Chương 5 Thứ ba, NGÀY MÙNG 2 THÁNG 7
Chương 5
thứ ba, ngày mùng 2 tháng 7
illy Yamamoto hầu như thức cả đêm để hồi tưởng lại những ký ức về bố. Vừa đi đi lại lại, ông vừa trầm ngâm suy nghĩ đến khi mặt trời mọc. Billy mặc quần áo, pha cà phê rồi ngồi xuống hàng hiên. Những viên đá trong khu vườn tưởng niệm của bố ướt đẫm sương đêm trở nên lấp lánh dưới ánh mặt trời. Sau bữa sáng, Billy lái xe dọc theo đường cao tốc về phía Đông, tâm trạng đã khá hơn. Ông dừng lại một lát uống cà phê ở Monarch. Tiếng kêu ríu rít của những con chim sẻ trên một cây ô-liu Nga làm đầu óc ông thanh thản trở lại. Lái xe được mười dặm, ông rẽ vào thành phố cổ Fort Kipp. Billy điểm qua một lượt những vấn đề mấu chốt của vụ án trong Ngôi nhà của quỷ Sa tăng; hai bàn tay bị trói của Darren Riegert, màn nhảy múa của Blayne Morton, những tấm ảnh, động cơ của những đứa trẻ và vấn đề của Woody Keeler.
Billy mất mười phút để tìm đường vào phía Tây Lethbridge. Ông chưa quen với đường cao tốc mới và những nhánh rẽ của nó. Billy chỉ nhớ trong đầu con đường có hai làn xe, rồi cây cầu cũ đơn độc bắc qua sông Oldman. Mất năm phút nữa để qua bãi đỗ xe của trường Đại học Lethbridge, ông mới tới được khu nhà cần tìm. Trước đây đó là khu đất trồng trọt màu mỡ được những người Mormon khai hoang, họ là những người đã biết làm thuỷ lợi bằng cách đào kênh dẫn nước từ dòng sông Oldman.
Khoa tâm lý học được đặt trong khu nhà thấp xây bằng đá sa thạch. Billy bước dọc theo hành lang qua những lớp học cửa đóng then cài. Cả văn phòng nhà trường cũng đóng cửa sao? Ông thở phào khi thấy một căn phòng mở cửa, phía trước ánh nắng chiếu vào rực rỡ. Đó là phòng của một chuyên gia về tôn giáo mà ông đã hẹn gặp. Giáo sư Madelaine Van Meer hoá ra lại là một phụ nữ ngoài bốn mươi tuổi, khá xinh xắn, hoạt bát. Bà ta có mái tóc nâu đỏ rất đẹp và đôi môi nhỏ nhắn. Một cái khăn lụa đắt tiền quấn hờ quanh cổ. Bà nhiệt tình bắt tay Billy.
"Ông muốn biết đứa trẻ bị chết rút cục là thành viên hay nạn nhân của một tổ chức tôn giáo, phải vậy không?" Madelaine Van Meer vừa hỏi vừa vui vẻ dẫn Billy vào phòng trong, căn phòng với khung cửa sổ trông ra phía chân trời xa xa của thành phố. Bà mời Billy ngồi xuống một chiếc ghế, xung quanh toàn là sách.
"Vâng, tôi muốn biết vụ treo cổ gần đây nhất có mối liên hệ nào với các hoạt động mang tính tôn giáo không?"
Billy lấy các tấm ảnh chụp hiện trường vụ án Datren Riegen đưa cho Van Meer. Ông để ý thấy miệng của nữ giáo sư mím lại khi nhìn những tấm ảnh.
"Như bà thấy đấy, những thứ đó dường như được sắp đặt trước."
"Những hình vẽ trên tường. Những cây nến nữa," giáo sư Van Meer nói và trao lại cho Billy những tấm ảnh. Bà gập những ngón tay mảnh dẻ của mình lại. "Còn gì nữa không?"
"Có một mảnh giấy được tìm thấy trong miệng của cậu bé. Nó có ba chữ là Mene Mene Takel. (Cuốn Daniel 5 có ghi: Trong một bữa tiệc do vua Belshazzar của Babylon tổ chức để cầu nguyện các thánh thần ban cho vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, đá; có một bàn tay hiện ra trong không trung và viết lên tường những chữ Hebrew - thứ ngôn ngữ mà nhà vua không hiểu được. Ông ra chỉ thị: "Ai giải được những chữ viết trên tường đó sẽ đưọc ban thưởng rất nhiều lụa là, vàng bạc và trở thành ngưòi cai trị thứ ba của vương quốc." Rất nhiều người thông thái đã đến nhưng vẫn không tài nào giải mã được. Cuối cùng, hoàng hậu khuyên vua nên tìm đến Daniel - con người được cho là sở hữu Trí tuệ tối cao của vưong quốc. Daniel đã phiên âm những chữ Hebrew đó thành ba chữ: "Mene Mene Takel’, có nghĩa là: "Chúa chỉ còn tính từng ngày số phận đất nước của ngài và sẽ sớm chấm dứt nó. Sau khi bị diệt vong nó sẽ bị người Ba Tư và ngưòi Mede xâu xé." Đúng như lời cảnh báo, không lâu sau vua Belshazzar bị giết và vương quốc của ông bị kẻ khác chiếm gọn).
"Cụm từ này từng xuất hiện trong sự tích về bữa tiệc của vua Belshazzar. Trong các kinh sách về Daniel. Một cụm từ cảnh báo. Nhưng thật kỳ lạ là nó thường được tìm thấy trong lời của các bản rock nặng."
"Cậu bé cũng có một cuốn sách bên cạnh."
"Có, tôi nhìn thấy trong ảnh. Nó là cuốn gì vậy?"
"Thanatopsis. Một cuốn sách viết về những câu thần chú và những nghi thức tế lễ quỷ Sa-tăng."
"Những thứ đáng sợ này đầy rẫy ở các hiệu sách."
"Chúng tôi còn tìm thấy một con dao trong vườn. Nhân viên pháp y nói đó có thể là con dao đã gây ra vết rạch trên người nạn nhân. Một cái đài cát-sét được tìm thấy trong một bụi cây gần ngôi nhà. Darren Riegert bị treo cổ. Nhưng chúng tôi có những nghi ngờ. Những vết máu ở chiếc cát-sét khiến tôi nghĩ rằng cậu bé đã đứng lên trên nó, tự rạch người và... treo cổ. Mô tả vụ treo cổ như vậy thật rùng rợn, nhưng nói là hành hình kiểu lin-sa nghe còn khủng khiếp hơn."
"Tôi e rằng những gì tôi có thể nói chỉ là phỏng đoán!", Van Meer nói một cách dứt khoát.
"Những điều giáo sư nói sẽ có ích cho chúng tôi."
"Vậy, trước tiên, tôi phải nói rằng việc treo cổ của Darren Riegert không giống như một nghi thức tôn giáo. Nghi thức tôn giáo thì không rùm beng như thế. Có kẻ nào đó đang cố gắng điên cuồng để gây sự chú ý của mọi người."
"Vậy à?". Lắng nghe lời giải thích của Van Meer, Billy lần đầu tiên cảm nhận giọng nói của bà, giọng nói pha thổ âm giữa vùng Nam Phi và úc.
"Nhưng hình vẽ trên tường không biểu trưng cho thờ cúng tôn giáo. Hầu hết ở các tôn giáo đã có tổ chức thì những biểu tượng thường được vẽ, in trên các loại chất liệu như vải, thảm hay khăn thêu. Đó là những thứ dễ bảo quản, cất giữ. Hãy nhìn vào các hình vẽ, ông có thể thấy chúng không có gì đặc biệt và cũng chẳng chỉ ra dấu vết nào cả. Hầu hết các tôn giáo là những tổ chức bí mật, không giống như phim ảnh. Họ thường muốn hoạt động ngầm để ẩn danh."
"Những cây nến cũng vậy phải không?" Billy hỏi. "Và cả những vòng tròn trên nền nhà dưới cái xác nữa?"
"Đúng ra phải có những cây nến ở trên giá đỡ. Chúng rất dễ dọn dẹp, ông biết đấy. Những tin đồ tuy hơi kỳ quặc nhưng là những người sạch sẽ, ngăn nắp. Nếu đó là một nhóm những đứa trẻ nghiện ma túy, tôi có thể hiểu được những cây nến và hình vẽ dùng để làm gì, nhưng điều này chẳng có gì huyền bí cả. Nó liên quan nhiều hơn đến việc dùng nhạc heavy metal và mấy thứ nhạc ma quái vớ vẩn để rạch người cho máu chảy. Một vài tôn giáo cũng thực hành những nghi lễ hiến tế, nhưng ít thôi. Thường họ dùng những con mèo đáng thương làm vật tế thần. Nhưng nếu không có vật tế thì có thể máu của tín đồ sẽ được dùng để thay thế. Những vết rạch trên ngực cậu bé chỉ là kết quả của một trò chơi đồi bại."
Billy im lặng chờ bà nói tiếp.
"Thưa ông thanh tra, có trường hợp hi hữu máu cũng được dùng để tôn vinh người có quyền lực tối cao và những người tham gia thường mắc chứng hoang tưởng. Đó là một người đàn ông da trắng, trung tuổi, nhất định đã phải ly dị. Theo sau thường là những trẻ vị thành niên, chúng tuân theo mọi mệnh lệnh của ông ta. Rất nhiều nạn nhân vị thành niên bị lôi kéo, thậm chí sẵn sàng tham gia."
"Sẵn sàng?"
"Họ muốn ai đó quyết định giúp họ, dẫn dắt họ."
"Vậy có khi nào người dẫn dắt tự cho phép mình được quyền tra tấn không?"
"Treo cổ thì không phổ biến. Hình phạt bằng roi xảy ra thường xuyên hơn. Nhưng như tôi nói lúc nãy, cậu bé này có vẻ là một phần của trò chơi bạo lực tàn nhẫn."
Giáo sư Van Meer đứng dậy, bà tiến về phía sau bàn làm việc lấy ra một cái túi da màu đen. Bà lấy một cái thìa và một quả ki-wi, dùng cạnh thìa cắt quả ki-wi và moi vào bên trong lớp cùi dày màu xanh của nó như moi một quả trứng.
"Tôi xin lỗi ông thanh tra, tôi không kịp ăn sáng. Nếu không ăn thứ này thì tôi sẽ choáng mất."
Van Meer mỉm cười, nhai một miếng lớn và ngồi xuống, chỉ một lát đã ăn xong. Billy nhìn quanh bàn làm việc của bà, trên bàn đặt một khung ảnh bằng bạc, bên trong là ảnh một cậu bé chừng mười sáu tuổi có mái tóc nâu đỏ và cái miệng nhỏ giống hệt bà.
"Bà có con không, giáo sư?"
"Tôi sinh được hai cháu. Con gái tôi lấy một người buôn bán chứng khoán tự do và sống ở Tokyo. Paul thì đang học lịch sử và khảo cổ tại trường đại học này. Kỳ vừa qua nó học giáo sư Randy, hình như anh ta đang sống cùng cô gái trong ngôi nhà mà Darren Riegert treo cổ. Tôi không có thiện cảm với anh ta lắm."
"Bà biết nhiều về anh ta không?"
'Thú thật, không nhiều lắm. Randy khéo léo và rất giỏi tìm kiếm cổ vật nhưng tôi biết anh ta gian dối trong chuyện tiền nong. Năm ngoái, Randy bị khiển trách vì đã chi phí quá mức cho những cổ vật ở phòng thí nghiệm mình phụ trách trong khi anh ta không thực sự trả tiền mua. Con trai tôi nói tôi thật điên rồ khi nghĩ về Randy như vậy. Nó tôn sùng anh ta."
Van Meer lau tay bằng một chiếc khăn giấy, bà ngả người trên ghế. Billy biết bà không muốn ông ở lại đây thêm.
"Nếu muốn trừng phạt ai đó, thưa giáo sư, ví dụ như cậu bé nào mà bà yêu quý nhưng nó không đáp lại tình cảm đó, bà sẽ làm thế nào? Nếu bà là người có quyền hành tối cao kia?"
"Chúa ơi, ông thanh tra, tôi không phải là..."
"Chỉ giả thiết thôi. Hãy xem xét những gì trong tấm ảnh. Liệu có phải sự hành hạ, sự phô trương này là một hành động trả thù vì bị phản bội của người lãnh đạo?"
Giáo sư Van Meer ngồi yên trên ghế. "Ghen tức là một động cơ, có lẽ vậy chăng?"
"Vâng. Sự từ chối tình dục cũng là một trong những động cơ trả thù mạnh mẽ."
"Nếu là người lãnh đạo, có lẽ tôi sẽ thuyết phục cậu bé bước vào một cuộc kiểm tra chứng minh lòng trung thành của cậu ta đối với tôi." Bà nói, đôi mắt xanh mở to căng thẳng.
"Chứng minh như thế nào?"
"Bằng một hành động táo bạo."
"Táo bạo?"
"Như là bước trên thành một chiếc cầu cao chẳng hạn. Tôi từng nghiên cứu về một nhóm ở California gọi là Sự sùng bái Cầu may. Ai tham gia nhóm này thường xuyên phải hành hạ cơ thể mình như tự châm kim, đốt, cắt,..."
"Giống như những vết rạch trên cơ thể của Darren Riegen? Liệu chúng đó có phải là dấu tích của một cuộc kiểm tra như thế không?"
"Thật khó mà chắc được, thưa ông thanh tra. Ý tưởng của những trò đó không thể dự đoán được."
"Nhưng vẫn có thể xảy ra đúng không?"
"Tất nhiên rồi, thưa ông."
Billy ngả người về phía sau, tay để trên đầu gối.
"Tôi đánh cược với bà. Vụ án của Darren Riegert có thể là do tội phạm thực hiện, nhưng tôi vẫn nghĩ nó liên quan đến một nghi thức tôn giáo nào đó."
Van Meer khoanh tay và lùi lại: "Ông nói tiếp đi."
"Bà có nhớ không? Khoảng tám năm về trước có một vụ xảy ra ở khu bảo tồn Peigan. Một cậu bé tên là Ervin Bom With a Tooth chân tay bị trói, người bị treo lên..."
"Một cái giá bóng rổ chứ gì? Vụ đó ai chẳng nhớ. Thằng Paul nhà tôi từng chơi tại cái phòng tập ấy trong giải bóng rổ giữa các trường trung học mà."
"Theo bà thì điều gì đã làm cho người ta muốn phô trương cảnh treo cổ đó?"
"Lòng căm thù, sự phân biệt chủng tộc. Chắc chắn là thế, không liên quan đến tôn giáo."
"Nhưng như bà nói, nếu như Ervin Bom With a Tooth phải treo cổ để chứng minh lòng thành thì sao? Chứng minh khí phách nam nhi chẳng hạn. Giống như trong nghi thức Nhảy múa trước mặt trời cổ xưa, các chiến binh Blackfoot đã phô diễn sức mạnh bằng cách đâm những ngọn giáo vào ngực mình."
"Đúng vậy, ông thanh tra. Ông có sự liên tưởng rất tốt và từ đó có được nhiều suy luận."
"Tại sao không? Tôi nghĩ mình phải suy luận để làm mọi thự rõ ràng."
Giáo sư Van Meer mỉm cười, cả hai im lặng một lúc. Rồi chợt bà nhìn thẳng vào mắt Billy.
"Ngài thanh tra, tôi chợt nghĩ ra một điều, cũng là liên tưởng như ông thôi. Ở đây có một người có thể giúp ông, người đó biết khá nhiều về vụ treo cổ trong phòng thể dục. Thật ra thì ông ta là tình nhân của mẹ cậu bé, là người chăm sóc cây trong trường. Tôi có thể gọi ông ta đến đây gúp ông."
"Tên ông ta là gì?"
"Hill, Perry Hill. Hiện ông ta là quản gia của chúng tôi."
Madelaine Van Meer đứng dậy và bước ra phòng tiếp tân. Bà tìm số điện thoại, bấm số xin được gặp Perry Hill và chờ máy.
"Vâng." Bà nói rồi gác máy trở lại văn phòng.
"Hill đang bị ốm. Hôm nay ông ta không đến làm việc. Không có ai trả lời điện thoại ở nhà ông ta. Hy vọng là không có chuyện gì xấu xảy ra với Hill."
'Tôi có thể lấy số điện thoại và địa chỉ nhà riêng của ông ta được không?"
"Không vấn đề gì."
Bà lại ra chỗ bàn tiếp tân, lấy bút máy ghi chép địa chỉ và số điện thoại của Perry Hill vào một mảnh giấy.
"Hill thuộc tuýp người ít nói." Van Meer nói và đưa tờ giấy cho Billy. "Một người độc thân, lại uống rượu hơi nhiều. Được cái ông ta khá nhanh nhẹn tháo vát."
"Tôi đã làm mất nhiều thời gian của bà, thưa giáo sư."
"Ông cần gì cứ đến." Van Meer nói và mỉm cười đáp lại.
"Tôi xin lỗi vì không thể giúp ông nhiều hơn được. Ông có nghi ngờ ai không? Mà tôi được phép hỏi câu này chứ?"
Billy cười lịch sự:
"Lúc này thì tôi chưa xác định được kẻ tình nghi."
"Ông thanh tra, qua mấy tấm ảnh tôi thấy đây có thể là một vụ hành hạ cực kỳ tàn nhẫn, bạo lực.
"Do một kẻ nắm quyền lực tối cao như bà vừa kể gây ra?"
"Có thể còn tồi tệ hơn."
Nhân viên kiểm soát biên giới Mỹ dỡ chiếc ghế sau ra. Họ dùng tuốc-nơ-vít tháo các tấm lót dưới sàn xe, nâng cái ghế về phía trước để kiểm tra. Người lính có bộ râu rậm rạp đưa tay vuốt dọc theo lớp da của chiếc ghế. Một phụ nữ bản địa đeo hoa tai vỏ sò đang cầm một chiếc đèn soi khắp sàn xe và phía sau ghế ngồi.
"Phiền ông..."
Lưỡng lự một chút rồi Randy tháo chiếc bánh xe dự phòng phía sau xuống. Tất cả những dụng cụ khai quật như xẻng, sàng rây, cọc, vải bạt nằm ngăn nắp trong thùng xe tải. Cửa khẩu núi Chief có tiếng là đi qua dễ dàng và nhanh chóng, Justin nghĩ, chẳng có gì nhiều ngoài việc kiểm tra hộ chiếu như thường lệ và lướt qua thùng hàng của xe tải. Nhưng bây giờ, vào buổi sáng thứ ba này, kế hoạch khai quật đang bị chậm lại do những thủ tục phiền toái. Chiếc đồng hồ treo tường trong trụ sở hải quan chỉ 10 giờ 8 phút, không khí khá căng thẳng.
"Tôi đảm bảo là tôi có đầy đủ giấy tờ hợp lệ ở đây." Giọng Randy bực dọc. "Tôi đã giải thích với các nhân viên trực hôm kia rồi."
"Chỉ là thủ tục thôi mà, giáo sư." Người lính có bộ râu rậm rạp lịch sự nói. "Vùng đất của người da đỏ do chính phủ kiểm soát. Chúng tôi cần kiểm tra mỗi khi các anh đến và đi khỏi đó. Tôi cũng cần phải có một bản photocopy địa điểm khai quật của các anh. Tôi xin lỗi nhưng quy định của International Peace Park buộc chúng tôi phải kiểm tra kỹ dù mất nhiều thời gian." Người lính lại cười xã giao.
Giáo sư Randy gật đầu và thở dài. Justin thì nghĩ về Cara Simonds và sự chân thành của cô trước bữa tối hôm qua. Cậu tự hứa với mình rằng tối nay sẽ gọi điện cho Karen và nói chuyện với cô ấy lần nữa về đứa bé. Mình muốn tự do, cậu nghĩ, mắt nhìn vào không gian thoáng đãng của buổi sáng và rừng cây xanh trước mặt.
"Cảm ơn giáo sư !", người phụ nữ bản địa nói. "Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào tối nay. Nhớ rằng đang mùa hè và do đang thiếu nhân viên nên chúng tôi chỉ làm việc đến chín rưỡi tối, không phải là mười giờ như những năm trước nhé."
Randy ra hiệu cho mọi người trở lại xe. "Chúng ta chỉ còn nửa tiếng nữa để tới con đường mòn và điểm khai quật !",
Chiếc xe tải rồ ga và lao đi trên con đường hẹp. Cara và Justin ngồi trên ghế sau, đùi sát đùi, một cái dù to bằng vải bạt để bên cạnh họ. Vùng nông thôn Montana rộng rãi và đẹp mê hồn, giống như thung lũng mà họ đã nhìn thấy ở khu hồ Waterton cạnh biên giới Canada. Chiếc xe tải lượn theo một khúc quanh hẹp của con đường và Justin lại cảm thấy bụng mình nôn nao. Phía bên kia đường, những rặng linh sam đang vươn mình dưới những tia nắng đầu tiên xuyên qua làn sương sớm. Justin vô tình đặt tay mình lên tay Cara, cô không rụt tay về, đến một khúc quanh khác, cậu đã nắm lấy tay cô. Justin mỉm cười khi Cara chỉ xuống một thung lũng phía xa, nơi có một hồ nước lấp lánh và hàng trăm cây hương bồ đứng thẳng trong vùng nước nông.
"Cậu cảm thấy ổn chứ?" Cara dịu dàng hỏi.
"Hơi say xe một chút," Justin trả lời.
Randy và David Home bắt đầu nói chuyện về lịch sử của người Blackfoot. Con đường hai làn xe dẫn lên một dải đất rộng. Dải đất chạy dài về phía Tây trông thật yên bình, bình nguyên cỏ trải ra mênh mông trong sắc xanh pha vàng rực rỡ. David Home nói về những người hướng đạo tinh thần và những cuộc hành trình không mệt mỏi của các chiến binh Blackfoot "Họ gọi nơi này là vùng đất của những ngọn núi tỏa sáng."
Justin dán mắt vào những khối đá khổng lồ dựng đứng như các bức tường nhô lên giữa bình nguyên. Bụng đang quặn lên nhiều hơn và cậu không biết mình sẽ chịu đựng được bao lâu nữa. Ít nhất thì việc có Cara ở bên cũng làm Justin cảm thấy yên tâm hơn.
Chiếc xe tải chạy qua những vùng rừng nhấp nhô ánh nắng, núi Chief đã hiện ra mờ mờ phía trước. Từng mũi nhọn nhô cao, những hang động và vách đá chắn ánh nắng tạo thành những bóng râm mát mẻ. Những dải đá nhỏ và đá cuội trải dài theo một đường cong từ chân núi đến tận vùng giáp ranh với rừng cây trông như một miệng bát khổng lồ. Randy bấm còi và lái xe chậm lại. "Cố lên." Randy nói và đánh mạnh tay lái, chiếc xe nghiêng đi và chồm lên con đường có hàng rào trắng ở hai bên. Trên một tấm biển bên đường có hàng chữ: "VÙNG ĐẤT THIÊNG - CẤM VÀO". Justin ngạc nhiên nhận thấy rằng ngọn núi to lớn vô tri kia cũng đòi hỏi phải được kính trọng. Lần đầu tiên bài giảng của Randy đã phát huy tác dụng.
Đây là nơi đi dạo của thần thánh, là cánh rừng truy tìm những lời phán truyền bí ẩn của người cổ xưa.
Justin ngả người về sau ghế nhìn qua kính chắn gió. Một người đàn ông đội chiếc mũ cao bồi Stetson màu xám, mái tóc đen tết thành hai bím khá chặt và gọn gàng, đang đứng dựa vào chiếc ba-ri-e. Anh ta đang hút thuốc lá tự quấn, chiếc kính râm phản chiếu những rặng thông đằng xa. Chiếc xe tải tắt máy được một lúc mà nhóm người vẫn ngồi yên trên xe nhìn về phía anh ta.
"Đó là Sam Heavy Hand!", Randy thì thầm.
Thật lạ, Justin nghĩ. Randy chẳng có lý do gì để nhỏ nhẹ như vậy. Randy giải thích với mọi người rằng Sam rất có uy tín trong cộng đồng cư dân Blackfoot, một người đàn ông tuy ít nói nhưng khi đã nói thì toàn những điều hệ trọng.
Khi Sam đi lại phía họ, bộ dạng của anh ta làm Justin nhớ đến hình ảnh nhìn từ xa của núi Chief, đen và rậm rạp. Anh ta vừa đi vừa giơ tay phải lên mép mũ cao bồi thay lời chào. Cánh tay trái lực lưỡng của anh ta cầm lấy tay nắm cửa xe và kéo ra. Randy nhảy xuống và bàn bạc gì đó với Sam. Hai người đàn ông trao đổi vài thứ rồi ôm chặt lấy nhau.
Justin mở cửa sau và đỡ Cara xuống, rồi David cũng xuống theo. Ba người đứng như những đứa trẻ ngoan ngoãn nhìn Randy và Sam nói chuyện. Gió thổi mạnh hơn, Sam đua tay giữ vành mũ rồi chạy lại cởi dây mở ba-ri-e. Con đường nhỏ lát gỗ hiện ra, và xa xa, qua bóng râm của rừng cây, Justin có thể nhìn thấy ánh nắng nhảy nhót trên những tảng đá.
"Ô tô không được phép vào đây." Sam nói. "Nào các bạn, hãy khuân đồ đến tảng đá đằng kia."
Gió lại tiếp tục thổi mạnh thêm. Sam đi trước, hướng về phía núi Chief, gọng kính bạc phản chiếu ánh nắng xuyên qua những tán cây đu đưa. Con đường mòn vào rừng trải nhiều đá cuội, hai bên là những cây thông và vân sam có buộc các sợi dây vải sặc sỡ. Hết con đường là tới chân thác đá rộng bạt ngàn trông chẳng khác nào một đại dương mênh mông màu xám.
Cara hỏi Justin: "Cậu đã bao giờ nhìn thấy nhiều đá như thế này chưa?"
Justin không trả lời, cậu nắm tay Cara cẩn thận đi từng bước một, sỏi đá dưới chân hai người lạo xạo. Cara đứng lại chụp ảnh, Sam kêu ầm lên: "Không được chụp ảnh ở đây. Đây là vùng đất thiêng, chúng tôi không muốn kinh động đến người hướng đạo tinh thần của mình. Ngài Napi không thích máy ảnh và cũng không muốn bị chụp ảnh. Ngài nói rằng máy ảnh khiến ngài nghĩ mình cũng chỉ là người trần mắt thịt."
Cara nhìn Randy.
"Tôi xin lỗi, Sam." Randy quay sang Cara nói tiếp: "Cara, Sam nói đúng đó. Lẽ ra tôi phải nhắc em trước. Không được chụp ảnh ở nơi cư ngụ của những thánh thần."
Cara đỏ mặt vì xấu hổ. Thầy Randy đã một lần nhắc tới huyền thoại về kẻ lừa gạt thánh Napi trong bài giảng. Lúc này đây, Justin nghĩ, vị thánh cổ xưa ấy dường như đang hiện hữu trong cả linh hồn và thể xác - dưới hình hài một con người là Sam Heavy Hand.
"Đi thôi," Randy nói. "Hãy thưởng ngoạn cảnh quan nơi đây nào."
Sam dẫn đầu đoàn người. Cara và Justin tiếp tục nắm lấy tay nhau để giữ thăng bằng trên nền đá trơn trượt. Những con gió nhẹ lùa qua hàng thông. Justin quan sát Sam bước khoan thai trên nền đá phiến sét (Đá phiến sét là loại đá trầm tích hạt mịn mà các thành nguyên gốc của nó là các khoáng vật sét hay bùn. Nó được đặc trưng bằng các phiến mỏng bị phá vỡ bằng nếp đứt gãy cong không theo quy luật, thường dễ vỡ vụn và song song với mặt phẳng đáy khó phân biệt được) như một vũ công điệu nghệ. Sam vừa đi vừa giải thích về những dây vải buộc trên cây, giọng anh ta cất lên sang sảng: "Các anh chị tôi thường đến đây để nhận những lời phán truyền về tương lai. Đôi khi họ cũng muốn tìm sự thanh thản. Khi đến, họ sẽ để lại một vật gì đó, thường là một dây vải. Chúng được buộc lên cây như các bạn đã nhìn thấy. Họ kể chuyện với cây cối và thú rừng. Thần linh sẽ thấu hiểu những câu chuyện đó và người hướng đạo tinh thần sẽ chỉ cho họ cách giải quyết vấn đề." Sam vừa giải thích vừa mỉm cười.
Những con chim ác là và quạ bay lượn đầy vẻ đe dọa khi đoàn người hì hục leo lên dốc đá. Một con chim ưng hai cánh giang rộng đón chào ngay trên đầu Sam khi anh ta đứng gần một tảng đá lớn, y phải cầm mũ. Người Justin ướt đẫm mồ hôi, Cara thốt lên: "Chúa ơi, mệt quá."
"Ôi Sam, tôi quên mất cái thác này rất dốc !" Randy nói.
Gần phía đầu tảng đá, một bụi cỏ lông ngỗng màu trắng mọc xen với đám hoa chổi sơn đỏ Ấn Độ. Những sự sống nhỏ nhoi nảy nở trên vài mô đất hiếm hoi của thác đá. Randy cúi người xuống thở dốc.
"Cara nhìn này," Justin nói và chỉ vào Sam Heavy Hand. "Anh ta hình như không thấy mệt cũng chẳng có một giọt mồ hôi nào !"
Họ ngồi xuống thành vòng tròn trên tảng đá, Sam chỉ nơi cắm cọc và đánh dấu chỗ đào cho đoàn khảo cổ. Đó là một nơi có cả đá cuội, đá phiến sét và đất, Justin tự hỏi làm sao họ có thể đào được ở đây.
Sậm cúi xuống bốc một nắm đất đá lên và nói: "Đất ở đây tuy rắn nhưng vô cùng hào phóng. Nó mang trong lòng mình rất nhiều bí mật."
Cả nhóm bắt đầu toả ra xung quanh tìm nơi có thể đặt đồ khai quật qua đêm mà tránh được những cơn gió mạnh nổi lên lúc cuối ngày, vì theo Sam nói, gió ở đây có thể dễ dàng hất một người xuống núi.
"Được rồi, mọi người !", Randy nói. "Chúng ta phải mang thêm vài dụng cụ nữa."
Justin đứng lại một chút để ngắm nhìn thác đá. Cậu chợt nghĩ về Yianni và Karen. Mình sắp làm bố rồi đấy. Những tảng đá to lớn, cả vùng đá mênh mộng này trông như một nghĩa địa. Justin lắc đầu tự nhủ không nghĩ về những điều đó nữa. Phía dưới, Cara là người cuối cùng vừa bước vừa trượt xuống thác đá trở lại khu rừng. Những tiếng nói cất lên rơi vào giữa khoảng không đầy gió. Justin bỗng nghe thấy tiếng cãi vã ở phía trước. Cậu băng qua con đường đá chạy đến bên chỗ ba-ri-e có chiếc xe tải của Sam và xe tải của Randy.
Sam đang đẩy mạnh Randy vào thành xe.
"Vì việc chung đi." Randy gào lên.
Sam bỏ tay ra, anh ta chùi tay vào quần rồi bước về chiếc xe tải. David Home và Cara chỉ biết đứng nhìn, cứng người vì sợ hãi. Tóc Randy rối tung lên, áo phanh ra, thở đứt quãng: "Tôi không sao đâu." Justin chạy tới cầm tay Cara. Randy luồn tay vuốt lại tóc rồi nói với mọi người: "Không vấn đề gì đâu. Chúng ta tiếp tục khuân các thứ đi."
"Xảy ra chuyện gì vậy?" Justin thì thào.
Cara thận trọng đi về phía chiếc xe. Justin đi sát theo Cara và David. Họ nhìn Randy bước lại phía Sam, anh ta đang dựa lưng vào chiếc xe tải của mình, tay nắm chặt. Randy bước chậm rãi, đầu cúi xuống, tay trái gãi gãi sau gáy. Đến sát Sam, anh chìa tay ra. Sam đưa tay kéo lại mũ và nói điều gì đó. Randy vỗ vai anh ta rồi hai người bắt đầu bật cười.
"Chuyện quái gì vậy nhỉ?" Justin không nén nổi ngạc nhiên.
Cara lắc đầu.
David thở hắt ra và bắt đầu lôi các bao tải phía sau thùng xe xuống. "Chúng tôi không biết. Thầy Randy đang gọi điện thoại thì Sam đến."
"Hai người họ bắt đầu tranh cãi về thời gian !", Cara tiếp tục. Trông cô sợ hãi và tái nhợt. "Lúc cậu tới đây, Sam định đánh thầy Randy. Mình sợ quá Justin ạ."
Justin nắm chặt tay Cara. "Tất cả sẽ ổn thôi !", cậu an ủi.
"Họ là bạn cũ của nhau mà. Có thể họ giải toả căng thẳng bằng cách đó. Ai mà biết được? Hãy nhìn họ kìa."
Sam và Randy đang đứng cạnh nhau, dựa lưng vào thành xe tải. Sam chỉ về núi Chief, Randy nhìn theo, rồi hai người lại bật cười vui vẻ.
"Chúng ta hãy lôi những thứ này ra khỏi xe đi," Justin vừa nói vừa nhìn những đồ nghề đang để trên sàn xe. "Hôm nay còn nhiều việc phải làm lắm đấy." Nói rồi cậu bắt đầu lôi một bao cọc gỗ khỏi sàn xe. Bỗng ai đó giữ tay cậu lại.
Đó là Cara. Cô ở rất gần khiến Justin cảm nhận được cả hơi thở nóng hổi của cô.
"Đừng xa mình. Hãy ở gần bên mình nhé."
Billy Yamamoto ngồi cả buổi bên máy tính để tìm kiếm thông tin về tôn giáo và những vấn đề liên quan đến tôn giáo ở thành phố Lethbridge. Cuối cùng ông ngả người trên ghế nhìn danh sách những băng đảng giờ đã tan rã, ngày giờ chúng bị triệt hạ, hồ sơ về những kẻ cầm đầu, và tên tuổi những thành viên còn sống và đang được "cải tạo tư tưởng." Ông đứng dậy, trong đầu đầy những câu hỏi và nghi ngờ. Ông đi ra tiền sảnh trong cảm giác ngày hôm nay sẽ là một ngày vất vả.
Tìm được Johnson cũng là cả một vấn đề. Cô ấy không ở trong phòng thí nghiệm, Billy đến phòng trực ban để hỏi sỹ quan trực ban, anh ta liền thông báo trên loa. Một nữ nhân viên trong quán ăn tự phục vụ nói rằng từ sáng tới giờ chưa nhìn thấy Johnson. Đã 12 giờ 5 phút rồi. Billy chạy lên phòng Butch nhưng cũng không gặp ông ta ở đó. Đang chán nản trong cảm giác lạc mất mọi người thì ông nhìn thấy Johnson tiến lại từ phía cuối hành lang.
"Chào ngài."
"Chào Johnson. Chuyến đi Brocket của cô thế nào? Cô có nói chuyện được với ai trong gia đình Bom With A Tooth về Ervin hay về Woody Keeler không?"
"Có trục trặc lớn đấy thưa thanh tra."
"Chúng ta cần nói chuyện với một quản gia ở trường đại học tên là Perry Hill. Hôm nay ông ta không đến làm việc, cũng không thể liên lạc được với ông ta. Chúng ta có thể lấy một chiếc xe tuần tra ngụy trang không?"
"Được ngay, thưa ngài."
Johnson bước tới bàn trực ban, tay cầm chùm chìa khóa rồi trở lại với Billy. Chiếc xe tuần tra ngụy trang đậu trong một bãi đỗ xe có mái che. Johnson đề nghị cầm lái.
"Johnson, tôi được biết là Perry Hill đã nộp tiền bảo lãnh cho Woody Keeler sau khi hắn ta bị buộc tội hành hung Ervin Bom With a Tooth."
"Đúng. Thanh tra còn tìm thêm được gì về ông ta nữa không?"
"Perry Hill sống ở số 2301 đường Burdetr. Giáo sư Madelaine Van Meer nói ông ta từng là tình nhân của mẹ cậu bé. Bà ấy còn cho rằng ông ta biết điều gì đó về cái chết của Ervin. Cô có thể tìm xem ông ta có tên trong bất cứ bài báo hay hồ sơ nào của lực lượng cảnh sát không?"
"Tôi không thể khẳng định ngay bây giờ, thưa ông. Trong hồ sơ của cảnh sát lưu năm 1990, ông ta không được coi là thành viên của gia đình Bom With a Tooth."
"Cô đã tìm được gì ở Brocket mà nói là có trục trặc lớn ở đó?"
"Chẳng có gì cả. Nhà Bom With a Tooth nói họ không gặp Woody Keeler nhiều năm nay. Mẹ của Ervin chết cách đây năm tháng. Chú của Ervin đã không còn sống ở Brocket nữa. Chỉ còn một số bà con họ hàng của Ervin ở đó nhưng họ không biết gì đến vụ việc. Viên thanh tra điều tra vụ án của Ervin Bom With a Tooth từ năm 1990 đã chuyển đến Edmoton."
"Như vậy còn hơn là không tìm được gì, Johnson ạ. Chúng ta đã biết khi cần thì tìm họ ở đâu."
"Đúng. Sáng nay tôi gặp Dodd, anh ta nói đã tìm ra quyển kỷ yếu, đồng thời các bức ảnh cũng đã được dán lên bảng tin ở trường trung học."
Hai người cùng im lặng, cố để đầu óc thư giãn. Đến 12 giờ 25 phút họ có mặt ở Burden. Đó là khu dân cư toàn những ngôi nhà bằng gỗ với hàng cột lớn ở mái hiên. Những hàng dương và vân sam toả bóng mát xuống hai ven đường. Johnson lượn một vòng qua đoạn đường gấp khúc đột ngột. Trước mắt họ hiện ra một công viên cây xanh với những cây bu-lô rủ xuống vòng quanh. Những ngôi nhà ở đây đã bạc màu sơn, hàng du già vươn cánh tay sù sì qua thảm cỏ che râm mát một phần đại lộ.
Hill sống trong căn nhà một tầng với tường quét vôi vàng nhạt. Johnson đỗ xe đối diện với ngôi nhà. Cô và Billy sải bước băng qua con đường nhỏ láng xi-măng rồi bấm chuông cửa hai lần. Johnson bước đến một khung cửa sổ và nhìn vào bên trong nhà. Mành che đầy bụi đã hạ xuống khiến cô không thấy gì hết.
"Này, Johnson. Chúng ta đi xung quanh một lát rồi quay lại."
Cửa sau ngôi nhà cũng đóng chặt. Cửa sổ bếp không cài, Billy bước tới nhìn vào bên trong. Nền nhà sạch sẽ, quầy bếp cũng ngăn nắp và gọn gàng.
"Ông có nghĩ là Hill đã ra khỏi thành phố không?"
Billy đi tới gõ mạnh vào một cánh cửa sổ. "Này ông Hill, cảnh sát đây ! Chúng tôi đến tìm ông có việc !"
Billy thoáng thấy một cái đầu phản chiếu trong cửa kính. Ông quay lại. Một khuôn mặt nhăn nheo của một bà già chừng sáu mươi tuổi xuất hiện cạnh hàng rào giáp nhà Hill.
"Hai đứa chết tiệt kia, chúng mày là ai?" Giọng bà ta thật chói tai. Bà ta có mái tóc nhuộm đỏ rực; đang đeo chiếc tạp dề và một chiếc kính râm đã rơi mắt kính bên phải.
"Tôi là thanh tra Billy Yamamoto."
Johrvson chỉ cho người đàn bà thấy huy hiệu của lực luợng cảnh sát thành phố.
"Ồ, tôi đảm bảo là Perry Hill ở trong đó đấy. Tôi thấy nó ra ngoài hút thuốc lúc tám giờ rồi nửa tiếng sau lại vào trong nhà mà."
"Bà biết ông Perry Hill sao?"
"Thằng mất dạy ấy ư? Tôi là mẹ nó đây. Perry không tiếp chuyện các anh đâu. Tôi biết điều đó, thật đấy. Nó đang tự giam mình để nghiên cứu thần chú, bùa mê."
"Thưa bà Hill, chúng tôi muốn gặp anh ta để hỏi mấy câu."
"Tôi bây giờ tên là Rae. Betre Rae. Cha Perry đã bỏ thế giới này đi lâu rồi. Cảm ơn Chúa vì điều đó."
"Con trai bà tự giam mình bao lâu rồi, bà Rae?"
"Có lẽ là từ Chủ nhật. Tôi cho nó ở miễn phí cái nhà đó. Mong cho nó đừng có bám váy tôi nữa." Nói đến đây, bà ta lấy vạt tạp dề lau miệng.
"Bà Rae này, Perry có ở trong thành phố vào thứ sáu và thứ bảy không?" Johnson tiến đến gần bà ta và hỏi.
"Tôi không biết. Nhà lúc nào cũng sáng đèn. Tôi cam đoan là nó còn thắp thêm một cơ số bóng trong đó đấy."
"Tối hôm thứ sáu bà có trông thấy Perry ở nhà không?"
"À, tối đó tôi đang ở Loblaws. Sau đó tôi đến nhà Irma, muộn mới về. Nhà Perry sáng trưng như cây thông Noel vậy."
"Khoảng mấy giờ?"
"Khoảng từ chín rưỡi đến mười một giờ."
"Chiếc xe màu xanh kia có phải của con trai bà không?"
Betre Rae liếc mắt về hàng rào phía sau sân nhà Perry Hill, một chiếc xe màu xanh lá cây có thùng dài đang đỗ cạnh hai thùng rác đã gỉ.
"Của nó đấy, cô cảnh sát ạ."
"Thế hôm đó, khi trở về nhà bà có nhìn thấy cái xe này không?"
"Lúc đó trời tối, tôi không nhìn thấy gì cả."
"Thế tối thứ bảy nó có ở đấy không?"
'Tôi không biết. Hình như là có. Tôi ở đâu vào ngày thứ bảy nhỉ? À, ở nhà xem đấu vật. Tôi không nhớ rõ lắm, hình như Perry không sang ăn tối. Nó đóng chặt cửa lúc đó, rất chặt."
Billy thở dài và xoa xoa đầu gối bị thương. Johnson đến bên cửa sổ và đập cửa.
"Các người sẽ không gọi được nó đâu. Tôi cam đoan một khi nó đã đóng cửa tức là nó muốn sự thoải mái cho mình. Nó sẽ tự mở cửa khi nào nó thích."
Billy rút cuốn sổ nhỏ ra ghi chép khi bà Rae bước qua bãi cỏ quay vào trong nhà. Ông ghi lại các hoạt động của Perry Hill và sự xuất hiện của chiếc xe tải màu xanh trong nhà ông ta. Billy quyết định sẽ đi gõ cửa một số gia đình xung quanh hỏi họ có thấy chiếc xe tải kia trong bốn ngày qua không. Cùng lúc đó Johnson đi ra phía sau sân nhà Perry Hill, cô dừng lại và để ý kỹ hàng rào.
"Thanh tra !"
Billy chạy qua chiếc cổng gỗ vào con đường nhỏ rải sỏi đến chỗ cô.
"Ông nhìn này."
"Cô đoán là có bao nhiêu chai trong hộp, Johnson?"
"Mười lăm hay mười sáu gì đó. Có tất cả là hai mươi sáu chai một hộp. Khá nhiều rượu vốt-ka. Ông đoán là Perry Hill tự mang những thứ này ra đây hay là có sự giúp đỡ của mẹ ông ta ?"
"Nếu Hill đang ở trong nhà và đóng chặt cửa như bà mẹ nói thì ông ta đã có một bữa nhậu linh đình."
"Chiếc xe tải nhỏ này đã đi vào đâu đó ở vùng nông thôn, nó có dính bùn. Ở đây có một số vết cắt và lõm. Cửa buồng lái bị khoá."
"Có mấy chai whisky vứt lăn lóc trên sàn ca-bin. Một mũ bóng chày màu đỏ. Hình như phía trước có đính lông quạ."
"Cánh cửa bên này cũng bị khoá."
"Anh ta không thường xuyên rửa xe. Cô có suy nghĩ gì về những vết bẩn trên chiếc chăn này?"
Billy cúi xuống chiếc ghế dài trên xe và nhấc tấm chăn nhăn nhúm lên.
"Vết sơn cũ hoặc là vết máu khô. Vừa bôi lên vừa bị nhỏ giọt như kiểu ai đó bị chảy máu và dùng chiếc chăn này để chùi máu từ tay hoặc từ miệng."
Billy gập tấm chăn lại và do dự. Ông biết ông không thể mang nó đi khi chưa có lệnh. Nhưng nếu chứng cứ này có liên quan đến vụ của Darren Riegert thì sao? Ông nhanh nhẹn để nó bên dưới tấm vải bạt trải ở cuối ghế.
"Cô gõ cửa mấy nhà phía sau đi, Johnson. Tôi sẽ cố gắng đánh thức Hill dậy. Hàng xóm quanh đây có thể cho chúng ta biết chiếc xe ở đó bao lâu rồi. Vết bùn trên vành xe cho thấy Perry Hill đã ở nơi nào đó trong vùng nông thôn quanh đây. Cùng kiểu sỏi lẫn đất sét và đá dăm. Trên trục xe cũng thế. Hãy nhớ rằng trời mưa từ thứ tư hay thứ năm gì đó. Chứng tỏ Perry Hill đã lái xe ra ngoài trong ba hay bốn ngày qua."
"Tôi tìm được vài thứ," thượng sỹ Dodd vừa nói vừa kéo ghế ngồi xuống cạnh bàn. Billy nhìn đồng hồ, đã 2 giờ 45 phút. Vậy là cả Dodd và Johnson đều đã báo cáo công việc của họ. Johnson đang đứng dựa vào chiếc tủ hồ sơ. Billy ngồi ngả người về phía trước, tì khuỷu tay lên đầu gối. Ông uống một ngụm cà phê vừa pha rồi để cốc lên mặt bàn. "Quả thật trường học ngày nay có rất nhiều vấn đề. Các bậc phụ huynh không quan tâm đến con cái họ đúng mức. Nhà trường nên kiểm soát chặt chẽ học sinh hơn nữa."
"Chắc anh lại muốn người ta lắp thanh chắn trên các cửa sổ phải không Ricky?" Johnson trêu.
"Này Johns ! Tôi chỉ..."
"Dodd, tiếp tục đi nào."
"Vâng thưa ngài." Dodd ném một cái nhìn bực dọc về phía Johnson còn cô thì cười khúc khích. Anh ta rút từ trong túi ra cuốn sổ và đọc cho Billy nghe. "Ở trường trung học, cô giáo Childs đã cho phép tôi được nói chuyện với các học sinh. Một số nữ sinh đã khóc khi tôi kể cho các em nghe câu chuyện của Darren. Tôi hỏi có ai biết Darren hay kẻ thù của cậu bé không, nhưng không ai trả lời. Tôi đợi cho đến khi tan học nhưng cũng không có em nào tìm gặp. Cô Childs nói nếu cô ấy nghe thấy gì đó hoặc có học sinh nào tìm đến thì cô sẽ gọi tới trụ sở cho chúng ta. Có vẻ như Darren không có bạn gái."
"Hôm nay có học sinh nào vắng mặt không, Dodd?"
"Không thưa ngài. Tôi đã dán bức ảnh của Darren lên. Chữ viết được tìm thấy trong miệng cậu bé trùng hợp với chữ viết trong một số bài tập của cậu ở trường. Tôi hỏi cô Childs về Blayne Morton, cô ấy nói không hiểu rõ về Blayne lắm, chỉ biết rằng nó là đứa hay bắt nạt các học sinh khác. Cô ấy đã chứng kiến Blayne cãi nhau và xông vào đánh các bạn học ở quán cà phê. Có lần cô ấy còn bắt gặp nó thản nhiên dùng đồ của một đứa khác." Dodd giở lại một lượt cuốn sổ nhỏ để xem có để sót chi tiết nào không. "Nhân viên y tế ở trường nói có lần cô ta đã nhìn thấy vết thừng lằn trên lưng Darren và đã thông báo tới Trung tâm Bảo trợ xã hội."
Dodd nhìn Billy rồi nhìn sang Johnson, cô cười khúc khích và giơ ngón tay cái lên cổ vũ anh ta.
"Vậy những chi tiết này đưa chúng ta đến đâu?" Billy hỏi và đứng dậy xoa xoa chỗ chân đau.
Dodd và Johnson đều im lặng.
"Những đứa trẻ này đều đơn độc," Billy tiếp tục. "Chúng sống ở ngoài đường nhiều hơn ở nhà. Chẳng ai biết nhiều về chúng. Giờ chúng ta chỉ có được hai đầu mối nghi vấn chính là gã tình nhân của bà Sharon tên Woody và một học sinh tên Blayne Morton, chỉ vậy thôi. Những người hàng xóm của Hill đã nói gì với cô, Johnson?"
"Tôi đã nói chuyện với một người đàn ông tên là Hamer. Ông ta nói đã nhìn thấy chiếc xe tải trở về vào khoảng 8 giờ sáng thứ bảy. Ông ta cũng nhìn thấy trên vành xe có vết bùn. Hamer và Hill ít nói chuyện với nhau, Hill vốn là người ít nói, sống một mình, chỉ thỉnh thoảng có bà mẹ ghé thăm thôi. Chiếc xe tải đỗ ở đó đến 9 giờ tối thứ sáu, sau đó Hill lái xe đi. Lúc đi ông ta mặc quần bò và đội chiếc mũ cao bồi màu vàng rơm."
"Có ai khác nhìn thấy thế không?"
"Có một cô gái tên là Rhodes sống cách Perry Hill hai nhà. Sáng sớm thứ bảy, cô ấy đang chạy bộ thì nhìn thấy chiếc xe tải chạy theo con đuờng nhỏ rẽ vào nhà Perry. Lúc đó khoảng 8 giờ 15 phút. Trong ngày hôm đó Rhodes cũng có lần nói chuyện với Hill, cô ấy hỏi có phải ông ta vừa ra ngoài thành phố không. Cô ấy miêu tả Pérry Hill đó trông mỏi mệt và có vẻ như không muốn nói chuyện. Sau buổi trưa, ông ta lái xe ra ngoài và mang về một cái hộp. Cô ấy không thể nói chính xác đó là cái hộp gì. Có một cái hộp giống như thế đang để cạnh thùng rác, thưa thanh tra. Có lẽ ông ta dùng nó để đựng rượu vốt-ka."
"Hãy lấy lệnh khám chiếc xe đó. Tôi muốn thu giữ cái chăn trong xe càng nhanh càng tốt. À, Johnson, để dự phòng, cô hãy xin thêm một lệnh khám nhà và kéo Hill ra khỏi giường. Hãy phá cửa vào và lôi hắn ta ra ngoài nếu cô cảm thấy cần thiết."
Dodd và Johnson gật đầu, hơi ngạc nhiên khi thấy thái độ giận dữ bất ngờ của Billy.
"Đừng nhìn tôi như thế, Johnson. Chúng ta có thể có được một chứng cứ, một đầu mối, dù là rất mong manh, nhưng không thể cứ chờ đợi mãi thế này đúng không?"
"Vâng, thưa thanh tra."
"Dodd, anh hãy gọi điện cho Marilyn Black, người làm việc cùng với Shree Lynn. Hãy nói là tôi cần gặp cô ấy."
"Tôi sẽ làm luôn đây." Dodd đứng dậy.
"Hãy nhớ là chúng ta có một cái xác, không dấu vân tay, không đầu mối rõ ràng, chỉ có một động cơ mơ hồ."
"Ông cho rằng Hill sẽ là đầu mối dẫn chúng ta tới đâu đó sao?" Johnson băn khoăn.
"Một cái vòng luẩn quẩn. Nhưng sớm muộn chúng ta cũng sẽ tìm được thứ gì đó có giá trị."
Billy nhìn hai sỹ quan đi ra, trong đầu ông lại hiện lên hình ảnh cái xác Darren Riegert nằm trên bàn thép, đôi giày đầy vết máu. Ông cầm cốc cà phê đã cạn lên, nhặt vỏ những gói cà phê uống liền rồi bỏ chúng vào sọt rác cạnh bàn.
Bà Morton mở cửa mời Billy vào nhà với vẻ miễn cưỡng. Billy chìa tờ giấy phép tìm kiếm và hỏi bà ta có thấy phiền khi ông kiểm tra trong nhà một chút thì bà Morton tỏ ra lúng túng và ký ngay vào tờ giấy mà không cần đọc nó. Lệnh khám nhà được Billy để trong túi áo, nhưng giờ thì khỏi phải dùng đến nó nữa. Billy giải thích cho bà Morton mục đích tìm kiếm của mình và bà ta không phản đối.
"Vâng, thanh tra. Ông cứ tìm đi. Thằng Blayne con tôi vốn ngoan lắm mà."
Khi bà ta đi khỏi, Billy bắt đầu kiểm tra phòng khách. Không nhiều đồ đạc ở đó, chỉ có hai chiếc ghế cũ và một chiếc ti vi, không có tranh treo tường, không có báo và tạp chí. Nó làm Billy nhớ đến một nhà kho, nơi người ta chứa những thứ không dùng đến.
Trong phòng ngủ của Blayne, cả ba mặt tường đều treo ảnh các ban nhạc heavy metal. Phía đầu giường treo một dải băng bằng giấy có dòng chữ Mene Mene Takel. Rút cuốn sổ tay ra, Billy ngồi trên một chiếc ghế thấp gần cửa ra vào và quan sát căn phòng một lượt. Ông bắt đầu từ cái tủ chất đầy giày và quần bò của Blayne, rồi đến cái giường và chiếc hòm đang mở chứa áo phông và đồ lót của thằng bé. Tấm thảm loang lổ từng mảng như bị dây bẩn nước cà chua và cà phê.
Rèm cửa màu vàng cam. Không khí trong phòng nồng nặc mùi tất chưa giặt quyện với mùi khói thuốc lá lâu ngày ám lên mọi thứ đồ.
Billy kéo ghế lại gần chiếc giường bừa bộn. Ga trải giường đã được kéo lên như thể Blayne đang định gấp lại rồi bỏ dở. Mấy cái gối bị vo tròn như những quả bóng; chăn bị cuộn lại và dồn về một phía. Billy cúi xuống để xem xét kỹ chiếc ga nhăn nhúm và bẩn thỉu phía cuối giường thì thấy vài vết bùn khô trông như bột thô. Ông cũng nhìn thấy vết bùn dính trên chăn, chắc là Blayne đã để nguyên cả giày lấm bùn mà đi ngủ. Nhấc một góc chăn lên, Billy thấy nhiều mảng bùn bẩn hơn, xen kẽ giữa chúng là những vết nhỏ hơn, sẫm màu hơn. Ông rút một chiếc túi ni-lon ra trùm lên tay phải, khéo léo cạy một vài vết sẫm màu đó cho vào trong túi rồi gấp mép lại. Giơ cái túi ra phía ánh sáng, Billy nhận định đó là những mẩu phân chuột khô. Ông lấy thêm một vài mẫu bùn nữa. Nếu vết bùn và phân chuột trên chăn của Blayne trùng với mẫu bùn và phân chuột tại Ngôi nhà của quỷ Sa tăng thì chúng có thể trở thành chứng cứ trước toà. Tuy nhiên thế cũng chưa đủ để truy tố Blayne về tội sát hại Darren. Điều quan trọng bây giờ là phải tìm được chứng cứ chắc chắn chứng minh Blayne có mặt tại hiện trường vào đêm thứ sáu.
Billy tiếp tục giũ và kiểm tra đống quần áo bẩn của Blayne, hy vọng sẽ tìm được một chiếc áo phông hoặc một chiếc quần đùi cùng cỡ với Darren. Giả thuyết của ông là Blayne có thể đã có mặt tại hiện trường, là người chứng kiến, hoặc thậm chí là thủ phạm và mang quần áo của nạn nhân về nhà làm kỷ niệm. Tất cả các ngăn kéo đã được ông lục soát; dưới gầm giường đầy bụi không có gì ngoài một cuộn phim chưa dùng của chiếc máy ảnh Polaroid. Chiếc máy ảnh để trên mặt bàn. Billy thất vọng. Ông đứng lặng một lúc, suy nghĩ xem trong phòng liệu còn gì đáng để tìm kiếm nữa hay không. Nếu mình muốn giấu thứ gì đó trong căn phòng này thì mình sẽ giấu ở đâu nhỉ?
Billy nhấc tấm đệm lên. Hóa ra đây là một chiếc giường lò xo. Ông nhẹ nhàng luồn tay vào khung lò xo và lôi ra một quyển sách bìa màu trắng. Trên bìa có dòng chữ THE CANTINAL được viết bằng mực màu xanh lá cây, dưới nó là dòng chữ TRƯỜNG TRUNG HỌC HAMILTON. Những trang giấy vẫn phảng phất thơm, có lẽ là mới được in. Ông giở đến trang cuối, ở đó dán đầy ảnh chân dung các học sinh giống như trong cuốn niên giám mà Dodd mang về trụ sở. Mặt sau là bức ảnh đen trắng chụp những đội bóng rổ, những câu lạc bộ cờ vua đang ăn mừng phía khán đài. Ở trang 20 có ảnh chụp của từng học sinh với dòng chú thích ở dưới. Đó là lớp của cô Childs, cái tên mà Billy vừa nghe qua. Tại bức ảnh của Cody Schow, khuôn mặt cậu bé bị gạch chéo bằng mực đen giống hình một biểu tượng, bên dưới có dòng chữ viết tay nắn nót: "Chết là sống." Liệu chuyên gia chữ viết của Cảnh sát Hoàng gia có thể so sánh nét chữ này với chữ trên tấm ảnh thu được ở hiện trường không? Bức ảnh của Darren lại không bị đánh dấu.
Billy giở ngược lại tìm bức ảnh chân dung của ngài hiệu trưởng và tập thể giáo viên. Mỗi bức ảnh đều bị đánh dấu đỏ hình chữ X, những dòng kẻ đậm được vẽ chéo từ góc này sang góc kia và kết thúc bằng hình một giọt máu ở cuối trang. Trên đầu trang là dòng chữ màu đỏ "Tất cả đều phải chết." Billy chăm chú nhìn cuốn sách, trong mắt ông hiện lên hình ảnh Blayne Morton nằm vắt trên giường, thân hình to lớn của nó chúi vào quyển sách, vừa nguyền rủa các thầy cô vừa tô đi tô lại các giọt máu. Billy nhét quyển sách vào một túi ni-lon lớn.
Rồi ông lôi những thứ còn lại trong khung lò xo ra, đó là mấy lọn tóc quăn được gói trong mảnh vải mút-sơ-lin màu xám. Ông ấn tay xuống lò xo để xem bên trong còn giấu vật nào không. Không có gì, Billy lại nhìn vào bên trong và phát hiện ra một cái hộp bằng bìa màu trắng kẹp giữa khung lò xo và tấm giát giường. Ông nhẹ nhàng nhấc khung lò xo ra và lấy ra một hộp ca-vát nhỏ bẹp dí được viền ở các góc. Ông mở nó ra. Bên trong là sáu bức ảnh chụp Darren Riegert, trong đó có một bức chụp cậu bé đang đứng và mặc chiếc áo khoác da giống như bức ảnh ông có được. Trong một bức ảnh khác Darren đang nói chuyện với hai người không rõ mặt. Hai bức khác chụp Darren trên đường phố, những bức còn lại chụp cậu bé đang nhìn vô hồn vào ống kính. Trong hộp còn có mấy món quà Valentine nhỏ xíu. Phía trong nắp hộp có đính một mảnh vải đỏ - một thứ đồ ma thuật có tên của Darren. Billy nhận thấy có hai chiếc ghim được dập rất lỏng, như thể chúng đã bị gỡ ra và lại được ấn trở lại vào phần bìa. Bên dưới mảnh vải đỏ dường như còn một bức ảnh nữa. Billy nhẹ nhàng kéo mảnh vải ra, tấm ảnh đang nằm úp xuống. Ông lật lên, đập vào mắt ông là thân hình trần truồng của Darrén, sau đó là quyển sách và con dao ở góc hình.
Cánh tay xương xẩu của Darren bị trói về phía trước, hai bàn tay thằng bé che lấy bộ phận sinh dục như thể nó bị chụp ảnh bất ngờ. Darren vẫn đi giày ống. Phía sau thằng bé là cái bồn rửa trong tầng hầm Ngôi nhà của quỷ Sa tăng.
Billy gọi điện về trụ sở để gặp Butch, giọng ông đầy phấn khích.
"Butch, tôi đang ở nhà bà Morton. Tôi tìm thấy chứng cứ rồi !"
"Anh đúng là con chó săn già."
"Tôi đã gói mấy tang vật lại rồi, anh hãy cử một cảnh sát đến bệnh viện cùng một lệnh bắt nhé. Hãy trông chừng Blayne chặt chẽ. Lát nữa mẹ thằng bé có thể đến đó và kể cho nó nghe về cuộc lục soát của tôi, nếu nó tỉnh. Tôi sẽ mang những thứ này về cho Johnson kiểm tra. Có một bức ảnh chứng tỏ Blayne có mặt ở hiện trường gần thời điểm Darren bị treo cổ. Đó là thứ quan trọng nhất. Tôi cũng tìm được vài thứ nữa... rồi anh sẽ thấy. Cái chúng ta cần bây giờ là nhân chứng, là bất cứ ai nhìn thấy Blayne ra vào ngôi nhà vào thứ sáu, từ đó mới thiết lập được khung thời gian phạm tội."
"Anh nghĩ chúng ta có đủ điều kiện để khởi tố chưa?"
"Chúng ta đã có một điểm khởi đầu rồi. Sheree Lynn Bird có thể chứng thực cho mối quan hệ của Darren Riegert và Blayne trước đây. Tôi biết đó chỉ là lời nói lại, nhưng vẫn tồn tại khả năng có thật. Bức ảnh này là một bằng chứng khá rõ ràng. Nếu ta làm cho Blayne phải khai nhận tại sao nó có mặt tại hiện trường và nó biết được những gì tại đó thì ta có thể tiến hành khởi tố."
Buổi chiều ngày thứ ba ấm áp và lặng gió. Justin vừa gạt lớp đá trên bề mặt để ấn lưỡi xẻng vào phần đất xốp vừa tự hỏi liệu những linh hồn pháp sư từ xa xưa và những vị thần Blackfoot có báo thù việc đào bới nơi linh thiêng này không. Liệu cậu và mấy người kia có bị liệt đột ngột hay bị đui mù vì đã chọc giận một linh vật nào đó? Nhưng cậu vẫn tiếp tục đào, biết đâu mình sẽ tìm được những mũi tên cổ, những dụng cụ bằng xương hay một mảnh sọ người quý giá? Mặc dù nắng nóng thiêu đốt da thịt Justin, cậu vẫn cảm thấy dễ chịu và thanh thản lạ kỳ. Người cậu đầm đìa mồ hôi, đôi cánh tay đào bới không mệt mỏi. Bao mệt nhọc của buổi sáng dường như tan biến hết. Khi cậu và mọi người dừng lại ăn trưa lúc 2 giờ 20 phút, họ ngấu nghiến bánh sandwich thịt bò rán và những lát cà rốt như thể chưa bao giờ được ăn.
Không gian xung quanh như thôi thúc Justin.
Tại sao mình không chạy trốn đi?
Cậu có thể bắt xe bus từ Grayhound đến Lethbridge khi kết thúc một tuần khai quật. Cậu biết là chả nên hy vọng gì vào Patsy Hanson. Bà ta sẽ yêu cầu Justin phải làm bà ta thỏa mãn cả về xúc cảm lẫn tình dục, rồi thế nào cũng không chịu đưa tiền cho cậu. Nếu như vậy cậu sẽ về nhà gói ghém đồ đạc, mượn chút tiền của mẹ và nói với bà rằng cậu đi nghỉ cuối tuần, bà ấy sẽ không nghi ngờ gì hết. Khi tới Vancouver cậu sẽ kiếm việc làm và trả lại tiền cho mẹ. Cậu có thể phải chịu đựng vất vả, dối trá trong một năm, nhưng Yiannie sẽ xoá nợ cho cậu như một vụ mất tiền, thậm chí hắn cũng chẳng thèm tìm kiếm cậu nữa.
Vậy còn Karen thì sao? Sao không thuyết phục cô ấy cùng bỏ trốn? Ở đó có rất nhiều cơ sở y tế. Mà cũng có thể hai người sẽ giữ đứa trẻ lại. Nhưng không, Justin nghĩ lại, không thể làm thế. Suy cho cùng thì Karen nói rằng cô ấy yêu cậu. Nhưng liệu cô ấy có cố gắng trói cậu vào hôn nhân không nếu họ quyết định giữ lại đứa trẻ này? Ôi Chúa ơi ! Cậu lắc đầu ngao ngán.
Justin chộp lấy cán xẻng và bắt đầu đào bới tích cực. Cậu ngạc nhiên là kế hoạch của mình dường như quá dễ dàng, thậm chí khi việc của Karen vẫn còn chưa được giải quyết Tại sao trước đây cậu không nghĩ đến? Justin nhìn xuống. Cậu đã đào đến phần đất mà Randy và Sam Heavy Hand từng nói là nơi những người cổ xưa thường chôn đồ tế lễ. Đây là một phần quan trọng của công việc. Justin đặt xẻng xuống, với lấy sàng rây bằng thép. Xung quanh hố đào vuông vắn của cậu cắm bốn cái cọc được chăng lại bằng những đoạn dây màu trắng. Thành viên nào trong đoàn cũng làm việc trong những hố đào như vậy. Hàng ngày, khi một người đào và sàng xong một hố thì họ sẽ dịch chuyển các cọc rồi đào những hố mới cho đến khi toàn bộ khu vực được khai quật lên. Bộ tộc Blackfoot thường chôn sọ của những người lớn tu