← Quay lại trang sách

Chương 6 .

Sân bóng hoạt động hết cỡ. Tôi quét mắt vòng quanh rìa sân vận động, theo dãy chấn song lan can. Những nhóm khán giả túm tụm lại dưới hàng cây dương liễu mọc cạnh con lạch. Người ta cầm báo che đầu, la hét và vung tay đấm vào không khí. Một đám người cạnh bên trụ sở câu lạc bộ đứng trong những lùm cây dưới mái tôn; vài người trong họ đang mặc áo sọc của đội bóng. Không thấy Stinky đâu hết, hay Harold và băng nhóm của hắn (hên quá), nên tôi quyết định dợt những tư thế cột xà của mình, bởi vì nếu không thì tôi có thể chỉ đứng đó mà tưởng tượng ra cách dụ cả trăm con chuột vào phòng ngủ của Harold Barton.

Trước hết tôi làm tư thế chim, giống như vầy nè:

Tư thế này rõ ràng đòi hỏi một sức khỏe thật tốt cùng sự thăng bằng. Bạn cần phải trở nên giống như chim. Bạn duỗi các ngón chân ra xa đỉnh đầu và uốn cong hình cung hướng lên và ưỡn ngực về phía trước. Nếu bạn thử làm thế này, hãy chắc chắn rằng bạn giữ được cho tới khi lấy được thăng bằng. Barnaby không làm được tư thế này. Ảnh rất bực vì tôi có thể làm được. Barnaby nghĩ rằng ảnh phải giỏi hơn tôi bởi vì ảnh lớn tuổi và to xác hơn tôi. Ảnh giả bộ rằng ảnh không thú vị gì với các tư thế cột xà, nhưng tôi biết ảnh chỉ ganh tị bởi vì ảnh không thể làm được. Tư thế thứ hai là tư thế dơi:

Bạn chỉ phải để cho đầu mình thõng xuống và đôi chân bay lên. Tôi bắt chéo chân và để cho đầu tôi đong đưa. Thế này đặc biệt tốt cho việc có một cách nhìn đời khác lạ. Mọi người đang đi trông hay hơn rất nhiều khi bạn lộn ngược. Họ trở nên điên rồ và cà tưng, như những phi hành gia trên một hành tinh khác.

Rồi đến cây cầu. Nó nhìn giống như vầy nè:

Hãy gù gù trong tư thế này và có thể một con bồ câu sẽ làm tổ ngay dưới cánh tay của bạn.

Tôi đang treo mình trong tư thế loài dơi, mơ hồ xem trận bóng theo chiều ngược. Trông nó hay hơn nhiều. Có một ông bố đứng gần bên cứ la to, ‘Ráng lên nào Ngựa vằn! Cướp banh đi!’

Khi đội bên kia sút tung lưới, tất cả các cầu thủ đội Ngựa vằn đều gục đầu. Một anh chàng đấm vào cột khung thành. Tôi cảm thấy tội nghiệp họ. Tôi hài lòng là tôi đã không chơi bóng. Thỉnh thoảng Barnaby cố bắt tôi đá với ảnh, nhưng tôi không chơi. Tôi không hiểu làm sao bạn có thể biết trái banh hình quả trứng kia có thể nảy lên theo hướng nào. Nó thất thường vô chừng. Và tôi không thể nào đá nó cho chính xác. Barnaby nói như vậy là do tôi là con gái. Nếu làm một đứa con trai đồng nghĩa với việc bạn phải biết chơi bóng đá, thì tôi thấy mừng rằng mình là con gái. Barnaby là cầu thủ hay nhất thiên hạ. Ngay cả bố của Harold Barton cũng nói vậy khi ông xem một trận bóng trên đường phố. Điều đó làm cho Harold dỗi. Tôi thấy hắn dỗi. Mặt hắn đỏ ửng lên và miệng thở lập bập như một con cá vàng. Và từ phía gốc cây của mình, tôi âm thầm hả hê. Thỉnh thoảng tôi cũng là một đứa ác ngầm.

Ông bố lúc nãy đang phát cuồng lên và mặt đỏ bừng bừng. Ông nói, ‘Chán chưa! Tụi nó chơi như một lũ đàn bà.’ Tôi liếc cha nội này với ánh mắt giận tóe lửa (vì tôi là một người ủng hộ nữ quyền cuồng nhiệt,) nhưng bởi vì tôi đang treo ngược đầu nên không nghĩ ánh mắt mình bắn trúng ổng.

Một ánh mắt tóe lửa giận mà treo ngược thì không thể trực tiếp bắn trúng mục tiêu, đặc biệt khi gã đàn ông mập ú đó khiến cho mọi vật tưng đi thay vì xắn lún vào. Khi Harold Barton bắn tôi bằng một cái nhìn bẩn thỉu, cái nhìn đó xắn ngay vào tôi vì tôi còm nhom.

‘Tại sao bạn treo ngược đầu vậy?’ Giọng con sông hỏi tôi. Tôi thấy mái tóc nâu. Một đứa con trai. Tôi gần như nhìn được tới mũi cậu.

‘Tôi đang luyện tập,’ tôi đáp, nhìn xuyên qua đôi chân cậu để tìm kiếm dấu vết của Stinky.

‘Để chi vậy?’ Cậu đang mặc một cái áo thun có in chữ. Tôi không thể đọc ngược, nên tôi trở đầu xuôi lại.

‘Vô địch Dơi trên Trụ[9].’ Cái áo thun của cậu ghi là Lễ hội nhạc Jazz Wangaratta 1993. Cái đó in trên áo thun cũng không phải là tệ, không như mấy cái áo của Harold luôn luôn có nhãn hiệu thời trang trên đó.

Đứa con trai chun mũi lên. Tôi biết cậu ta nghi ngờ.

‘Vô địch Dơi trên Trụ là cái gì vậy?’

Một câu hỏi bình thường, tôi nghĩ vậy, và trong một thoáng tôi không biết trả lời làm sao vì tôi chỉ vừa bịa ra thôi.

Tôi hỏi, ‘Lễ hội nhạc Jazz Wangaratta là cái gì?’ Đó là một cái mánh mà tôi đã sử dụng hữu hiệu. Khi bạn không thể nghĩ ra câu trả lời, thì để câu giờ, hãy hỏi lại một câu hỏi khác.

‘Đó là một lễ hội nhạc jazz ở Wangaratta. Ba tôi đã mua cái áo thun này chứ không phải tôi.’

‘Cha bồ là một nhạc công hả?’

‘Không, không hẳn vậy.’ Tôi không quyết định được là mình có hết sức muốn biết về mấy ông bố của người khác, hay hết sức không muốn biết gì về họ. Tôi chưa kịp ngưng điều đó lại, thì rất nhiều hình tượng đã ngập đầy trí tôi - một ông bố mặc áo thun, ơ hờ ậm ừ và nói, ‘Có muốn ngồi xe chạy chơi một vòng không?’ Tôi cau mày xua hình ảnh ông bố đó đi.

Tôi hỏi, ‘Nào, bồ có mang Stinky ra không?’

Đôi chân mày cậu ta nhướng lên và đôi mắt cậu mỉm cười. ‘Bạn là Cedar à?’

‘Đúng rồi, tôi là Cedar. Tôi ướt mèm, tôi biết vậy. Đừng lo, tôi sẽ khá hơn khi tôi khô lại.’ Tôi vuốt nhanh mái tóc và kiểm tra xem nó đã trở thành một trái banh uốn quắn nước mưa chưa.

‘Lẽ ra bạn phải đứng ở chỗ xà trụ.’ Tóc của cậu ta ngắn và giản dị, không chải chuốt chút nào.

‘Ui, tôi quên mất vụ đó.’

‘À, Stinky được cột lại đằng kia,’ cậu ta chỉ về phía sau trụ sở câu lạc bộ, và Stinky đang núp mình dưới một cây dương xỉ. Nó nằm đó có vẻ rất thoải mái, không có dấu hiệu gì là đang bị lạc hay mong mỏi tôi.

Tôi kêu lớn, ‘Nhóc tì Stinky!’ Nó đứng bật dậy, vẫy cái đuôi nhỏ lè bè, và dậm tưng tưng đầy kích động khiến tôi thở phào biết ơn vì không cần chứng minh rằng nó chính là con chó của mình bị lạc.

‘Trông nó thật vui mừng khi gặp bạn.’

Stinky, khi được thả ra, chạy giữa hai chúng tôi, kêu ẳng ẳng với vẻ kích động làm người ta bối rối. Cậu trai kia đúng là một người hiểu chó rất rành.

Theo tôi, thế giới được tạo nên từ hai kiểu người - người chó và người mèo[10].

Nếu bạn kẻ một vạch ngay chính giữa và nói rằng tất cả những người chó hãy bước qua một bên và người mèo bước qua một bên, thì cái phía bên chó của thế giới sẽ hỗn độn và ngầu bùn, một nơi có thật nhiều cây cối um tùm. Phía bên mèo sẽ thật sạch sẽ, khoan thai và đầy những mảnh đất rực nắng với xô-pha bọc lụa. Tôi thuộc về phía chó, má tôi cũng vậy, và cả Barbaby. Nhưng Marnie Aitkin, nhỏ đó chắc chắn là thuộc về phía mèo. Nhỏ đó có những móng tay sơn màu đỏ san hô. Và cả Laura Pinkstone nữa. Đó là lý do tại sao tôi biết rằng Barnaby ngu rồi khi rủ nhỏ đó đi chơi, bởi vì chuyện đó chẳng bao giờ có thể nên cơm cháo gì. Ngay cả nếu Barnaby không bị gởi đi học xa, thì ảnh và Laura Pinkstone cũng thuộc về hai phe khác nhau. Bạn có bao giờ nghĩ một con chó có thể cưới một con mèo không?

Tôi ngắm kỹ cậu trai có giọng con sông. Một cái cổ dài. Cánh tay gầy nâu. Khuôn mặt xa vắng.

‘Bồ có chơi bóng không?’ Tôi hỏi, bởi vì tôi cảm thấy nên nói điều gì đó.

‘Không.’ Cậu ta chỉ khẽ nhún vai.

‘Tại sao không?’

‘Không thích cho lắm.’

Tôi nói, ‘Ừ, tôi cũng không thích. Trò đó thật đồng bóng.’ Và nghĩ rằng cậu có thể thán phục với cái từ đồng bóng đó. Nhưng dường như cậu không hề để ý. Cậu vẫn vỗ về Stinky. Qua cái cách cậu vỗ về con chó, tôi biết rằng cậu ta nhất định có những tố chất của một người chó. Người mèo vỗ về từ phía trên với một chút mơn trớn, những cái vỗ khẽ khàng, và họ đưa khuôn mặt họ ra xa để không phải ngửi mùi chó. Khi vỗ về Stinky, tôi thích kề thật sát. Tôi thích kề mặt tôi vào đôi tai nó và ngửi ngửi.

Tôi hỏi. ‘Bồ là một người chó, phải không?’

‘Không, tôi là một người chim.’ Cậu ta nói mà không cần phải nghĩ ngợi, như thể tôi đã hỏi một câu hỏi bình thường. Ừ, tôi phải thừa nhận, điều đó làm tôi chới với mất một thoáng. Tôi vẫn nghĩ chỉ có hai phe trên đời. Nhưng tôi đã lầm. Còn có cả bầu trời. Đó là sự bí ẩn đã bao trùm lên tất cả.

‘Vậy hả? Cái gì làm cho bồ thành một người chim?’

Cậu ta nhìn tôi, như thể đang cân nhắc xem tôi có đáng để trả lời hay là không. Cậu soi mói nhìn xoáy vào tôi, thật nghiêm trọng và chăm chú, cái nhìn trong mắt cậu mênh mang và hoang dại, gần như là biết hết. Nhưng cậu ta biết được điều gì nào? Đôi mắt soi vào tôi như thể cậu muốn xem xét tôi để tìm một khiếm khuyết. Điều đó làm tôi bồn chồn sốt ruột. Cậu quay đi, ngửa cao đầu và cười lớn. Rồi cậu nhảy lên chụp lấy một nhánh cây, đu lên và hạ người xuống trên nhánh cây. Tôi phải nói rằng tôi phục lăn.

Rồi cậu ta làm thêm nhiều trò nữa, những trò mà tôi làm trên cái cột, nhưng ác liệt hơn nhiều. Cậu có thể quăng người tới lui trong nhiều tư thế khùng điên trên cái cây. Cậu nhảy giữa những nhánh cây và lấy đà để quăng người lên và móc vào đó. Tôi nổi giận, giận phát điên lên. Giận vì mong muốn mình có thể làm được như vậy. Giận vì cậu có thể làm được còn mình thì không. Có vẻ như không ai có thể làm được như vậy, như một con thú, như thể cậu biết chắc rằng cậu sẽ không bị ngã.

Tôi hỏi, ‘Làm sao bồ học được mấy cái trò đó vậy?’ Tôi ì ra đó, nghĩ rằng mình sẽ làm cho cậu ta thán phục với cái tư thế dơi cũ xì ngu ngốc của mình, trong khi cậu còn giỏi hơn tôi rất nhiều từ khuya rồi. Cậu vẫn còn treo người trên cành, nhưng quăng người xuống bằng cái cách của một vị hoàng tử nhảy xuống ngựa sau khi chiến xong một trận oanh liệt. Tôi làm bộ như không thèm để ý.

‘Ba tôi dạy tôi hồi còn nhỏ xíu.’ Cậu chọc chọc một cái que vào bụi đất.

‘Bồ thật may mắn.’ Tôi từng đòi má tôi đưa tới học mấy lớp thể dục dụng cụ (nhất là sau khi tôi xem Thế Vận Hội trên ti-vi), nhưng bà nói bà không thể nghỉ làm và chúng tôi cũng không có tiền. Có lần bà đưa tôi tới một lớp dạy múa ba-lê với nhạc jazz vào thứ Bảy ở một hội trường cộng đồng, nhưng tất cả những đứa con gái khác đều mặc trang phục để múa ba-lê và tôi cảm thấy mình trông ngớ ngẩn trong bộ áo quần thể thao để chạy bộ của mình.

Tôi cám ơn cậu ta đã tìm thấy Stinky, và tôi nói rằng tôi nợ cậu một phần thưởng.

‘Thôi, đừng bận tâm về vụ đó.’ Cậu nói, xua xua tay. ‘Gặp bạn dịp khác nghen.’ Rồi cậu bỏ đi. Tôi trông theo một lúc, chỉ để xem coi cậu có bước đi như một con thú không. Tôi thích cái cách cậu đánh tay thật xa. Stinky và tôi đi về nhà và tôi để cho đôi tay mình đánh lên đánh xuống, như thể tôi sắp sửa cất cánh bay lên. Vụ này thiệt là đã.