Chương 19 AGNES SOWERBUTTS
Buổi sáng, Alice chuẩn bị điểm tâm cho chúng tôi, tận dụng hết khả năng từ những nguyên liệu có sẵn. Tôi rửa sạch nồi niêu, gọt vỏ cắt khoai, cà rốt, củ cải phụ giúp cô bé. Chúng tôi cũng luộc chín một trong mấy cái giò heo muối, sau khi Alice đã đánh hơi kỹ lưỡng để đảm bảo rằng giò heo không bị đánh thuốc độc.
“Tận hưởng tối đa bữa ăn này đi, anh bạn,” Thầy Trừ Tà bảo tôi khi tôi đang ngấu nghiến món hầm nghi ngút khói. “Đây sẽ là bữa ăn thịnh soạn cuối cùng mà chúng ta được ăn trong một thời gian dài đấy. Sau bữa này chúng ta sẽ phải nhịn đói để chuẩn bị đối phó với thế lực bóng tối!”
Thầy tôi chưa phác thảo những kế hoạch cho ngày hôm ấy nhưng tôi lại lo lắng hơn đến một chuyện đã khiến tôi chong mắt suốt đêm.
“Con đang lo về gia đình của mình,” tôi thưa với thầy. “Chúng ta không thể đi đến Roughlee để đưa mọi người về đầy sao hả thầy? Trong rương của mẹ chắc là có thứ gì đó mà chúng ta có thể dùng để chữa cho Jack...”
Thầy Trừ Tà trầm ngâm gật đầu. “Phải, nghe ra là ý kiến hay đấy. Tốt nhất phải đem họ ra khỏi lãnh địa của đám Deane. Sẽ nguy hiểm đây, nhưng với con bé dẫn đường thì ta chắc là con sẽ xoay sở được thôi mà.”
“Sẽ ổn thôi Tom ạ,” Alice đồng tình. “Đừng lo, họ ổn cả – chúng ta sẽ đem họ an toàn lành lặn trở về đây trong vài giờ nữa. Và tớ chắc là trong rương sẽ có thứ gì đó để giúp cho anh cậu thôi.”
“Và trong khi con đi làm việc này,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, “ta và James sẽ lại ghé xuống Downham lần nữa. Thời gian đang cạn dần và ta thấy có vẻ như nên tập hợp vài trai tráng trong làng lại đem họ lên đây tạm náu. Chúng ta sẽ được ở nơi có lợi thế hơn nếu cần phải tấn công. Và trên đường đến đấy chúng ta sẽ để mắt tìm kiếm mụ Wurmalde cùng Mab nhãi ranh. Wurmalde cần phải được chèn đi để ngăn không cho tác oai tác quái nữa. Con nhãi ranh kia giờ này lẽ ra đã phải bình tâm lại chút đỉnh nên có thể sẽ chịu nghe lý lẽ thôi.”
***
Sau điểm tâm tôi lấy từ trong túi đồ của mình ra một chiếc áo sạch rồi quẳng cái áo vấy máu đi, mừng húm vì cuối cùng cũng đã thoát khỏi nó, cùng với ký ức kinh hoàng về cái chết của cha Stock đáng thương mà chiếc áo này gợi nên. Chưa đầy một giờ đồng hồ sau chúng tôi đã lên đường. Vì không có ai cuộn cầu kéo lên sau khi chúng tôi ra đi nên chúng tôi phải dùng đến đường hầm. Thầy Trừ Tà bảo tôi cầm đèn dẫn đường; Alice đi sau chót, cầm một ngọn đèn khác để soi sáng các bậc cấp từ phía sau. Trong lúc chúng tôi đi xuống, vạn vật hoang tàn tĩnh mặc và tôi để ý thấy rằng các xác chết của mụ phù thủy và tên đàn ông đồng hành cùng mụ ta đã bị lôi đi khỏi chân cầu thang. Nhưng khi đã đi qua cửa sập tầng dưới thì tôi cảm nhận được một sự hiện diện. Ánh đèn chẳng soi tỏ ra được gì và âm thanh duy nhất là tiếng vọng lại từ bước chân của chính chúng tôi. Nhưng căn sảnh quây tròn rất rộng, đàng sau bao cây cột nhà kia là rất nhiều mảng tối; khi chúng tôi rời khỏi những bậc cấp, lông tóc sau gáy tôi dựng cả lên.
“Chúng ta có gì thế kia?” Thầy Trừ Tà vừa hỏi vừa chỉ tay vào một trong những chiếc cột xa nhất.
Thầy bước về phía ấy, trượng lăm lăm sẵn sàng, đèn lồng được giương cao. Tôi sánh vai bên thầy, trượng bên tay trái, Alice và James theo sát gót tôi.
Dưới chân cột nhà là một chiếc chậu bằng gỗ, một thứ gì đấy đang đều đặn nhỏ giọt vào trong chậu. Dấn thêm bước nữa, tôi nhìn ra chậu này đang chứa máu và máu ấy đang từ từ dâng đấy trong khi chúng tôi quan sát.
Ngước mắt nhìn lên, tôi trông thấy từ vùng tối om trên trần nhà cao xa kia thòng xuống những sợi xích; không còn nghi ngờ gì nữa đấy là những sợi xích từng được sử dụng để trói tù nhân khi họ bị tra tấn hay bị bỏ mặc cho đói mà chết. Giờ đây những sợi xích này được dùng cho mục đích khác. Từ lưng chừng sợi xích đến ngược lên tận trên vùng tối om là những con thú nho nhỏ được mắc vào đấy: nào chuột cống, nào chồn, nào thỏ, rồi chuột chũi và một hai con sóc lạc loài. Một số được cột vào xích bằng đuôi, một số khác bằng chân, nhưng tất cả đều bị treo ngược đầu xuống đất. Tất cả đều đã bị giết sạch và máu của chúng đang nhỏ giọt vào trong chậu. Hình ảnh này gợi cho tôi nhớ đến bãi hành quyết của kẻ trông coi vùng săn bắn: nhưng con thú đã chết bị đóng đinh vào hàng rào như một lời cảnh cáo cũng như là hình ảnh trưng bày về những vụ bắn giết đã được tiến hành.
“Thật là một cảnh tượng ghê rợn,” Thầy Trừ Tà nói rồi lắc lắc đầu. “Nhưng chúng ta phải biết lấy làm biết ơn những trò này. Đã có thể có con người bị treo trên kia đấy....”
“Sao các nữ yêu lại làm điều này vậy ạ? Làm thế để làm gì cơ chứ?” tôi hỏi.
Thầy Trừ Tà lắc đầu. “Con này, khi ta tìm hiểu được ra thì ta sẽ viết lại vào sổ ghi chép của mình. Trò này với ta là mới đây. Trước nay ta chưa từng đối phó với các loại nữ yêu có cánh nên thầy trò ta sẽ có nhiều thứ để học hỏi. Có thể đây chỉ là một cách để lấy máu từ nhiều loại thú vật be bé cùng một lúc để tạo ra một lượng vừa đủ cho một bữa đánh chén thỏa thích. Hoặc có thể là một điều gì đấy chỉ có nghĩa với bọn nữ yêu hoang dã. Kho tàng kiến thức của chúng ta sẽ phát triển năm này qua năm khác, nhưng chúng ta phải suy nghĩ cấp tiến, anh bạn ạ, và không phải khi nào cũng chỉ biết mong chờ có ngay câu trả lời. Có lẽ một ngày nào đói rồi con sẽ có dịp đọc hết các ghi chép của mẹ con và tìm ra lời đáp trong đấy. Mà thôi, chúng ta đi tiếp nào. Chẳng còn thời gian để phí phạm nữa đâu.”
Thầy vừa nói xong, từ đâu đấy bên trên vọng xuống một tiếng sồn sột khe khẽ. Tôi bồn chồn nhìn lên trên và nghe thấy một tiếng cách khi Thầy Trừ Tà bấm thả lưỡi dao ẩn trong trượng của mình ra. Trong lúc chúng tôi quan sát, một hình dáng đen ngòm trườn mình xuống cột nhà về phía ánh sáng từ đèn lồng tỏa ra thành hình mái vòm. Là một trong hai nữ yêu hoang dã.
Sinh vật này đã leo xuống chìa đầu ra trước. Hai cánh của nó được xếp gọn ngang lưng còn toàn thân nó ẩn trong bóng tối. Chỉ có cái đầu là được chiếu sáng mồn một. Thầy Trừ Tà chĩa mũi dao về phía nữ yêu còn James đã bước tới trước giương thanh búa rèn lên, sẵn sàng vung tới. Nữ yêu đáp lại bằng cách ngoác to mồm ra và rít lên, để lộ ra cho chúng tôi thấy thoáng hàm răng trắng sắc lẻm như dao cạo.
Tôi hạ trượng mình xuống rồi chạm nhẹ vào vai Thầy Trừ Tà và James. “Sẽ không sao đâu ạ. Nó sẽ không làm hại con đâu,” tôi nói, đoạn bước lên xen giữa hai người và nữ yêu và tiến gần hơn về phía nó.
Mẹ bảo những sinh vật này sẽ bảo vệ cho tôi, thậm chí với cả cái giá là chính mạng sống của chúng, và tôi có cảm giác rằng James cũng được an toàn. Tôi chỉ lo cho Thầy Trừ Tà và Alice. Tôi không muốn nữ yêu kia tấn công hai người họ. Và cũng không muốn bất cứ ai phải giết lấy nữ yêu để tự vệ cả.
“Cẩn thận đấy Tom,” Alice năn nỉ vọng tới. “Tớ không thích cái vẻ của thứ này tí nào. Thật là một thứ xấu xí, nguy hiểm. Làm ơn nhé, cậu đừng có tin tưởng nó....”
“Phải rồi, con bé nói đúng đấy. Hãy đề cao cảnh giác nhé anh bạn. Đừng đến quá gần,” Thầy Trừ Tà cảnh báo.
Bất chấp những lời khuyên của hai người tôi vẫn tiến gần thêm một bước nữa. Trên cột nhà bằng đá ấy có hằn những vết cào do các móng vuốt sắc nhọn của sinh vật ấy tạo nên. Hai mắt nó đang nhìn trừng trừng thẳng vào mắt tôi.
“Không sao đâu,” tôi trò chuyện với nữ yêu, cố giữ cho giọng mình bình tĩnh. “Những người này là bạn ta. Xin đừng làm hại đến họ. Hãy cứ canh chừng cho họ như người canh gác cho ta, hãy để cho họ đến và đi tự do theo ý họ.” Rồi tôi mỉm cười.
Một đôi chốc trôi qua mà không có phản ứng gì xảy ra, nhưng rồi hai con mắt tàn bạo kia hơi mở lớn hơn một chút rồi hai môi khẽ hé mở. Trông giống một cái nhăn mặt cau có hơn là một nụ cười. Thế rồi, từ bên dưới thân mình, một trong hai chi trước của nữa yêu giơ về phía tôi, những móng vuốt còn cách mặt tôi chưa tới một gang tay. Tôi tưởng nữ yêu sẽ chạm vào mình, nhưng hoàn toàn ngược lại, nó chỉ chúi đầu xuống chấp thuận, và, hai mắt vẫn giữ nguyên nhìn vào tôi, nó trườn ngược lên cột nhà biến mất vào bóng tối.
Tôi nghe thấy James thở dài nhẹ nhõm rõ to sau lưng mình. “Thật chẳng muốn làm cái nghề của em bằng bất cứ giá nào cả!” anh ấy thốt lên.
“Ta chẳng trách anh vì chuyện ấy đâu James,” Thầy Trừ Tà nói, “nhưng cũng phải có ai đó làm thôi chứ. Mà này, ta đi tiếp thôi nào...”
Bấy giờ Alice lại dẫn đầu, tay giơ cao đèn lồng, đi thẳng vào lối đi giữa hai hàng buồng giam. Mỗi bên đều chứa những kẻ đã khuất không được bình an. Tôi có thể cảm nhận được sự thống khổ của họ, nghe thấy lời họ van lơn. James, vì không phải là con trai thứ bảy của người con thứ bảy, nên sẽ không phải chịu lấy điều này, nhưng tôi thì chỉ biết hăng hái muốn di chuyển tiếp thật nhanh vào đường hầm, để lại mọi nỗi đau khổ đó sau lưng mình. Tuy nhiên, trước khi chúng tôi đến được cánh cửa gỗ dẫn ra đường hầm bên ngoài, Thầy Trừ Tà đặt tay lên vai tôi rồi dừng bước.
“Kinh khủng thật đấy anh bạn,” thầy nhẹ nhàng nói. “Nơi này đầy những linh hồn bị tra tấn. Bao linh hồn bị mắc kẹt vào một chỗ, nhiều hơn bất cứ nơi đâu mà trước đây ta từng gặp phải. Ta không thể nào để mặc họ như thế này được...”
“Linh hồn à? Linh hồn gì kia?” James bật hỏi, lo lắng nhìn quanh.
“Chỉ là những linh hồn của những kẻ đã chết nơi đây thôi mà,” tôi đáp lời. “Không có gì phải lo đâu nhưng họ đang chịu đau đớn và cần được giải thoát.”
“Đúng vậy,” Thầy Trừ Tà bảo, “và lúc này nghĩa vụ của ta là phải xử lý bọn họ. E là sẽ mất một thời gian đây. Thôi này, James, anh cứ đi thẳng đến Downham đi nhé. Anh không cần đến ta. Thực ra thì có thể anh lại thấy dễ dàng nhóm họp dân làng lại hơn nếu không có ta ở đấy. Anh hãy qua đêm tại đấy và ngày mai thì dẫn lên đây càng nhiều người càng tốt. Đừng có cố đi qua đường hầm – ta không nghĩ đi băng qua khu hầm ngục này giúp ích gì cho tinh thần dũng cảm của dân làng đâu. Anh hãy đi thẳng đến tháp rồi bọn ta sẽ hạ cây cầu xuống. Và còn điều nữa này – ta sẽ chưa đề cập đến cái chết của cha Stock đáng thương đâu. Tin này sẽ là đòn giáng chí mạng xuống dân làng, sẽ không tốt cho tinh thần mọi người. Còn với hai cô cậu này” – thầy nhìn qua lại giữa tôi và Alice – “hãy đi đến Roughlee mà đem Jack, Ellie và đứa bé quay lại đây về nơi an toàn. Ta hy vọng gặp lại được hai đứa trong vòng tối đa là vài giờ đồng hồ nữa.”
Có vẻ như thế này là thích hợp nhất, nên chúng tôi để Thầy Trừ Tà lại cùng một ngọn đèn lồng trong lúc thầy chuẩn bị cho công tác dài hơi để đưa những kẻ đã khuất bị hành hạ trong tháp Malkin về vùng ánh sáng. Đoạn chúng tôi đi men theo đường hầm, Alice đi đầu còn James theo sát bên tôi.
Chẳng bao lâu sau chúng tôi đến hồ nước, Alice thận trọng bước tới, giơ cao ngọn đèn. Một mùi hôi hám thối rữa bỗng xộc vào mũi tôi. Tôi cảm thấy không yên. Trong lần ghé qua lúc trước, mặt nước hồ luôn lăn tăn xáo động, nhưng lần này nước lại êm ru tĩnh lặng, phản chiếu lại ngọn đèn đang tỏa sáng cùng đầu và hai vai Alice như một tấm gương. Rồi tôi thấy ra lý do vì sao.
Thủy ác vong không còn canh gác đường hầm này nữa. Rất nhiều mảnh da thịt của hắn đang lều bều nổi trên mặt nước. Đầu hắn ở gần nơi bức tường bên kia. Một cánh tay lực lưỡng ở bên gần bờ bên này, những ngón tay dày cui không chút máu đặt trên lối đi bùn sình như thể nó đang cố bám bò ra khỏi hồ.
Alice chỉ tay xuống lối mòn. Trên đấy có hằn dấu chân – nhưng không phải dấu chân người. Đây là những dấu chân được một trong hai nữ yêu tạo ra.
“Nữ yêu đã phát quang lối đi cho cậu đấy Tom,” Alice bảo. “Và trừ khi là tớ sai lầm rất lớn, bằng không thì chúng ta cũng sẽ chẳng có mụ phù thủy nào để lo lắng đến nữa đâu.”
Chắc là Alice nói phải, nhưng khi chúng tôi đi bọc ven hồ, cảm giác khó chịu trong tôi lại quay lại. Rõ ràng thủy ác vong đã bị hủy diệt nhưng tôi lại có một cảm giác kỳ lạ rằng mình đang bị theo dõi.
Chúng tôi nhanh chân đi qua hồ, dẫm lên những ngón tay phù nề, và tiếp bước cho đến khi đến được căn phòng bằng đất sét. Sau khi đứng trong đấy một đỗi, lắng tai nghe ngóng hiểm nguy, chúng tôi đi tiếp vào trong phần trần thấp cuối cùng của đường hầm, nơi buộc chúng tôi phải thấp người bò trên hai tay và đầu gối. Bò như thế tới trước thật khó khăn làm sao, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng lê mình vào được ngăn chất xương vào trong thạch cổ mộ. Khi tôi lồm cồm bò ra ngoài, Alice đang phủi phủi bụi đất khỏi mình. Cô bé giương đèn lồng lên và tôi liếc sang phía những vòng sắt trống không trong góc. Maggie Chết Ngắc đã mất tiêu, chắc là đã được gia đình mụ ta thả đi khi bọn chúng tháo chạy.
Chúng tôi thổi tắt đèn, Alice bỏ đèn lại ngay ngoài cửa thạch cổ mộ phòng khi tương lai có cần đến. Ra đến ngoài, chúng tôi chia tay nhanh gọn với James, rồi anh đi ngược lên hướng bắc về phía Downham. Chập sau tôi và Alice đã rong ruổi băng qua rừng cây đi về phía Roughlee, một cơn gió mạnh bẻ oằn những đọt lá non, mùi vị cơn mưa mùa hạ sắp sửa kéo đến tràn ngập trong không khí.
Chúng tôi bước đi một lúc trong im lặng. Bầu trời trở tối đen hơn, trời bắt đầu mưa và tôi mỗi lúc một thêm bất an. Mặc dù nói chung là tôi tin tưởng khả năng nhận định của Alice, nhưng hễ càng nghĩ đến thì tôi thấy có vẻ việc để gia đình tôi lại với một người trong tộc Deane là một việc điên rồ hết mực.
“Bà cô này của cậu ấy – cậu có chắc bà ấy đáng tin không?” tôi hỏi. “Hẳn là từ dạo cuối cùng cậu gặp bà ấy đến nay cũng đã vài năm rồi. Hẳn bà ta đã thay đổi rất nhiều từ dạo ấy. Biết đâu bà ta đã thâm nhiễm sự ảnh hưởng từ những kẻ còn lại trong gia đình bà ta thì sao?”
“Tom này, không có gì phải lo đâu mà, tớ hứa đấy. Agnes Sowerbutts chẳng khi nào sử dụng phép thuật phù thủy cho đến khi chồng cô ấy qua đời. Và giờ đây thì cô ấy là người mà dân quanh đây hay gọi là “thông thái.” Cô ấy giúp đỡ mọi người và giữ khoảng cách với những người còn lại trong tộc Deane.”
Nghe thế tôi thấy yên tâm hơn. Có vẻ như Agnes là loại mà Thầy Trừ Tà sẽ gọi bằng thuật ngữ "loại lành" và bà ta dùng năng lực của mình để giúp đỡ kẻ khác. Khi chúng tôi trông thấy thấp thoáng nhà bà ta, mọi chuyện trông còn có vẻ đầy hứa hẹn hơn nữa. Đấy là một ngôi nông trang một tầng, đứng đơn độc lẻ loi, dưới chân một sườn đồi, ngay ven rìa một lối mòn hẹp; cách đấy ít nhất là một dặm về phía tây nam, khói từ ống khói trong làng bốc lên qua những rặng cây.
“Cậu chờ đây nhé Tom,” Alice đề nghị. “Tớ chỉ đi xuống đấy xem mọi chuyện có ổn không đã.”
Tôi nhìn theo Alice bước xuống đồi. Lúc này những đám mây đen đang sà xuống thấp hơn và mưa càng thêm nặng hạt – thế là tôi kéo mũ trùm áo choàng lên. Cánh cửa vào nhà mở ra trước khi Alice bước đến và cô bé nói chuyện với ai đó vẫn còn ẩn mình trên hiên nhà. Đoạn Alice quay ra ngoắc tay ra hiệu cho tôi đi xuống đồi. Khi tôi đến cửa thì cô bé đã vào bên trong, nhưng rồi một giọng nói từ trong nhà vọng ra gọi tôi.
“Vào nhà trú khỏi cơn mưa và đóng cửa lại nào!”
Tôi làm theo. Đấy là một giọng phụ nữ, hơi cộc cằn một chút nhưng đồng thời cũng lẫn cả sự tử tế và uy quyền. Bước vài bước là tôi đi vào căn phòng khách chật chội có một ngọn lửa nhỏ đang bập bùng trong lò sưởi và một ấm nước đang sắp sôi trên đầu lò. Trong này còn có cả một chiếc ghế đu cùng một chiếc bàn ăn, trên đấy duy chỉ có một cây nến không thắp sáng – mà, tôi để ý thấy với đôi chút thú vị lẫn nhẹ lòng, rằng cây nến ấy được làm từ sáp ong chứ không phải là loại sáp đen được bọn phù thủy độc ác ưa chuộng.
Căn phòng vui mắt làm sao – không hiểu vì sao mà toàn căn phòng tràn ngập nhiều ánh sáng hơn là lượng ánh sáng do cái cửa sổ bé xíu kia hẳn đã để cho lọt vào. Còn có rất nhiều tủ chén bát cùng hàng dãy hàng dãy nối tiếp nhau những kệ gỗ chất đầy hũ lọ các kiểu cùng hộp đựng đầy hình dáng kỳ quặc. Mỗi món mang một nhãn được ghi bằng một hay vài từ tiếng La Tinh. Rõ ràng tôi đang ở trong nhà một bà lang.
Alice đang dùng khăn lau khô tóc. Agnes Sowerbutts, đang đứng cạnh cô bé, chỉ cao đến vai cô cháu gái nhưng lại đậm người gấp đôi chiều cao, cùng một nụ cười nồng hậu chào đón tôi vào nhà mình.
“Gặp được cậu thật hay quá, Tommy ạ,” bà vừa nói vừa đưa cho tôi chiếc khăn lau. “Lau khô người kẻo lại cảm lạnh nào. Alice đã kể cho ta nghe rất nhiều về cậu đấy.”
Tôi gật đầu, cảm ơn về chiếc khăn và miễn cưỡng cười lại cho phải phép. Tôi không thích bị gọi là ‘Tommy’ cho lắm nhưng hình như chẳng đáng để phàn nàn làm gì. Tôi lau khô mặt, lo lắng khi không thấy bóng dáng của Ellie, Jack và Mary đâu cả.
“Gia đình cháu đâu rồi ạ?” tôi hỏi. “Họ ổn cả chứ?”
Bà Agnes bước đến gần hơn vuốt vuốt tay tôi trấn an. “Gia đình của cậu đang được an toàn trong phòng bên đấy Tommy. Họ đang say ngủ yên bình lắm. Cậu có muốn trông thấy họ không nào?”
Tôi gật đầu, bà Agnes mở cửa lùa tôi vào trong một căn phòng chứa chiếc giường đôi to tướng. Có ba hình bóng con người đang nằm ngửa bên trên tấm trải giường – Jack và Ellie, đứa bé nằm giữa hai anh chị. Mắt mọi người đang nhắm chặt và trong tích tắc một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi khi tôi e sợ đến điều kinh khủng nhất. Tôi thậm chí còn không thể nghe ra tiếng mọi người đang thở.
“Không có gì phải lo cả đâu Tom,” Alice bước vào trong phòng ngủ từ phía sau tôi. “Cô Agnes đã cho mọi người uống một liều thuốc cực mạnh. Khiến mọi người ngủ cho thật say để họ có thể khôi phục lại sức mạnh ấy mà.”
“Ta lấy làm buồn phải nói là không thể cứu chữa được cho anh trai của cậu,” bà Agnes vừa nói vừa lắc đầu. “Nhưng giờ cậu ta đã khỏe hơn rồi, và khi thức dậy cậu ta phải tự bước đi được thôi. Nhưng ta lại không thể làm được gì với trí óc của cậu ta cả. Trong đấy là cả một mớ bòng bong. Cậu ta đang hoang mang rối bời cả lên, thật tội nghiệp Jack.”
“Anh ấy rồi sẽ ổn thôi Tom ạ,” Alice nói, đoạn đi đến bên tôi siết nhẹ tay tôi an ủi. “Ngay khi chúng ta quay trở về thì tớ sẽ coi qua trong rương của mẹ cậu. Chắc chắn trong ấy sẽ có thứ gì đấy để giúp cho Jack.”
Alice có ý tốt đấy nhưng nói thế vẫn không làm tôi cảm thấy đỡ hơn được. Tôi bắt đầu băn khoăn không rõ liệu anh trai mình có khi nào hồi phục được hoàn toàn hay không. Chúng tôi quay trở ra phòng khách và cô Agnes đun cho chúng tôi một thứ thức uống tăng lực bằng thảo dược. Thứ nước này có vị đắng nghét nhưng Agnes bảo đảm với tôi rằng nó sẽ có ích cho chúng tôi và giúp tăng cường thêm sức mạnh cho chúng tôi để đối phó với bất cứ chông gai nào trước mặt. Bà còn bảo gia đình tôi sẽ tự nhiên thức dậy trong vòng một tiếng đồng hồ tới và họ sẽ có đủ sức để đi ngược về tháp Malkin.
“Có gì mới để nói cho bọn cháu không ạ?” Alice vừa hỏi vừa nhấp một ngụm thức uống.
“Người trong nhà không nói gì nhiều với ta cả,” Agnes đáp. “Bọn họ không phiền đến ta, ta không phiền đến họ, nhưng ta vẫn có thể tự mình nhìn thấy. Đã có rất nhiều hoạt động trong mấy ngày qua. Họ đang chuẩn bị sửa soạn cho Lễ Hội Mùa. Hôm qua lại thêm nhiều người bên nhà Malkin ghé thăm, ta hiếm khi nào trông thấy nhiều đến thế cả. Cũng có cả bọn Mouldheel đến đây nữa – một việc mà cả đời này ta chưa từng biết đến.”
Alice bỗng nhiên bật cười, một thoáng chế giễu thể hiện trong giọng nói. “Cháu cá là không phải tất cả bọn chúng đều đi ngang qua cửa sổ nhà cô đâu, vậy thì làm sao cô biết được hết mọi chuyện này vậy?”
Bà Agnes hơi biến sắc. Thoạt đầu tôi tưởng là bà thấy bị xúc phạm nhưng tôi chóng nhận ra đấy chỉ là xấu hổ. “Một bà già như ta cần có chút chuyện giật gân, phải không nào? Cứ trông ra cửa sổ mà nhìn xuống cánh đồng đầy cừu kêu be be hay cây lay gió giật thì chẳng gì vui cả. Việc ta làm cũng vui như là tám chuyện vậy thôi. Giúp ta khỏi bị cô đơn quá ấy mà.”
Alice mỉm cười và âu yếm siết chặt tay tôi. “Bà cô Agnes của tớ đây, cô thích dùng gương lắm, để có thể nhìn thấy những gì đang xảy ra trong thế giới ngoài kia. Bây giờ cô có làm thế cho chúng cháu được không, hả cô?” Alice quay sang mỉm cười với bà lão. “Quan trọng lắm đấy ạ. Chúng cháu cần phải nhìn được là bọn Mouldheel đang trù tính chuyện gì. Tốt hơn cả là chúng cháu muốn trông thấy Mab Mouldheel. Cô có thể tìm ra con ả ấy cho chúng cháu được không ạ?”
Bà Agnes không đáp lời gì trong một đỗi, nhưng rồi bà khẽ gật đầu và đi sang góc phòng đầu kia. Tại đấy, bà lục lọi quanh tủ chén rồi lôi ra một chiếc gương. Gương không lớn lắm, cao chừng ba mươi phân và rộng cỡ mười lăm phân, nhưng gương được đóng trong khung bằng đồng và đặt trên một chân đế nặng nề. Bà đặt gương lên bàn rồi chỉnh ngọn nến chếch sang bên trái. Đoạn bà Agnes kéo ghế ra ngồi xuống đối diện với gương.
“Alice, kéo màn đóng lại đi!” bà Agnes ra lệnh, rồi với tay về phía cây nến.
Alice làm theo như được bảo, những tấm màn dày nặng nhấn chìm căn phòng vào bóng thâm u. Ngay khi bàn tay bà Agnes trùm lên cây nến, thì ngọn nến bùng cháy lên phần phật. Tôi tin vào sự phán đoán của Alice nhưng đột nhiên tôi bắt đầu nghi ngờ rằng bà này còn hơn chỉ là một bà lang bình thường. Một nữ thông thái không sử dụng gương và nến. Thầy Trừ Tà hẳn sẽ không vui đâu, nhưng mà thôi, Alice cũng thường hay làm những chuyện mà thầy cũng có đồng ý đâu. Tôi chỉ hy vọng rằng, như là Alice, bà Agnes này luôn dùng quyền năng của mình cho những việc thiện hơn là để phục vụ cho thế lực bóng tối.
Một đỗi kéo dài chỉ có sự im lặng mà theo đấy tôi chỉ có thể nghe thấy tiếng mưa quất rào rạt vào cửa sổ. Và rồi, khi bà Agnes bắt đầu lẩm rẩm lầm rầm, Alice và tôi đứng sau lưng bà để có thể nhìn qua vai bà vào gương, chiếc gương bắt đầu vần vũ đục ngầu gần như ngay lập tức.
Tay phải của Alice nắm chặt tay trái tôi. “Cô Agnes thành thạo sử dụng gương lắm,” cô thì thào vào tai tôi. “Thậm chí còn ngang ngửa với bọn Mouldheel cơ đấy!”
Một loạt những hình ảnh nối tiếp nhau lùa qua gương: bên trong một căn nhà bề bộn; một bà già ngồi khòm lưng trên ghế, tay ve vuốt con mèo mun trên đầu gối mình; nơi nào đấy trong như một bàn thờ đổ sụp trong ngôi nhà nguyện tan hoang. Rồi gương tối sầm và bà Agnes bắt đầu lắc lư người qua lại, những từ ngữ từ môi bà tuôn ra mỗi lúc một nhanh hơn, mồ hôi bắt đầu túa ra trên hàng chân mày của bà.
Tấm gương hơi sáng lên một tẹo, nhưng giờ thì chúng tôi chỉ có thể trông thấy những đám mây vần vũ rượt đuổi nhau rồi sau đấy là gì đấy trông như những cành cây quăng quật trong gió. Có vẻ kỳ lạ quá. Bà ta đang làm như thế nào ấy nhỉ? Tấm gương kia là đang ở đâu mới được? Hình như chúng tôi đang từ dưới mặt đất nhìn ngược lên trên. Rồi hai con người xuất hiện. Trông họ méo mó, phồng to lên. Trông như góc nhìn từ mắt con kiến, đang ngước lên nhìn vào những thứ khổng lồ. Một dáng người chân để trần; kẻ còn lại mặc một chiếc váy dài. Ngay cả trước khi những hình ảnh ấy được sắc nét và tôi có thể nhìn ra mặt bọn chúng, thì tôi đã biết chúng là ai rồi.
Mab đang trò chuyện hoa chân múa tay với Wurmalde, mụ ta đang đặt một tay lên vai cô ả. Mab thôi không nói nữa và cả hai mỉm cười rồi gật đầu. Bỗng nhiên hình ảnh bắt đầu luân chuyển. Cứ như thể một đám mây đen từ bên trái màn ảnh kéo ngang qua, và tôi nhận ra là góc quan sát ưu việt của chúng tôi đã bị mép váy mụ Wurmalde che khuất. Rồi tôi nhác thấy một trong hai mũi giày nhọn của mụ phù thủy, và rồi, cạnh đấy, là một bàn chân trần, có ba ngón với những món sắc nhọn độc địa. Mụ Wurmalde lại đang che giấu Tibb dưới chân váy.
Hình ảnh nhòe đi và tấm gương tối sầm lại, nhưng chúng tôi đã trông thấy đủ lắm rồi. Trông có vẻ như là bọn Mouldheel đang sắp sửa gia nhập với hai tộc còn lại. Bà Agnes thổi tắt nến và mệt mỏi đứng lên. Sau khi kéo mở màn cửa ra, bà ấy quay lại lắc lắc đầu. “Cái thứ quái thú tinh vi độc ác đấy khiến ta rùng cả mình,” bà bảo. “Thế giới này sẽ tốt đẹp hơn nhiều nếu không có hắn.”
“Không có cả Wurmalde nữa,” Alice nói theo.
“Bà làm thế bằng cách nào vậy ạ?” tôi hỏi bà Agnes. “Cháu cứ tưởng phải có hai tấm gương cơ...”
“Tùy vào việc phù thủy đấy uy lực đến cỡ nào,” Alice đáp hộ cho cô mình. “Nước cũng có tác dụng tương tự. Có thể là một chậu nước, hoặc ngay cả một vũng nước cũng được, nếu vũng nước ấy thật tĩnh lặng. Cô Agnes đã rất thông minh và khéo léo: mụ Wurmalde và Mab đang đứng bên rìa một vũng sình tướng, thế là cô tớ sử dụng vũng sình ấy.”
Nghe những lời ấy thốt ra một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi, và trong tâm tưởng mình tôi lại trông thấy một hồ nước dưới lòng đất, với những mảnh xác của thủy ác vong lều bều bất động, mặt hồ trông phẳng lặng như gương. Rồi tôi nhớ đến cảm giác bất an của mình.
“Cháu đã cảm nhận một luồng ớn lạnh khi chúng cháu đi ngang qua hồ nước ngầm,” tôi nói. “Như thể là cháu đang bị nhìn trừng trừng vào vậy. Có lẽ nào ai đó đang sử dụng hồ nước như là chiếc gương để trông thấy chúng cháu đi ngang qua không vậy ạ?”
Bà Agnes gật đầu và hai mắt trở nên đăm chiêu. “Có thể lắm, Tommy ạ. Mà nếu là như thế, thì bọn chúng sẽ biết là con đã rời khỏi vòng an toàn của tòa tháp và bọn chúng sẽ phục đón chờ con quay lại đấy.”
“Vậy chúng cháu sẽ đi đường khác thôi,” tôi đề nghị. “Thầy Trừ Tà vẫn còn ở trong tháp Malkin nên thầy sẽ hạ cầu xuống cho chúng cháu. Chúng cháu có thể đi thẳng xuyên qua rừng đến tháp. Bọn chúng sẽ không ngờ thế đâu.”
“Có thể thử cách này,” Alice ngờ vực đáp. “Nhưng bọn chúng cũng có thể chờ trong rừng Quạ vậy, và chúng ta sẽ phải gào to lên cho Thầy Trừ Tà để chúng ta vào. Dầu thế, làm vậy chúng ta vẫn có thể có cơ may cao hơn. Nhất là nếu chúng ta đi vòng theo đường dài và tiến đến từ hướng bắc.”
“Nhưng còn có một rắc rối khác,” tôi bảo. “Có thể Thầy Trừ Tà sẽ bận rộn hàng giờ liền xử lý những người chết dưới hầm ngục. Vậy thì thầy sẽ không nghe thấy chúng ta. Chúng ta sẽ phải chờ đợi trước khi quay về. Chờ cho đến sau khi trời tối...”
“Các cháu luôn được chào đón ở lại đây cho đến khi đấy,” bà Agnes bảo. “Thế một ít súp để làm ấm dạ thì thế nào nhỉ? Gia đình cháu sẽ rất đói khi họ thức giấc. Ta sẽ nấu một ít cho mọi người.”
Trong khi bà Agnes chuẩn bị thức ăn, từ phòng bên vọng ra tiếng khóc khe khẽ. Bé Mary đã tỉnh giấc. Gần như ngay tức khắc tôi nghe thấy tiếng Ellie dỗ dành con bé, nên tôi gõ lên cửa phòng rồi bước vào. Ellie đang vỗ về Mary còn Jack đang ngồi bên mép giường hai tay ôm đầu. Anh ấy thậm chí còn chẳng ngước lên khi tôi bước vào.
“Chị có đang thấy khá hơn không vậy Ellie?” tôi hỏi. “Còn anh Jack thì sao rồi ạ?”
Ellie nhẹ cười với tôi. “Đỡ hơn nhiều lắm, cảm ơn em, anh Jack hình như cũng khỏe hơn nữa. Anh ấy chưa nói năng gì, nhưng nhìn anh ấy kia – đã đủ sức tự ngồi dậy. Như thế là tiến triển rất lớn rồi.”
Jack vẫn ngồi y một vị trí và không nhận biết lấy tôi, nhưng tôi cố ra mặt vui tươi vì không muốn đánh động Ellie. “Thế thì tốt quá,” tôi nói với chị. “Mà này, chúng em sẽ đem anh chị quay lại tháp Malkin cho an toàn.”
Nghe thấy lời tôi, vẻ cảnh giác loáng qua mặt chị.
“Không đến nỗi tệ lắm đâu ạ,” tôi bảo chị, cố ra giọng trấn an. “Tháp ấy giờ đã nằm trong tay chúng em và tuyệt đối an toàn rồi.”
“Chị lại hy vọng không bao giờ phải trông thấy cái nơi u ám ấy lần nữa,” Ellie bảo.
“Làm vậy vì lợi ích tốt nhất nhất Ellie à. Chị sẽ được an toàn tại đấy cho đến khi chúng ta có thể quay về nhà nơi nông trại. Mọi thứ rồi sẽ quay lại bình thường nhoắng cái ấy mà.”
“Chị cũng muốn nghĩ như thế lắm chứ Tom, nhưng sự thật là chị không có lắm hy vọng. Chị chỉ từng mong muốn được làm một người vợ tốt cho Jack và có được một gia đình riêng mình để yêu thương. Nhưng những gì vừa xảy ra đã phá hỏng mọi thứ. Chị không mường tượng ra được là mọi chuyện có khi nào lại trở lại như chúng vốn thế được. Chị rồi sẽ phải ra vẻ can trường chịu đựng vì Mary bé bỏng mà thôi.”
Đúng lúc ấy Jack đứng lên lệt bệt đi về phía tôi, một vẻ hoang mang ngớ ngẩn trên mặt.
“Thấy anh đứng lên thật mừng quá Jack à!” tôi reo lên, chìa tay ra chào đón anh. Anh Jack của ngày xưa hẳn sẽ ôm chầm lấy tôi và hồ hởi sém chút nghiến nát mấy xương sườn của tôi ra ấy chứ, nhưng anh trai tôi còn lâu mới trên đà hồi phục. Anh dừng chân khi còn cách tôi ba bước và miệng anh chỉ há ra đóng lại vài lần; đoạn anh lắc đầu hoang mang. Anh trông có vẻ đủ cứng cáp để đứng trên hai chân nhưng lời lẽ thì đã bỏ anh mà đi mất rồi. Tôi chỉ biết hy vọng là Alice sẽ có thể tìm thấy được thứ gì đó trong rương của mẹ để giúp cho Jack mà thôi.
***
Ngay sau khi mặt trời lặn chúng tôi cảm ơn bà Agnes Sowerbutts rồi lên đường, cơn mưa đã dịu đi thành mưa phùn lắc rắc.
Alice và tôi bước đi phía trước dẫn đường nhưng vận tốc chúng tôi không được nhanh lắm. Cơn mưa cuối cùng cũng dứt hẳn, nhưng vẫn còn mây ken dày và trời rất tối, điều này ít ra sẽ làm cho bất cứ kẻ nào đang phục đón đường chúng tôi phía trước thêm phần khó khăn. Bé Mary lo lắng cứ mãi bám vào mẹ, khiến mẹ cô bé phải liên tục dừng bước vỗ về con bé. Jack cứ nhẩn nha nhẩn nhơ như thể anh có cả ngày rộng tháng dài, nhưng anh lại va vấp vào đủ thứ và có lúc còn trượt chân khỏi một súc gỗ, tạo ra tiếng động đủ ầm ĩ để đánh động mọi phù thủy ở Pendle.
Kế hoạch của chúng tôi là đi men theo hướng đông, băng qua rừng Quạ về hướng xa phía tay phải. Phần đầu tiên trong kế hoạch diễn ra êm gọn, nhưng khi chúng tôi bẻ cua để tiến về tháp từ hướng bắc, tôi bắt đầu cảm thấy mỗi lúc một thêm bất an. Tôi có thể cảm nhận được điều gì đó đằng xa kia trong bóng tối. Thoạt đầu tôi chỉ mong là sự tưởng tượng của mình đang bày trò, nhưng những đám mây bắt đầu bị gió xé toạc thổi tản mác đi, bầu trời mỗi phút một thêm sáng hơn. Rồi mặt trăng tìm thấy khe hở giữa những đám mây và toàn khu vực được chiếu sáng dưới ánh trăng bàng bạc. Khi liếc qua sau vai, tôi có thể trông thấy những bóng người thực thụ ở phía xa xa trước khi một đám mây lớn một lần nữa lại nhấn chìm chúng tôi vào bóng tối.
“Bọn chúng đang ở sau chúng ta đấy Alice, và đang tiến mỗi lúc một gần hơn,” tôi bảo với Alice, giữ cho giọng mình thật khẽ để không đánh động những người khác.
“Là phủ thủy. Rất rất đông!” Alice đồng tình. “Thêm vài tên đàn ông trong tộc của chúng nữa.”
Chúng tôi đi vào rừng Quạ và đang đi chuyển về phía một dòng suối nước chảy xiết, từng bước từng bước mỗi tiến lại gần hơn. Tôi có thể nghe thấy tiếng nước róc rách rì rào rơi qua các phiến đá
“Chúng ta sẽ được an toàn nếu băng qua con suối!” tôi gào lên.
May mắn sao mà bờ suối khá thấp, tôi giữ tay Ellie khi chị ấy vội vã băng qua, bồng theo Mary. Nước suối sâu chưa tới đầu gối chúng tôi nhưng các phiến đá dưới chân lại trơn tuột. Jack chật vật lắm mới băng qua được và còn ngã những hai lần, lần thứ hai gần với bờ bên kia, nhưng anh lê mình lên được bờ suối sình lầy mà không ta thán gì. Chúng tôi qua đến được bờ bên kia và tôi nhẹ cả người khi nguy hiểm trước mắt đã qua. Đám phù thủy sẽ không thể nào băng qua con suối được. Nhưng ngay lúc mặt trăng lại thoáng trồi ra ngoài tôi trông thấy một điều khiến tôi hãi hùng. Cách tay phải chúng tôi chừng hai mươi thước là một đập phù thủy, một tấm gỗ nặng lửng lơ trên dòng nước. Được treo vào những sợi thừng bắc qua ròng rọc mắc vào các tay quay ở hai bên bờ suối, tấm gỗ được đặt giữa hai cây cột có đường rãnh để giữ cho nó nằm đúng vị trí khi được hạ xuống.
Chúng tôi đã có được chút ít thời gian nhưng sẽ không đủ. Kẻ thù của chúng tôi sẽ chỉ cần vài chốc để hạ đập xuống ngăn dòng nước lại. Một khi đã băng qua rồi, bọn chúng sẽ tóm được chúng tôi ngay thôi trước khi chúng tôi kịp đến được tháp.
“Có một cách để ngăn chúng đấy Tom!” Alice la lớn. “Không phải là hết hy vọng đâu. Theo tớ nào!”
Cô bé chạy về phía đập phù thủy. Ánh trăng le lói chiếu sáng toàn cảnh trong chốc lát và Alice chỉ tay về phía dòng nước phía dưới tấm gỗ. Tôi có thể trông thấy thứ như là một đường thẳng tối đen rộng bề ngang chạy từ bờ bên này sang bờ bên kia.
“Đấy là một rãnh đấy Tom,” Alice nói lớn. “Đám đàn ông trong tộc dịch chuyển những tảng đá đi để cắt thành một đường mương dưới lòng suối. Sau đó bọn họ chất dọc đấy những củi gỗ. Như thế sẽ tạo thành một đường niêm kín không cho nước chảy qua. Nếu chúng ta có thể chèn vài tảng đá vào chỗ cũ, thì bọn chúng sẽ không thể hạ xuống hoàn toàn được.”
Cũng đáng thử lắm chứ nên tôi chạy theo Alice qua bờ suối xộc xuống nước. Nói thì nghe dễ lắm. Chúng tôi chỉ cần phải tìm vài tảng đá rồi chèn xuống mương. Nhưng khi làm thì khó vô cùng. Trời thì tối om, khi tôi lần đầu thọc tay xuống nước lạnh giá đến quá khuỷu tay, thì những ngón tay tôi chẳng vớ được gì. Tảng đá đầu tiên tôi tìm thấy lại chôn vùi thật sâu không chịu lung lay. Tảng đá thứ hai thì nhỏ hơn nhưng vẫn rất khó nhấc lên và những ngón tay tôi liên tục trượt khỏi tầm nắm.
Lần thử sức thứ ba tôi tìm thấy một tảng đá hơi lớn hơn tảng đá đầu tiên một chút. Alice nhanh tay hơn tôi và đã bỏ hai tảng đá vào nơi gần với bờ phía chúng tôi.
“Đấy kìa Tom! Đặt nó gần với tảng đá của tớ. Sẽ không cần nhiều đâu...”
Nhưng giờ đây tôi có thể nghe thấy tiếng thở khò khè cùng tiếng bước chân thoăn thoắt bì bõm giẫm lên nền đất sình lầy. Sau thêm một đợt chật vật tôi lại tìm được một tảng đá khác – tảng này to gấp đôi tảng đầu tiên của tôi – thế là tôi quẳng tõm xuống phía mương, kề vai mình và mép dưới tấm gỗ để giúp tôi nhắm đúng mục tiêu trong bóng tối. Thế nhưng những kẻ đuổi theo chúng tôi giờ đây đã đến rất gần rồi. Khi mặt trăng lại ló ra, tôi thoáng thấy hình dáng vạm vỡ của một tên đàn ông đang với đến tay quay.
Tôi tìm thấy một tảng đá khác và chỉ vừa xoay sở thả được xuống mương thì nghe thấy tiếng bánh xe quay: tấm gỗ bắt đầu rùng rùng hạ xuống. Tôi định tìm thêm đá nữa thì Alice đã túm lấy tay tôi.
“Thôi nào Tom. Vậy đủ rồi! Chúng sẽ không thể nào niêm kín lại đâu và nước sẽ vẫn chảy thôi...”
Thế là tôi theo Alice leo lên bờ; chúng tôi chạy bổ về phía Jack, Ellie và Mary đang đứng chờ rồi dẫn đường cho họ băng xuyên qua rừng. Chúng ta đã làm hết sức chưa nhỉ? Liệu Alice có đúng?
Bấy giờ Ellie đã kiệt sức nên loạng choạng theo sau chậm như sên, tay vẫn ôm chặt con gái. Chúng tôi cần phải di chuyển nhanh hơn. Nhanh hơn nhiều.
“Đưa Mary cho em nào,” Alice năn nỉ, chìa tay ra đón đứa bé.
Trong phút chốc tôi tưởng Ellie sẽ từ chối chứ, nhưng chị ấy gật đầu cảm ơn rồi trao ra đứa bé. Với tiếng rùng rùng hạ xuống của tấm gỗ mỗi lúc một xa hơn sau lưng chúng tôi, chúng tôi tiếp tục bước tới cho đến khi ra được vùng đất trống. Ngọn tháp ngay trước mặt. Chúng tôi gần như đã được an toàn.
Khi chúng tôi tiến đến cách ngọn tháp trong tầm nghe thấy được, bao hy vọng trong tôi bùng lên: tôi nghe thấy âm thanh quay rền bên trong, và trong khi tôi quan sát, mặt trăng lại ló ra, và kèm theo tiếng xích sắt va loảng xoảng, cây cầu bắt đầu hạ xuống. Vì lo lắng khi chúng tôi về trễ, hẳn Thầy Trừ Tà đã đứng trên pháo đài quan sát và trông thấy chúng tôi tiến về.
Nhưng khi chúng tôi đến ngay sát mép hào, tôi nghe thấy một tiếng quát khàn khàn sau lưng chúng tôi. Tôi liếc ra sau về phía rừng cây và mọi hy vọng của tôi chìm còn nhanh hơn là tảng đá cuối cùng mà tôi thả xuống mương. Có những hình dáng tối đen đang phóng nhanh qua thảm cỏ về phía chúng tôi. Hẳn là đám phù thủy cuối cùng cũng băng qua được con suối.
“Lẽ ra chúng ta nên thả thêm nhiều tảng đá hơn nữa,” tôi chua chát bảo.
“Không phải đâu Tom, chúng ta làm vậy là đủ rồi,” Alice vừa đáp vừa trao lại Mary cho Ellie. “Bọn này không phải phù thủy nhưng hầu như cũng xấu xa như thế. Chúng là đám đàn ông trong tộc.”
Có ít nhất là nửa tá bọn chúng đang lao về phía chúng tôi, những tên đàn ông tức tối với cặp mắt hoang dại, với những con dao dài sọc vung lên, những mã tấu lóe lên sắc bạc dưới ánh trăng. Nhưng lúc này cầu kéo đã được hạ xuống và chúng tôi thụt lùi vào đấy, Alice và tôi đứng trấn thủ ngay trên mép cầu, che chắn những người còn lại giữa chúng tôi và cánh cửa tán đinh sắt to tướng. Lúc này Thầy Trừ Tà sẽ đi xuống các bậc cấp, nhanh hết sức có thể. Nhưng những kẻ thù của chúng tôi gần như đã ập đến.
Tôi có thể nghe thấy thầy mình rút chốt cửa nặng nề ra, nhưng liệu thầy có kịp? Sau lưng tôi Ellie thét lên, và rồi tôi nghe thấy tiếng cánh cửa to lớn xoay kẽo kẹt trên bản lề. Tôi giương trượng lên để phòng vệ, hy vọng làm chệch đi lưỡi dao đang cong vút giáng xuống đầu mình. Nhưng lúc này đã có ai đấy sát cánh bên tôi. Là Thầy Trừ Tà, và qua khóe mắt tôi trông thấy thanh trượng của thầy đâm tới trước về phía kẻ tấn công mình. Tên đàn ông thét lên ngã qua một bên rơi xuống hào nước làm nước bắn túng tóe.
“Vào trong ngay!” Thầy Trừ Tà quát lên. “Tất cả mọi người, vào bên trong!”
Thầy đứng trụ lại khi hai tên khác chạy bổ đến chúng tôi, song song với nhau. Tôi không muốn để mặc thầy phải một mình đối phó với chúng nhưng thầy đã đẩy tôi thật mạnh về phía cánh cửa đến nỗi tôi loạng choạng sém chút ngã nhào. Ngay khi ấy mặt trăng lại nấp vào sau đám mây và chúng tôi lại bị nhấn chìm vào bóng đêm. Không nghĩ ngợi gì nữa, tôi làm theo lời thầy, chạy bén gót Alice đến cửa. Lại thêm một tiếng thét lên đau đớn và tôi liếc ra sau. Hình như ai đó lại rơi và lại có thêm tiếng nước bắn lên. Là Thầy Trừ Tà chăng? Có phải bọn chúng đã đánh thầy ngã xuống nước? Và rồi một bóng hình đen ngòm chạy bổ về phía cửa, nhưng trước khi tôi giương trượng lên tự vệ, tôi nhìn ra đấy là thầy mình.
Thầy vấp té vào trong, buột miệng chửi rủa, quẳng trượng xuống và kề vai vào cửa. Alice cùng tôi giúp sức với thầy, và chúng tôi xoay sở kịp đóng cửa lại trước khi có thứ nặng trịch gì đấy đâm sầm vào cửa. Thầy Trừ Tà dập then cài lại. Kẻ thù của chúng tôi đã quá muộn.
“Chạy lên trên kéo cầu lên đi!” Thầy Trừ Tà ra lệnh. “Cả hai đứa! Nhanh nhẹn vào!”
Alice và tôi chạy lên bậc cấp, và chúng tôi cùng nhau bắt đầu quay bánh tời. Từ phía dưới kia chúng tôi có thể nghe thấy những tiếng quát tháo giận dữ và âm thanh kim loại va đập khi kẻ thù của chúng tôi táng vào cửa một cách vô ích. Thật là một việc khó khăn, nhưng đôi bờ vai chúng tôi căng ra trước sức kháng lại của vòng bánh xe, chúng tôi tiếp tục quay bánh tời và từng chút một cây cầu được nâng lên. Ngay khi cây cầu nâng lên hoàn toàn sập vào cửa, âm thanh đập cửa ầm ầm bên ngoài dừng hẳn, chúng tôi nghe thấy những tiếng nước bắn lên văng vẳng khi bọn kẻ thù của chúng tôi chảy xuống mương nước. Hoặc phải làm thế hoặc là sẽ bị nghiến nát giữa cây cầu gỗ nặng nề và cánh cửa to lớn thôi.
Sau đấy thì chúng tôi được an toàn. Ít nhất là trong một lúc. Thầy Trừ Tà, Alice và tôi trao đổi về những việc đã xảy ra, trong khi đấy Ellie cố làm cho Mary và Jack được thoải mái. Tất cả chúng tôi đều mệt lả, và chưa qua một giờ đồng hồ thì mọi người đều lăn ra ngủ, quấn mình trong những tấm chăn dơ dáy. Tôi đã kiệt sức nên chẳng mấy chốc là chìm vào giấc ngủ không mộng mị, nhưng giữa đêm tôi lại thức dậy khi nghe ai đó nức nở gần bên. Nghe như là Ellie.
“Chị không sao chứ Ellie?” tôi khẽ khàng gọi lên trong đêm tối.
Hầu như ngay lập tức tiếng khóc ngừng bặt nhưng chị ấy không đáp lời. Sau đấy tôi phải mất một đỗi mới ngủ lại được. Tôi bắt đầu băn khoăn liệu ngày mai rồi sẽ mang đến điều gì đây. Chúng tôi đang cạn dần thời gian. Chúng tôi đã mất cả ngày để mang Jack trở lại tháp, nên tôi biết chắc ưu tiên của Thầy Trừ Tà cho ngày mai là phải giải quyết xong với mụ Wurmalde. Nếu chúng tôi không tìm ra mụ ta và ngăn chặn đám phù thủy, thì thế lực bóng tối bằng xương bằng thịt sẽ bước đi giữa chúng ta và sẽ không chỉ có mỗi Ellie phải khóc lóc dỗ giấc ngủ về đêm thôi đâu.