữ yêu hoang dã. Tận sâu tâm khảm tôi đang dần tin mẹ mình đích thực là phù thủy nữ yêu – loại thuần hóa, loại lành, nhưng dù gì thì vẫn là phù thủy.

“Cậu chắc không đấy?” Mab hỏi. “Chỉ là tớ thấy hình như Wurmalde khá hứng thú với thứ quyền năng trong mấy chiếc rương, còn mẹ cậu lại có vẻ quá thông minh trong việc ngăn chặn bất cứ kẻ nào động đến chúng. Sao bà ấy có thể làm như vậy nếu bà ấy không phải là phù thủy cơ chứ?”

Tôi lờ Mab đi.

“Đừng lo,” Mab trêu. “Có bà con với phù thủy chẳng phải là chuyện đáng xấu hổ gì đâu.”

“Mẹ tôi không phải là phù thủy,” tôi phản đối.

“Ừ thì cứ cho là vậy đi cưng,” ả ta đáp, ra giọng rõ ràng rằng ả không tin một lời nào mình vừa nói. “Thôi, dù có là gì thì mẹ cậu vẫn là kẻ thù của Wurmalde, còn Wurmalde lại muốn cả ba hiệp hội hợp lực trong Lễ Hội Mùa để đánh thức Satan và kết liễu cậu cùng tất thảy hy vọng của mẹ cậu, tớ nghĩ thế. Nhưng đừng có hoảng, tộc Mouldheel sẽ không can dự vào đâu, bọn tớ không khi nào làm vậy. Không đâu, mặc cho mụ ta đã nỗ lực mọi cách để thuyết phục chúng tớ. Chúng tớ đã mặc kệ bọn họ cùng cái trò điên rồ kia. Trò ấy thật quá giới hạn,” Mab vừa nói vừa lắc đầu quầy quậy. “Quá sức mạo hiểm.”

Mab chợt ngưng lời, nhưng giờ thì tôi thật sự rất tò mò. Tôi muốn biết ý ả ta là gì khi bảo “quá giới hạn”.

Beth là đứa trả lời thay. “Bởi vì một khi cậu thực thi điều ấy, thì sẽ không còn đường thối lui và quỷ sứ sẽ ngụ lại thế gian này. Và cậu có thể không kiểm soát nổi hắn. Đấy là điều mạo hiểm lớn nhất mà cậu phải chấp nhận. Một khi Satan quay lại thế gian, những trò tai ác mà hắn gieo rắc sẽ không có điểm dừng. Satan có chủ ý riêng của mình. Chỉ cần mất khả năng kiểm soát hắn thì có thể bọn tớ cũng sẽ gặp khốn đốn.”

“Nhưng chẳng phải hai tộc Malkin và Deane cũng biết điều này hay sao?” tôi hỏi.

“Tất nhiên là bọn chúng biết chứ!” Mab gắt lên. “Đấy là lý do vì sao bọn chúng muốn chúng tớ tham gia. Trước hết, nếu cả ba hiệp hội hợp lực với nhau thì khả năng kêu gọi được Satan sẽ cao hơn nhiều. Thứ nữa, nếu thành công, với cả ba hiệp hội chung vai gánh sức, chúng tớ có thể kiểm soát hắn. Nhưng như thế vẫn mạo hiểm, mấy bọn kia có mà dại mới bị lời hứa gia tăng quyền năng và bóng tối của mụ Wurmalde lừa phỉnh. Mà tại sao tớ phải hiệp lực cùng bọn chúng cơ chứ? Như tớ đã nói, giờ đây tộc Mouldheel mới là thế lực thống trị Pendle, cho nên cứ để kẻ khác tìm đến Quỷ Sứ!”

Một đỗi im lặng kéo dài khi cả hai chúng tôi cùng nhìn chăm chăm vào màn đêm, cho đến khi mặt trăng bất thình lình ló ra từ sau đám mây. Mặt trăng khuyết sắc mảnh, mờ nhạt với hai đầu lưỡi liềm quay về hướng tây. Ánh sáng mờ ảo nhưng vẫn chiếu rọi lên mấy chiếc rương, tỏa bóng chúng trải dài trên pháo đài.

Mab giơ chìa khóa ra và chỉ về chiếc rương gần hơn. “Giữ lời nhé Tom,” cô ả nhẹ nhàng bảo. “Cậu sẽ không hối tiếc đâu. Chúng ta có thể có một cuộc đời tươi đẹp tại đây – cậu với tớ.”

Cô ả mỉm cười với tôi, hai mắt long lanh như vì sao lấp lánh, mái tóc ả óng lên một sắc bàng bạc ma quái mê hồn. Chỉ là do ánh trăng thôi mà, tôi biết thế, nhưng trong một khoảnh khắc Mab như rực lên lộng lẫy. Mặc dù hiểu rõ Mab đang cố làm gì, tôi vẫn có thể cảm nhận được sức mạnh mà cô ả đang dùng. Phép mê hoặc và bỏ bùa đang được dụng lên người tôi. Mab đang cố buộc tôi làm theo ý ả. Mab không những muốn tôi mở những chiếc rương ra; cô ả còn muốn tôi làm việc ấy một cách vui vẻ và tự nguyện.

Tôi mỉm cười đáp lại và nhận lấy chìa khóa. Các nỗ lực của cô ta chỉ hoài công vô ích. Tôi đã rất sẵn lòng lẫn vui vẻ để mở hai chiếc rương ấy rồi. Và Mab sắp sửa nhận lấy điều bất ngờ nhất trong đời mình.

Trừ chiếc chìa khóa lớn nhất mở cửa vào phòng tôi tại nông trại, những chìa còn lại giống nhau như đúc. Nhưng chiếc chìa thứ hai tôi thử tra vào đã mở được khóa với một tiếng cách. Tôi hít một hơi sâu, chầm chậm nâng nắp rương lên. Bên trong chiếc rương, xếp gọn vào nhau, là một vật gì đó thật lớn. Vật này được gói trong một mảnh vải buồm và dùng dây cột lại. Bất giác tôi đặt tay mình lên trên bề mặt, những mong cảm nhận được chút cử động, nhưng rồi tôi nhớ ra rằng sinh vật nằm trong này sẽ ngủ yên cho đến khi được ánh trăng rọi vào.

“Mab, có thứ gì thật to trong này này,” tôi bảo. “Tôi cần giúp mang nó ra ngoài. Nhưng trước hết tôi sẽ mở chiếc rương kia để xem trong đó có gì đã...”

Mặc cho Mab có đồng ý hay không, tôi đã thử mở chiếc rương thứ hai rồi. Nếu quả thật đây là hai nữ yêu hoang dã, thì chỉ cần một cũng đủ để đánh cho đám Mouldheel tan tác. Nhưng tôi muốn cả hai nữ yêu này cùng thức giấc cho chắc ăn tuyệt đối. Tôi nâng nắp rương thứ hai lên...

“Trong này cũng thế. Chúng ta hãy mang cả hai ra ngoài nào.”

Mab trông không tin tưởng lắm nhưng Beth đã hăm hở nhào tới và chúng tôi nhấc đống đồ nặng nề dài sọc ra khỏi rương, đặt lên nền đá. Khi trải thẳng ra, vật này dài cỡ gấp rưỡi chiều dài thân mình tôi. Jennet, nhất mực không muốn kém cạnh, giúp tôi với chiếc rương thứ hai. Xong xuôi, tôi mỉm cười ngước nhìn lên Mab.

“Cắt sợi dây đi Jennet,” tôi bảo.

Jennet lấy dao trong thắt lưng ra làm theo, và tôi bắt đầu gỡ tấm vải buồm. Gần hoàn tất thì có chuyện không may xảy đến!

Mặt trăng chui tọt ra sau đám mây.

Mab mang đèn lồng đến giơ ngang vai tôi. Tim tôi chùng xuống, sự tự tin bốc hơi đâu mất. Tôi ngập ngừng, hy vọng rằng mặt trăng sẽ lại ló ra. Bọn Mouldheel có biết nữ yêu là gì không nhỉ? Có thể chúng từng nghe đến loài này, nhưng mong là, vì phù thủy nữ yêu không phải là loài bản địa trong Hạt, nên chắc bọn Mouldheel chưa trông thấy nữ yêu nào trong tình trạng hoang dã. Nhưng nếu bọn chúng đoán ra thì số phận hai sinh vật đang say ngủ kia sẽ do ba chị em ấy định đoạt mất. Một khi bọn chúng vung dao lên, sẽ chẳng còn kịp chờ nụ hôn của ánh trăng nữa.

“Nhanh lên nào Tom!” Mab nóng nảy ra lệnh. “Hãy xem chúng ta có gì ở đây nào...”

Khi tôi chẳng nhúc nhích, Mab với xuống giật phăng tấm vải, tức thì cô ả khẽ há hốc.

“Là gì đây nhỉ? Trước giờ tớ chưa từng trông thấy thứ gì như thế này!” cô ả la lên.

Tôi đã từng đối mặt với Marcia, người chị hoang dã của Meg Skelton. Tôi còn nhớ gương mặt hung ác của mụ, trắng bệch và sưng húp, máu đỏ từ cằm nhỏ thành giọt. Tôi cũng nhớ cả đầu tóc dài thượt nhớt nhờn của mụ, bản lưng đầy vảy và tứ chi có vuốt sắc nhọn. Sinh vật trước mặt tôi đây to lớn hơn Marcia. Tôi khá chắc đấy là một phù thủy nữ yêu hoang dã, nhưng không phải là loài bò lê lạch bạch trên nền đất. Đây là một loài khác trước nay tôi chưa từng thấy. Loài có thể bay những quãng ngắn. Loài này có cánh phủ lông vũ màu đen xếp ngang lưng cùng với bộ lông ngắn mọc ở thân trên.

Ngoài ra còn có cả tứ chi: hai chi dưới nặng hơn, với móng vuốt sắc lẻm chết người; ngược lại, hai chi trên giống với tay người hơn, với bàn tay thanh mảnh, móng tay không dài hơn móng tay phụ nữ là mấy. Sinh vật này nằm úp bụng xuống đất nhưng đầu lại quay lên phía chúng tôi, do đó có thể quan sát được nửa khuôn mặt. Bên mắt lộ rõ đang nhắm nghiền, nhưng mi mắt không nặng sùm sụp như mắt Marcia. Thực ra, tôi thấy gương mặt này dường như khá quyến rũ, mang một nét đẹp hoang dại, mặc dù cái miệng lại cho thấy lắm sự tàn ác; nửa thân dưới của sinh vật phủ đầy vảy đen, từng chiếc vảy mảnh dần ra thành như một sợi tóc, hết thảy ấn tượng đấy khiến tôi nghĩ đến một loài côn trùng.

Như tôi đã nói, đôi cánh phủ lông vũ màu đen được xếp gọn ngang lưng, và nơi hai cánh giao nhau nổi hờ lên thứ gì đó nhẹ hơn bên dưới. Tôi đồ rằng, giống một số loài côn trùng, nữ yêu này có cánh kép. Tổng cộng là bốn cánh, cặp cánh nhẹ hơn xếp bên dưới, được che chắn bằng hai cánh nặng hơn như lớp giáp phòng vệ bên ngoài.

Mab đánh hơi ầm ĩ ba lần. “Có vẻ như đã chết. Khô queo và chết ngắc. Nhưng lại không có mùi như thế. Có điều gì kỳ quặc ở đây. Một điều bí ẩn. Chúng chỉ đang ngủ say thôi phỏng?”

“Hẳn có lý do cho chuyện này đấy Mab,” tôi đáp, tuyệt vọng tìm cách câu giờ. “Tôi cũng thấy khó hiểu. Chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra lời đáp trong những cuốn sách được tìm thấy trong chiếc rương kia. Nhưng tôi đoán thứ trong rương kia cũng vậy. Rằng cả hai vật này có thể sử dụng làm vật hiệp thần. Hãy nghĩ xem, có một thứ như thế này tuân theo lệnh mình thì sẽ hữu dụng đến đâu nào! Đổ ra một chút máu cũng không phải là một cuộc trao đổi tồi đâu nhỉ...”

“Tớ chẳng thích nghĩ đến chuyện cái thứ này mong có bao nhiêu máu đâu,” Mab vừa bảo vừa nghi hoặc nhìn tôi và dịch ngọn đèn ra sau một chút, gương mặt của sinh vật kia lại chìm vào bóng tối. “Bỏ chúng lại vào rương đi,” Mab nhìn hai con em. “Nhanh lên Beth. Mày cũng phụ nó nữa chứ, Jennet. Mấy thứ này kinh khủng quá, tao chẳng thích cái vẻ của chúng tí nào. Tao thấy dễ chịu hơn nhiều khi chúng được khóa kín lại cho an toàn.”

Beth ngoan ngoãn túm lấy mép tấm vải bạt, rõ là định bọc sinh vật kia lại trước khi bỏ vào rương. Nhưng đúng lúc ấy mặt trăng ló ra, và ngay lập tức bên mắt lộ rõ của nữ yêu vụt mở lớn.

Dường như nữ yêu nhìn thẳng vào tôi trước khi rùng mình và chầm chậm đứng lên trên bốn chi. Hai chị em song sinh ré lên hoảng sợ và chạy bắn về phía cánh cửa sập. Mab chỉ thận trọng bước sang một bên, lấy lưỡi dao từ dưới thắt lưng ra và lăm lăm sẵn sàng.

Đầu nữ yêu quay sang phía tôi để tôi có thể nhìn thấy cả hai mắt nó. Đoạn nó hít hà ầm ĩ trước khi quay lại với ba chị em nhà kia. Lúc này, Beth đã bò qua cửa sập, Jennet theo sát đằng sau. Sinh vật kia quày quả lắc mình, như một con chó rũ cho hết nước sau khi chui từ dưới sông lên, rồi trừng mắt nhìn sang Mab.

“Cô đâu nhìn thấy chuyện này, phải không Mab?” tôi gào lên.

“Cậu biết trước chứ gì?” Mab trách cứ. “Cậu đã đọc xem có gì trong rương nhưng lại không nói cho tớ biết! Sao cậu lại làm thế hả Tom? Sao cậu có thể? Sao cậu lại phản bội tớ?”

“Tôi đã mở rương. Tôi đã giữ lời và hy vọng cô thích thứ mình trông thấy,” tôi lẳng lặng đáp, cố gắng kiềm chế cơn giận. Làm sao cô ả có thể buộc tội tôi phản bội cô ta trong khi tôi bị bắt phải làm theo ý ả chứ? Tôi bắt đầu run bần bật, nhớ lại việc Mab đã dí dao vào cổ Mary thế nào, và đột nhiên lời lẽ từ miệng tôi trôi tuồn tuột ra ngoài trong cơn phẫn nộ tuôn trào.

“Ba chiếc rương kia đều thuộc về tôi! Đấy là sự thật và cô biết thế. Còn giờ thì cô đã đánh mất cả ba chiếc rương lẫn quyền kiểm soát ngọn tháp này. Cô đã không thống trị Pendle được bao lâu nhỉ,” tôi dài giọng chế nhạo, nghe thấy giọng mình thật xấu xa khi buông lời nhạo báng. Ngay lập tức tôi hối hận vì đã xát muối vào vết thương người khác. Không cần thiết phải nói năng như vậy. Bố tôi sẽ không thích như thế.

Nữ yêu tiến một bước về phía Mab, cô ả vội lùi ra sau hai bước. “Mày sẽ phải hối tiếc về chuyện này,” Mab đe dọa, bằng giọng thấp trầm nhưng đầy ác độc. “Tao thật lòng quan tâm đến mày, vậy mà giờ mày phản bội tao! Vậy là mày không cho tao quyền lựa chọn đấy nhé! Không chút lựa chọn nào. Bọn tao sẽ gia nhập vào những hiệp hội khác và làm điều mà Wurmalde muốn. Mụ muốn mày phải chết. Muốn làm tổn thương mẹ mày và cản trở các kế hoạch của bà ta. Muốn ngăn không cho mày làm kẻ trừ tà. Và tao sẽ giúp sức cho mụ! Hãy chống mắt nhìn xem mày sẽ thế nào khi Satan săn lùng mày! Hãy chống mắt chờ xem mày cảm thấy thế nào khi chúng tao phái hắn truy đuổi mày!”

Nữ yêu lại tiến tới, cử động chậm rãi nhưng cương quyết, và vẻ hoảng loạn hiện rõ trên mặt Mab. Cô ả rú lên kinh hoàng, đánh rơi cả dao lẫn đèn rồi cuống cuồng bò qua cửa sập theo hai đứa em.

Không chút chần chừ, tôi bước tới, nhặt con dao bị đánh rơi lên, dùng nó cắt đứt sợi dây buộc quanh gói đồ dài sọc còn lại và nhanh nhẹn tháo tấm vải bọc để cho ánh trăng ùa lên sinh vật bên trong. Loáng sau, cả hai nữ yêu đều đã tỉnh rụi. Chúng nhìn tôi dò xét nhưng tôi không hiểu được biểu cảm trong mắt chúng. Thốt nhiên tôi thấy lo, miệng mồm trở nên khô khốc. Lỡ chúng không nhận ra tôi thì sao? Lỡ mẹ tôi lầm thì thế nào?

Có khi nào đây là những bà dì của tôi? Là chị gái của mẹ tôi ấy? Tôi nhớ đến cô Martha, bà con bên phía bố, một phụ nữ già nua nhân từ có hai má đỏ hồng cùng nụ cười thường trực trên môi. Cô ấy đã qua đời nhưng tôi nhớ đến bà với lòng yêu mến. Hai sinh vật này thì quả không thể nào khác hơn! A phải rồi, tôi phải thừa nhận chuyện này thôi: như thế có nghĩa mẹ tôi cũng là phù thủy nữ yêu.

Chuyện gì đã xảy ra thế nhỉ? Có phải là hai chị của mẹ vẫn còn ở trạng thái hoang dã trong khi mẹ tôi dần biến sang hình thái thuần hóa, lành tính và đôn hậu chăng? Mẹ đã mang dáng vẻ con người khi bố gặp mẹ lần đầu. Bố từng là thủy thủ, thuyền của bố cập lại một cảng tại Hy Lạp. Khi bố tìm thấy mẹ bị trói bằng sợi xích bạc, bàn tay mẹ cũng bị đóng đinh vào vách đá. Ai đã gây ra điều ấy và tại sao chứ? Chuyện này có liên quan tới mụ Wurmalde chăng?

Sau đấy, mẹ đã mang bố về nhà mình trong khu vườn có tường vây quanh. Hai người đã chung sống vui vẻ tại đấy một thời gian, nhưng có vài đêm hai chị của mẹ ghé thăm. Thế rồi tôi nhận ra phán đoán đầu tiên của mình thật sai lầm. Bố từng bảo hai chị của mẹ là những người phụ nữ cao dong dỏng, vẻ mặt hung hăng. Họ dường như đã tức giận với bố. Bố nghĩ đấy là lý do vì sao mẹ lại đòi rời khỏi Hy Lạp cho bằng được và lập nghiệp tại Hạt – là để tránh xa các chị của bà.

Tuy nhiên, bố lại không hề hay biết, rằng hẳn hai chị của mẹ đã được bỏ vào trong mấy chiếc rương này trong lúc họ vẫn còn mang hình hài thuần dưỡng. Sau đấy chắc là họ dần biến ngược lại thành hình dáng hoang dã vì bị tước đi sự tiếp xúc với con người, và họ đã ngủ vùi năm này qua tháng nọ. Dường như mọi chuyện đều dẫn đến hướng này. Tôi cũng nhớ đến một điều khác nữa mà mẹ từng nói với tôi:

Không ai trong chúng ta thật tốt hay thật xấu – chúng ta luôn ở lưng chừng chính giữa – nhưng rồi sẽ có một khoảnh khắc trong đời mỗi người chúng ta đi một bước quan trọng về phía ánh sáng hoặc bóng tối... có lẽ đấy là vì một người đặc biệt mà chúng ta gặp được. Vì những gì bố con từng làm cho mẹ mà mẹ đã đi theo con đường đúng đắn, và đấy là lý do vì sao hôm nay mẹ đứng đây.

Có lẽ trước kia mẹ không phải lúc nào cũng thiện chăng? Có phải việc gặp được bố đã làm mẹ thay đổi? Trong lúc đầu óc tôi quay cuồng với những ý nghĩ này, hai nữ yêu quay đi và tiến về phía cửa sập để mở, lần lượt thả mình qua đấy. Tôi đi theo, chậm bước hơn, đầu tiên là nhặt chiếc đèn lồng mà Mab đã bỏ lại. Tôi leo xuống căn phòng bằng gỗ chứa máy móc dùng để hạ cầu kéo, sau đó nhìn vào chỗ sinh hoạt thênh thang bên dưới qua cửa sập thứ hai.

Không gian tràn ngập tiếng la hét nhưng lại vọng ra từ căn nhà kho mà lúc nãy bọn Mouldheel chạy vào; chắc chắn bọn chúng đang cố thoát thân bằng cách leo qua cánh cửa sập kia để xuống khu vực dưới mặt đất đầu tiên của tháp. Tôi bắt đầu đi theo những bậc thang xoắn ốc xuống phía sàn nhà.

Khi tôi đến được tầng trệt, những tiếng kêu gào la hét đã tản ra xa, mỗi lúc một lịm dần. Nhưng có một vệt máu chạy dài từ một trong những chiếc bàn gần bức tường vào trong nhà kho. Tôi thắc mắc không biết mụ phù thủy nào là nạn nhân đây và chầm chậm bước ra phía cửa, do dự không muốn đối mặt với những gì mình có thể tìm thấy tại đấy.

Tuy nhiên, tôi nhận thấy nhà kho trống toang. Tôi bước tới và chõ mắt nhìn xuống cửa sập. Dưới đấy tối om, nhưng từ xa tôi có thể nhìn thấy những ánh đèn nhấp nhô dọc theo vách khi bọn Mouldheel tháo chạy xuống cầu thang xoắn ốc, khoảng không mông mênh ấy dội lên tiếng la thét văng vẳng. Tôi giơ ngọn đèn lên và nhìn xuống. Vệt máu tiếp tục kéo qua cửa sập. Con mắt một nữ yêu long lên, phản chiếu lại ánh đèn. Mụ ta đang lôi thứ gì đó xuống mấy bậc cấp. Là một xác người. Tôi không trông thấy mặt – chỉ nhìn thấy mỗi hai cẳng chân và bàn chân để trần từ từ lui xuống dưới.

Bọn Mouldheel về phe bóng tối nhưng tôi vẫn thấy thương cho nạn nhân đã chết dưới kia. Tôi cũng không thấy dễ chịu vì đã phản bội lại Mab, mặc dù tôi làm thế vì lợi ích của Hạt. Nhưng lỡ Mab nói đúng thì sao? Lỡ cô ả thoát được khỏi hai mụ nữ yêu và sẽ hợp lực cùng với các tộc khác để trả thù tôi thì thế nào? Có phải tôi đã đưa bản thân mình, gia đình mình lẫn toàn bộ Hạt vào một mối nguy còn to lớn hơn?

Tôi đóng cửa sập lại, quay đi, lòng thấy phát ốm. Lẽ ra nếu có thể tôi đã khóa cửa lại, nhưng Alice vẫn còn giữ chiếc chìa đặc biệt. Tôi tin tưởng mẹ mình. Tôi biết mình không có gì phải sợ hai nữ yêu kia. Họ là người thân trong gia đình, tôi mang dòng máu của họ trong huyết quản. Nhưng tôi vẫn không muốn họ ở gần mình. Tôi vẫn chưa sẵn sàng đối mặt với việc mình là gì.