← Quay lại trang sách

Chương 3 FRANCIS BACON -( 1561 – 1626 ) -

1. TỪ ARISTOTE ĐẾN THỜI PHỤC HƯNG:

Khi bị dân thành Sparte bao vây và đánh bại vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, Athènes, bà mẹ của triết học và nghệ thuật Hy Lạp, bị mất hết ưu thế chính trị, và hùng khí cùng nền độc lập của tâm thức Athènes cũng suy tàn. Khi vào năm 399 tTL Socrate bị kết án tử hình, thì linh hồn của Athènes cũng chết theo ông, chỉ còn lảng vảng nơi Platon, người môn đệ kiêu hãnh. Và khi vua Philippe xứ Macédoine đánh bại quân Athènes ở Charonea vào năm 388 tTL và 3 năm sau, khi Alexandre phóng hoả san bằng đô thị Thèbes rộng lớn, chỉ ngạo nghễ chừa lại ngôi nhà của Pindare, thì rõ ràng là nền độc lập của Athènes về chính trị và tư tưởng đã bị phá huỷ vô phương phục hồi. Sự thống trị triết học Hy Lạp do người ở thành Macédoine là Aristote phản ánh sự thuần thục chính trị của Hy Lạp đối với những dân tộc trẻ trung, hùng tính hơn đến từ phương Bắc.

Cái chết của Alexandre (năm 323 tTL) đã thúc nhanh quá trình này. Vị hoàng tử con trai vẫn còn bán khai sau mọi sự giáo huấn của Aristote, cũng đã học được sự kính trọng nền văn hoá giàu có của Hy Lạp, và đã có mộng ước lan truyền nền văn hoá ấy khắp phương đông theo dấu những đội quân đắc thắng của mình. Sự phát triển thương mãi Hy Lạp và sự tăng bội những trạm thương mãi Hy Lạp suốt miền Á châu nhược tiểu, đã cung cấp một căn bản kinh tế cho sự thống nhất miền nầy như phần tử của một đế quốc Hy Lạp; và Alexandre hy vọng rằng từ những trạm rộn rịp nầy, tư tưởng Hy Lạp, cũng như hàng hoá Hy Lạp, sẽ toả ra để chinh phục. Nhưng ông đã đánh giá quá thấp sự trơ lì và sức chống kháng của tâm thức Đông phương, cũng như chiều sâu và khối lớn của văn hoá Đông phương. Chung quy, đấy chỉ là một tưởng tượng của tuổi trẻ, khi giả thuyết rằng một nền văn minh thiếu trưởng thành và không bền vững như văn minh Hy Lạp có thể đè đầu một nền văn minh vô cùng lan rộng hơn và có gốc rễ trong những truyền thống cổ kính nhất. Số lượng của Á châu rõ ràng là quá nhiều đối với phẩm chất của Hy Lạp. Ngay chính Alexandre, vào giờ phút chiến thắng, cũng đã bị chinh phục bởi linh hồn của phương Đông; ông cưới (trong số nhiều bà) con gái của Darius, ông du nhập vào Âu châu quan niệm đông phương về uy quyền thiêng liêng của vua chúa; và cuối cùng ông đã làm cho một Hy Lạp hoài nghi phải ngạc nhiên khi công bố, theo kiểu long trọng đông phương, rằng ông là một vị trời. Hy Lạp đã phì cười; và Alexandre đã uống rượu cho tới chết.

Sự tan hoà tinh tế nầy của một linh hồn Á châu vào trong thể xác mỏi mệt của một vị chúa tể Hy Lạp được tiếp nối mau chóng bởi làn sóng thờ phụng và tín ngưỡng đông phương vào Hy Lạp được tiếp nối mau chóng bởi làn sóng thờ phụng và tín ngưỡng Đông phương vào Hy Lạp dọc theo chính những con đường giao thông mà vị vua chiến thắng trẻ tuổi đã mở ra; những con đê vỡ mở lối cho đại dương tư tưởng Đông phương du nhập vào những đồng bằng của tâm thức Á châu còn niên thiếu. Những đức tin thần bí dị đoan cắm rễ trong những người nghèo của xứ Hy Lạp cổ xưa bấy giờ được tăng cường và lan khắp; tinh thần thản nhiên chịu đựng của Đông phương cũng đã tìm được một mảnh đất sẵn sàng trong xứ Hy Lạp tuyệt vọng. Sự du nhập nền triết học khắc kỷ vào Athènes do thương gia người Phoenicia là Zénon (khoảng năm 310 tTL) chỉ là một trong nhiều sự xâm nhập của Đông phương. Cả hai thuyết khắc kỷ và hưởng lạc - sự thản nhiên chấp nhận thất bại và nỗ lực để quên thất bại trong vòng tay của lạc thú - là những lý thuyết về cách thức làm sao có thể hạnh phúc trong khi vẫn bị phục tòng hay nô lệ; hệt như thuyết khắc kỷ kiểu Đông phương bi quan của Schopenhauer và thuyết hưởng lạc tuyệt vọng của Renan vào thế kỷ 19, đã là những biểu tượng của một nền cách mạng tan rã và một nước Pháp điêu linh.

Không phải những phản đề tự nhiên nầy của lý thuyết đạo đức hoàn toàn mới mẻ đối với Hy Lạp. Người ta gặp chúng trong một Héraclite buồn thảm và "triết gia cười" Démocrite; và người ta thấy những môn đệ của Socrate chia phân thành ra hai phái dưới sự lãnh đạo của Anthisthènes và Aristippel, một bên tán dương sự thản nhiên chịu đựng, một bên ca tụng hạnh phúc. Tuy nhiên ngay cả vào thời ấy, đây cũng là những hình thái tư tưởng hầu như xa lạ: đô thị Athènes vương giả không quen thuộc với chúng. Nhưng khi Hy Lạp đã thấy Chaeronea trong máu và Thèbes thành tro, nó mới lắng nghe Diogène, và khi vinh quang đã rời bỏ Athènes thì đô thị nầy thuần thục sẵn sàng đón Zénon và Epicure. Zénon xây dựng triết học ông về tánh thản nhiên trên một thuyết tất mệnh mà một nhà khắc kỷ sau này, Chrysippus, nhận thấy rất khó phân biệt với thuyết định mệnh của Đông phương. Khi Zénon, người không tin chủ nghĩa nô lệ, đánh đập người nô lệ mình vì một lỗi nào đó, người nô lệ đã bình thản biện hộ rằng, theo triết học của chủ, y đã bị số phận từ vô thỉ phải phạm lỗi ấy; Zénon đã trả lời rằng ông cũng thế, đã có phần số phải đánh y vì lỗi kia. Cũng như Schopenhauer cho rằng ý chí cá nhân chống lại ý chí phổ quát là việc vô ích, nhà khắc kỷ cũng lý luận rằng thái độ lãnh đạm triết lý là thái độ hợp lý duy nhất trong một đời sống mà sự tranh đấu sống còn phải chịu số phận oan uổng là luôn luôn đưa đến thất bại tất yếu. Nếu sự chiến thắng là hoàn toàn bất khả thì đáng nên khinh bỉ nó. Bí quyết của sự bình an không phải là thực hiện cho kỳ được những ham muốn, mà ham muốn thật ít để có thể thực hiện. Seneca, nhà khắc kỷ La Mã (mất năm 65) bảo: "Nếu những gì bạn có dường như không đủ cho bạn, thì dù bạn sở hữu cả thế giới bạn cũng vẫn còn khổ sở".

Một nguyên tắc như thế kêu lên thấu trời để đòi hỏi nguyên tắc đối lập nó, và Epicure -mặc dù chính ông là một người khắc kỷ trong cuộc sống như Zénon- đã cung cấp đối lập ấy. Theo Fénelon, Epicure "đã mua một khu vườn xinh đẹp, mà tự ông chăm bón, ở đấy ông lập trường học và sống một đời êm đềm dễ chịu với các môn đệ trong khi ông đi dạo và làm việc... Ông cho rằng không gì cao quý hơn áp dụng chính bản thân mình vào triết học". Khởi điểm của ông là một niềm xác tín rằng sự buồn thảm không thể có và khoái lạc - mặc dù không nhất thiết là khoái lạc giác quan - là cứu cánh duy nhất có thể quan niệm và hoàn toàn chính đáng của đời sống và hoạt động. "Thiên nhiên hướng dẫn mọi cơ thể để ưa thích tiện nghi cho riêng nó hơn mọi sự tốt đẹp khác"; ngay cả người khắc kỷ cũng tìm thấy niềm vui tế nhị trong sự khước từ. "Ta không được tránh lạc thú, nhưng phải tuyển chọn chúng". Như vậy, Epicure không phải là kẻ hưởng lạc; ông ca tụng những nguồn vui của trí thức hơn là của giác quan; ông cảnh cáo chống lại những khoái lạc kích động và quấy rối linh hồn mà đáng lẽ chúng phải làm cho an tĩnh và lắng dịu. Cuối cùng ông đề nghị tìm kiếm không phải khoái lạc trong nghĩa thông thường, mà ataraxia -sự an tĩnh, bình lặng, yên nghỉ của tâm hồn, tất cả điều ấy đều rất gần với nỗi thản nhiên chịu đựng kiểu Zénon.

Những người La Mã đến cướp phá Hy Lạp vào năm 146 tTL, tìm thấy những học thuyết thù nghịch này đang phân chia chiến trường triết học và không có sự nhàn rỗi cũng như tế nhị để tự mình tư duy, đã mang những triết học ấy theo cùng với những của cải lượm được chở về La mã. Những nhà tổ chức vĩ đại, cũng như những kẻ nô lệ tất yếu, đều hướng về tư thái lạnh lùng thản nhiên, thật khó mà làm chủ hay tớ nếu người ta quá nhạy cảm. Bởi thế nền triết học La Mã phần lớn thuộc học phái Zénon, dù nơi Marc Aurele vị đế vương hay nơi Épictète kẻ nô lệ; và ngay cả Lucrèce cũng nói về chủ nghĩa khoái lạc một cách khắc kỷ (như người Anh của Heine buồn bã hưởng lạc), và kết thúc Phúc âm khắc khổ về khoái lạc bằng cách tự tử. Bản trường ca cao thượng của ông nhan đề "Về bản chất của sự vật" mô phỏng Epicure trong việc ca ngợi khoái lạc để mà chỉ trích nó. Hầu như đồng thời cới César và Pompey, ông sống ở giữa sự náo động và hỗn loạn; ngòi bút bất an của ông luôn luôn viết những lời nguyện cầu cho an lạc hoà bình. Người ta hình dung ông như một linh hồn rụt rè mà tuổi trẻ đã bị những nỗi sợ hãi tôn giáo làm cho đen tối; vì ông không bao giờ chán bảo độc giả rằng không có địa ngục, trừ ở đây, và không có những vị thiên thần trừ những thiên thần cốt cách sống trong một khu vườn của Epicure trong những đám mây, và không bao giờ xen vào những công việc của người. Đối lập sự thờ phụng thiên đường và địa ngục đang thịnh hành trong dân chúng La Mã, ông đưa ra một thuyết duy vật tàn bạo. Linh hồn và tâm trí đều cùng tiến triển với thể xác, lớn lên với sự lớn lên của thể xác, đau với sự đau của thể xác, và chết với cái chết của xác. Không gì hiện hữu ngoài ra nguyên tử, không trung và định luật; và định luật của những định luật là định luật thành hoại lan khắp.

Không một vật gì dừng trụ, mọi sự đều tuôn chảy.

Mảnh này bám lấy mảnh kia; vạn vật cứ thế lớn dần.

Cho đến khi ta biết và đặt tên chúng.

Dần dần chúng tan rã, và không còn là những vật ta biết.

Được kết thành hình cầu từ những nguyên tử rơi nhanh hay chậm

Tôi thấy những mặt trời và những thái dương hệ thành hình;

Và ngay những thái dương hệ cùng những mặt trời ấy

Sẽ từ từ trở về chu kỳ vần xoay bất tận

Ngươi nữa, hỡi quả đất - đế quốc ngươi, đất, biển và những ngôi sao nhỏ nhất trong ngân hà,

Cũng như chúng, ngươi thành hình từ cơn xoay vần và cũng như chúng,

Ngươi sẽ đi. Ngươi đang đi, từng giờ một

Không vật gì dừng trụ: Biển của ngươi từ từ biến mất.

Những bãi cát trăng soi rời bỏ chỗ chúng;

Và nơi hoàng sa kia sẽ có những biển khác đến xoá tan bờ vịnh bằng những lưỡi hái trắng ngần

(Lucretius on life and death. pp.15-16 -Mallock diễn ra Anh ngữ-!)

Cộng thêm vào sự thành hoại của các tinh tú là sự khởi nguyên và tận diệt của các loài:

Ngày xưa quả đất cũng đã sản xuất nhiều quái vật, những con vật này có mặt mày chân tay kỳ dị...; có những con không chân, có những con không tay, có những con không mồm, có những con không mắt,... Mọi quái vật thuộc loài ấy quả đất đã sản xuất, nhưng vô hiệu; vì thiên nhiên không để chúng tăng trưởng, chúng không thể đạt đến tuổi hoa niên mong mỏi, cũng không kiếm ăn được, cũng không phối hợp được trong hôn nhân;... và nhiều loài chắc đã phải diệt dần như thế và không thể sinh con hay tiếp tục sinh sống. Vì trong trường hợp mọi sinh vật mà ta thấy hô hấp hơi thở của sự sống, từ khởi thuỷ mỗi loài đều có hoặc tài năng hoặc can đảm, hoặc vận tốc đã che chở và bảo tồn cho nó... Những loài mà thiên nhiên không cho một đặc tình nào kể trên đều sẽ bị phó mặc làm mồi cho những loài khác, cho đến khi thiên nhiên đưa chúng đến chỗ tận diệt (p. 830ff, Munro dịch).

Các quốc gia cũng như cá nhân, từ từ lớn lên và chắc chắn phải chết: "một vài quốc gia trổi lên, vài quốc gia khác tàn tạ, và trong một khoảng ngắn thời gian, những sinh vật bị biến đổi, và cũng như những kẻ chạy đua, chuyền lại ngọn đèn của sự sống". Trước chiến tranh và cái chết không thể tránh, không có sự khôn ngoan nào ngoài ra trong thái độ an nhiên ataraxia, - "nhìn mọi sự với cõi lòng bình an". Ở đây, rất rõ, niềm vui vô thần cũ về cuộc đời đã mất, và một tinh thần hầu như xa lạ đang chạm một chiếc đàn cầm đã gãy vỡ. Lịch sử, vốn chỉ là một trò khôi hài, chưa bao giờ đùa dai cho bằng khi nó tặng danh từ "hưởng lạc" cho con người yếm thế bi tráng và tiết độ nầy.

Và nếu đây là tinh thần của môn đồ Epicure, thì ta hãy tưởng tượng niềm lạc quan phấn khởi của những nhà khắc kỷ rõ rệt như Aurèle, hay Épictète. Không có gì trong mọi nền văn học lại buồn thảm bằng những bài "nghị luận" của người nô lệ, trừ phi những bài "Trầm tư" của vị hoàng đế. "Đừng tìm cách làm cho sự vật xảy ra như ngươi muốn, mà tốt hơn chúng xảy ra thế nào thì hãy lựa chọn thế ấy; như vậy ngươi sẽ sống phong phú" (Enchiridion and Dissertations of Epictetus, de Rolleston, p. 81). Dĩ nhiên bằng cách ấy ta có thể làm chủ tương lai và cũ trụ. Chuyện kể rằng người chủ Epictète thường xuyên đối xử tàn nhẫn với ông, một ngày kia khởi sự vặn bẻ một ống chân Epictète để tiêu khiển. Epictète bảo: "Nếu ngài tiếp tục, ngài sẽ làm gãy chân tôi". Người chủ cứ tiếp tục và cái chân gãy thật. Epictète ôn tồn nhận xét: "Đấy, há tôi đã chẳng bảo ngài sẽ làm gãy chân tôi đấy sao?. Tuy nhiên có một vẻ gì cao thượng huyền bí trong triết lý này, như trong sự can đảm yên lặng của một người chủ hoà kiểu Dostoevski. "Đừng bao giờ bảo rằng: tôi đã mất vật nọ vật kia; mà phải nói: tôi đã trả nó về. Con của bạn chết chăng? - nó được trả về. Vợ bạn chết chăng? - nàng được trả về. Bạn bị tước mất hết tài sản chăng? - há chẳng phải nó cũng được trả về đấy hay sao?" Trong những đoạn văn như thế ta thấy gần giống với Kitô giáo và những thánh tử đạo anh dũng của tôn giáo này; quả thế, há chẳng phải nền đạo đức Kitô giáo về sự quên mình, lý tưởng chính trị Kitô về tình huynh đệ - gần như kiểu cộng sản - giữa người với người và thuyết mạt thế Kitô giáo về sự thiêu huỷ cuối cùng của toàn thế giới - chính là những mảnh vụn của chủ thuyết khắc kỷ đang trôi nổi trên dòng tư tưởng. Trong Epictète, linh hồn Hy Lạp - La Mã đã mất tính cách vô thần của nó, và sẵn sàng cho một niềm tin mới. Sách của ông có hân hạnh đặc biệt là được giáo đường Kitô sơ thuỷ áp dụng như một cuốn yếu lược tôn giáo. Từ những "Nghị luận" này và những "Trầm tư" của Aurèle đến "Sự mô phỏng đấng Kitô" chỉ cách nhau một bước.

Trong lúc ấy bối cảnh lịch sử đang hoà vào trong những cảnh tượng mới hơn. Có một đoạn văn đặc sắc trong Lucrèce tả sự suy tàn của nông nghiệp trong cuốn La Mã, và quy sự suy tàn ấy cho lý do đất đã kiệt lực. Dù nguyên nhân nào đi nữa, sự giàu có của La mã cũng đã nhường bước cho cảnh nghèo nàn, tổ chức trở thành phân hoá, quyền lực và niềm kiêu hãnh trở thành sự suy vi và nỗi thản nhiên chịu đựng. Các đô thị rơi vào tình trạng những miền nội địa không có gì đặc sắc; đường xá rơi vào tình trạng thiếu sửa chữa và không còn tấp nập việc mậu dịch thương mãi; những gia đình nhỏ của người La mã có giáo dục bị lấn lướt bởi những giòng giống Đức mạnh mẽ vô giáo dục hằng năm len lỏi qua biên giới; văn hoá vô thần nhường bước cho tín ngưỡng Á đông; và dần dà, một cách tinh vi, đế quốc trở thành Giáo quốc của nhà thờ Công giáo La mã.

Giáo đường, vào những thế kỷ đầu tiên, được ủng hộ bởi những vị vua dần dần bị lấn quyền, phát triển nhanh chóng về số lượng, tài sản và tầm ảnh hưởng. Vào thế kỷ 13, nó đã chiếm một phần ba đất Âu châu (Robinson và Beard: Outlines of European History, Boston, 1914, I, 443) và những tủ sắt của nó đầy nhóc những tặng dữ (?) từ người giàu và kẻ nghèo. Trong một nghìn năm, với bùa phép của một tín điều không thay đổi, nó đã thống nhất phần lớn dân tộc của một lục địa; chưa bao giờ trước đấy, và từ đấy đến nay, có một tổ chức nào lan rộng đến thế hay hoà bình đến thế. Nhưng sự thống nhất này, theo giáo đường nghĩ, đòi hỏi một đức tin chung được tăng cường bằng những hình phạt siêu nhiên ở bên ngoài chuyển biến và sự ăn mòn của thời gian; bởi thế những giáo điều cố định và được giải thích kỹ càng được đúc nên như một cái vỏ cứng trên tâm thức mới lớn của Âu châu thời trung cổ. Chính trong giới hạn lớp vỏ này nền triết học kinh viện đã di chuyển hạn hẹp từ đức tin đến lý trí và trở lại, mắc kẹt quanh quẩn trong một vòng tròn gồm những giả thuyết không được phê phán và những kết luận có trước. Vào thế kỷ mười ba, tất cả tín đồ Kitô giáo phải giật mình và kích động trong bản dịch tác phẩm Aristote ra tiếng Ả-rập và Do thái; những uy lực của giáo đường vẫn còn có đủ qua thánh Thomas d' Aquin và những người khác để biến hoá Aristote thành một nhà thần học trung cổ. Kết quả đấy là sự khôn khéo tinh ranh, chứ không phải minh triết. "Trí khôn và tâm thức con người - Bacon bảo- nếu tác động trên vật chất, nó sẽ tuỳ thuộc vào nguyên liệu mà tác động, và do đó bị nguyên liệu hạn chế. Nhưng nếu nó tác động trên chính nó như nhện giăng tơ, tằm làm kén, thì nó thành ra vô tận, và quả thế mang lại những mạng nhện của sự uyên bác, đáng phục vì công trình tinh vi song lại không thực chất vì vô bổ". Sớm muộn gì tri thức Âu châu cũng sẽ nhảy ra khỏi lớp vỏ này.

Sau một ngàn năm chăm bón, đất nở hoa trở lại; hàng hoá được tăng bội thành một số thặng dư buộc phải có mậu dịch; và việc mậu dịch ở những con đường chéo của nó lại dựng lên những đô thị mới, nơi đó người ta có thể cộng tác để bồi dưỡng văn hoá và dựng lại văn minh. Những cuộc thánh chiến mở những con đườmg đến Âu châu, và để tràn vào một dòng xa xỉ phẩm và tà thuyết làm tiêu ma chủ nghĩa khắc khổ và giáo điều. Bấy giờ giấy du nhập rất rẻ từ Ai-cập, thay thế loại da thuộc đắt đỏ đã làm cho việc học trở thành độc quyền của giới tu sĩ; sự ấn loát, từ lâu chờ đợi một phương tiện ít tốn kém, bây giờ bừng lên như một chất nổ được châm ngòi, và lan rộng khắp nơi ảnh hưởng phá hoại và soi sáng của nó. Bấy giờ những thủy thủ gan dạ lại được trang bị địa bàn, dám phiêu lưu vào biển cả hoang vu và chinh phục sự ngu dốt của con người về trái đất; những nhà quan sát kiên nhẫn với những ống viễn vọng kính, phiêu lưu ra ngoài giới hạn của giáo điều, và chinh phục được sự ngu dốt của con người về bầu trời. Khắp nơi, trong những đại hoc đường, trong các chủng viện và những nơi ẩn dật xa xôi, người ta thôi tranh luận và bắt đầu tìm tòi. Từ nỗ lực biến kim khí loại thấp thành vàng, thuật luyện kim dò dẫm chuyển thành hoá học; từ khoa chiêm tinh con người dò đường vừa táo bạo vừa rụt rè, đến khoa thiên văn học; và từ những chuyện ngụ ngôn về loài vật biết nói, khoa động vật học ra đời. Sự bừng tỉnh ấy bắt đầu với Roger Bacon (chết năm 1294); phát triển với Leonardo da Vinci (1452 - 1519); và viên mãn với nền thiên văn của Copernic (1473 - 1543) và Galilée (1564 - 1642), với những nghiên cứu của Gilbert (1544 - 1603) về nam châm và điện, của Vesalius (1514 - 1564) về giải phẫu học, và của Harvey (1578 - 1657) về sự tuần hoàn của máu. Khi hiểu biết tăng, nỗi sợ hãi giảm; con người bớt nghĩ đến việc thờ phụng cái vô hình, và nghĩ nhiều hơn đến việc thắng lướt nó. Mọi sinh lực được nâng cao với một niềm tin tưởng mới; những hàng rào bị phá huỷ; bấy giờ không còn giới hạn nào cho những gì con người có thể làm. "Nhưng sự kiện những chiếc tàu nhỏ, như những thiên thể, được dong buồm quanh khắp địa cầu, chính là niềm hạnh phúc của thời đại chúng ta. Bây giờ chính là lúc ta sử dụng từ ngữ plus ultra - xa thêm nữa- "nơi mà những người xưa dùng từ ngữ non plus ultra" (Bacon; The Advancement of Learning; P.II, chương 10. Một châm ngôn trung cổ báo cho tàu quay lui ở Gibraltar vào Địa trung hải, với hàng ghi: Non plus ultra - Đừng đi xa hơn). Đấy là thời đại của những công trình, của hy vọng và sự hùng mạnh, của những bắt đầu và những khởi công mới trong mọi địa hạt; một thời đại đang chờ đợi một tiếng nói, một linh hồn tổng hợp có thể nói trọn một cách vắn tắt tinh thần và quyết định của nó. Chính Francis Bacon, "tâm thức hùng mạnh nhất của thời đại tân tiến" (Epicure.J. Payne trong The Cambridge Modern History, I, 65) là người đã "rung chuông triệu tập những đại trí lại cùng nhau", và công bố Âu châu đã đến tuổi trưởng thành.

2. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ CỦA BACON:

Bacon sinh ngày 22 tháng giêng năm 1561, ở York House London, tư dinh của thân phụ ông là Sir Nicholas Bacon, viên quan giữ ấn trong 20 năm đầu của nữ hoàng Elizabeth. Theo Macaulay, "danh tiếng của người cha đã bị khuất vào bóng tối trước danh tiếng của người con. Nhưng Sir Nicholas không phải là người tầm thường". Đấy là điều ta không lạ, vì thiên tài là một tuyệt đỉnh mà một gia tộc đào luyện được qua nhân tài, rồi qua nhân tài nơi hậu duệ của thiên tài, gia tộc lại chìm vào sự tầm thường của con người như cũ. Thân mẫu Bacon là Lady Anne Cooke, em dâu của Sir William Cecil, quan giữ kho của nữ hoàng Elizabeth, vừa là một trong những người thế lực nhất ở Anh quốc. Thân phụ bà đã từng làm quan phụ đạo chính thức của vua Edward đệ lục; và chính bà là một nhà ngữ học và thần học, không nghĩ đến việc gì ngoài việc giao dịch thư từ bằng tiếng Hy Lạp với những vị giám mục. Bà tự làm thầy dạy dỗ con trai và không từ một việc khó nhọc nào trong việc giáo huấn cậu. Nhưng vú nuôi thực thụ của thiên tài Bacon chính là Anh quốc vào thời nữ hoàng Elizabeth, thời đại huy hoàng nhất của quốc gia hùng mạnh nhất trong các quốc gia tân tiến. Sự tìm ra Mỹ châu đã chuyển hướng việc mậu dịch từ biển Địa trung hải sang Đại tây dương, đã nâng những quốc gia vùng Đại tây dương -Tây ban nha, Pháp, Hoà lan, Anh- lên ngôi chúa tể về thương mãi và tài chánh mà trước đấy là của Ý khi một phân nửa Âu châu đã biến Ý thành hải cảng xuất nhập trong việc mậu dịch ở Đông phương; và với cuộc biến đổi này, sự phục hưng đã đi từ Florence, La mã, Milan, Venice đến Madrid, Paris, Amsterdam và London. Sau trận phá huỷ hải lực của Tây Ban Nha vào năm 1588, nền thương mãi Anh bành trướng khắp mọi hải phận, những thị thành Anh quốc phồn thịnh với kỷ nghệ, những thuỷ thủ Anh lái tàu quanh địa cầu, và những thuyền trưởng của Anh đã chiếm được Mỹ châu. Nền văn chương Anh nở thành thơ của Spencer và tản văn của Sidney; sân khấu Anh quốc rộn rịp với những vở kịch của Shakespeare, Marlowe và Ben Johnson cùng một trăm ngòi bút vững mạnh khác. Không ai không phát triển được trong một thời đại và xứ sở như thế, nếu trong họ có sẵn hạt mầm.

Năm hai mươi tuổi, Bacon được gởi đến Trinity College ở Cambridge. Ông ở đấy 3 năm, rồi rời trường với một mối thù ghét mãnh liệt đối với những bài học và phương pháp của nó, một mối thù nghịch sâu xa đối với sự tôn thờ Aristote và một ý chí cương quyết đặt triết học vào một con đường phì nhiêu hơn, chuyển nó từ sự tranh luận kinh viện đến việc soi sáng và tăng gia lợi ích nhân sinh. Mặc dù còn là một cậu bé mười sáu, Bacon đã được mời làm một nhân viên của toà đại sứ Anh tại Pháp; và sau khi tính kỹ lợi hại, ông nhận lời. Trong lời Tự ngôn cho cuốn Giải thích thiên nhiên ông đã bàn đến quyết định có tính cách định mệnh đã chuyển hướng ông từ triết học đến chính trị. Đấy là một đoạn văn quan trọng:

Trong khi tôi tin rằng tôi được sinh ra để phụng sự nhân loại, và xem việc lo lắng đến lợi ích chung là một trong những nhiệm vụ chung, mở ra cho tất cả không phân biệt, chẳng khác nào nước và không khí, tôi tự hỏi điều gì có thể làm lợi ích cho nhân loại nhất, và thiên nhiên đã uốn nắn tôi để làm việc gì?

Nhưng khi cố tìm, tôi vẫn không thấy công việc nào xứng đáng bằng sự tìm tòi và phát triển những nghệ thuật và phát minh đưa đến sự văn minh hoá sinh hoạt con người...

Nhất là nếu một người có thể thành công, không những trong việc đưa ra ánh sáng một sự phát minh đặc biệt nào dù lợi ích đến đâu mà còn trong việc nhen nhúm lên trong thiên nhiên một ánh sáng có thể, khi vừa bừng lên, đã chiếu rọi một ít ánh sáng vào những giới hạn hiện tại trong những khám phá của con người, rồi sau đó, khi vươn cao, sẽ làm hiển lộ cho thấy rõ mọi ngõ ngách của bóng tối; đối với tôi, một nhà phát minh như thế sẽ xứng đáng được gọi là Người Triển Khai đích thực Vương quốc con người ra ngoài vũ trụ. Nhà vô địch về tự do con người, Kẻ Tiêu diệt những lẽ tất yếu hiện giam giữ người ta trong vòng nô lệ. Hơn nữa, tôi nhận thấy trong bản chất riêng tôi một sự thích ứng đặc biệt để suy ngẫm chân lý. Vì tôi có một trí óc vừa uyên bác đủ cho mục đích quan trọng nhất ấy, nghĩa là sự trung thực nhận những điểm tương đồng vừa khá vững chãi và tập trung để quan sát những mức độ vi tế của sự dị biệt. Tôi có một đam mê tìm tòi, một năng lực dừng nghỉ sự phán đoán một cách kiên nhẫn, một năng lực để trầm tư trong hân hoan, để chấp nhận với dè dặt, để sẵn sàng sửa chữa những cảm tưởng sai lạc, và để chịu khó xếp đặt tư tưởng cẩn thận. Tôi không khát vọng cái mới, không thán phục mù quáng cái cổ. Tôi hoàn toàn ghét sự giả mạo dưới mọi hình thức. Bởi tất cả những lý lẽ ấy, tôi xét thấy rằng thiên tư và bản chất tôi, dường như có một thứ liên lạc bà con với chân lý.

Nhưng dòng dõi, sự giáo huấn của tôi, tất cả đều đã hướng không về triết lý mà về chính trị: tôi hầu như được thấm nhuần về chính trị từ thuở ấu thơ. Và cũng như trường hợp thường thấy ở các thanh niên, đôi khi tôi bị lung lay bởi những quan niệm. Tôi cũng nghĩ rằng nhiệm vụ đối với xứ sở có những đòi hỏi đặc biệt nơi tôi, những đòi hỏi mà những nhiệm vụ khác của đời không thể lấn áp. Cuối cùng tôi nuôi hy vọng rằng, nếu tôi giữ một chức vụ danh dự nào trong quốc gia, tôi có thể có những trợ giúp bảo đảm cho công việc tôi, với ý hướng hoàn thành nhiệm vụ được dành cho tôi. Với những động lực ấy, tôi bước vào chính trị ( Do Abott dịch từ La ngữ sang Anh ngữ trong cuốn Francis Bacon, London, 1885, tr.37).

Năm 1570 Sir Nicholas Bacon chết bất ngờ. Ông đã định cấp cho Francis một gia tài, nhưng cái chết đã cướp kế hoạch ông, và nhà ngoại giao trẻ tuổi, khi được gọi gấp về London, đã bừng con mắt dậy thấy mình không cha, không tiền lúc mười tám tuổi. Ông đã quen với phần lớn những xa hoa của thời đại, nên bây giờ thấy rất khó khăn để an phận với nếp sống đạm bạc bất đắc dĩ. Ông bắt đầu hành nghề luật, trong khi khẩn cầu những thân quyến có ảnh hưởng tiến cử ông vào một chức vụ chính trị nào để có thể giải thoát ông khỏi mối lo về kinh tế. Nhưng bức thư hầu như van xin của ông đã không được kết quả bao nhiêu so với lời văn tráng lệ hùng hồn và tài nghệ rõ rệt của tác giả. Có lẽ chính vì Bacon không đánh giá thấp tài nghệ này, và xem địa vị như điều ông dĩ nhiên phải có, cho nên Lord Burghley đã không đem lại sự đáp ứng mong mỏi; và cũng có lẽ vì những bức thư kia quá long trọng thề nguyền trung thành với vị Lord trong quá khứ, hiện tại cũng như vị lai: trong chính trị, cũng như trong tình yêu, không nên tự hiến mình toàn vẹn; người ta nên cho luôn luôn, nhưng không bao giờ nên cho tất cả. Lòng biết ơn được nuôi dưỡng bằng sự mong chờ.

Cuối cùng, Bacon đã leo lên được mà không cần sự nâng đỡ từ bên trên; nhưng mỗi bước phải làm ông hao tổn nhiều năm. Năm 1583 ông được bầu vào Nghị viện đại diện cho tỉnh Taunton, và những cử tri thích ông đến nỗi họ tái cử cho ông nhiều lần. Ông có một tài hùng biện mạnh mẽ trong cuộc tranh luận, và là một nhà hùng biện không rườm lời. "Không có một người nào đã từng ăn nói rõ ràng, chặt chẽ, hùng hồn hơn -Ben Johnson bảo- hoặc từng ít bị trống rỗng, vô duyên hơn trong những gì mình nói. Không một chữ, một câu nào trong lời nói ông lại không có những duyên dáng riêng của nó. Những người nghe không thể ho hay nhìn sang phía khác mà không bị mất mát điều gì. Ông điều khiển mỗi khi ông nói... Không ai được nhiều quý chuộng của thính giả hơn ông trong mãnh lực thu hút ấy. Nỗi sợ hãi của mọi người nghe ông là sợ rằng ông sẽ chấm dứt (Nichol; Francis Bacon, Edingburg, 1907; p. 37). Nhà hùng biện đáng thèm!

Ông có một người bạn thế lực rất giàu lòng với ông -quận công Essex đẹp trai mà nữ hoàng Elizabeth đã yêu không được nên đâm ra thù. Năm 1595 Essex, để bù lại sự thất bại của mình trong việc bảo đảm một địa vị chính trị cho Bacon, đã tặng Bacon một cơ sở đẹp ở Twickenham. Đấy là một món quà vĩ đại mà người ta những tưởng nó có thể ràng buộc Bacon với Essex suốt đời, nhưng té ra không. Vài năm sau Essex tổ chức một âm mưu hạ ngục Elizabeth và chọn người kế vị bà lên ngôi. Bacon viết thư liên tiếp cho ân nhân mình, phản đối sự bội phản này, và khi Essex vẫn khăng khăng một mực, Bacon cảnh cáo ông ta rằng sẽ đặt sự tận trung với nữ hoàng lên trên cả lòng biết ơn bạn. Essex đã cố gắng thực hiện âm mưu, bị thất bại và bị bắt. Bacon năn nỉ với nữ hoàng cho bạn mình một cách dai dẳng đến nỗi cuối cùng nữ hoàng bảo ông "nói chuyện gì khác". Khi Essex, được tự do tạm, tụ tập quân lực lại, diễn hành vào London và cố xách động dân chúng làm cách mạng, Bacon giận giữ chống lại ông. Trong lúc ấy Bacon đã được một ghế xử án trong triều đình, và khi Essex bị bắt lại, bị xử vì phản nghịch, Bacon đã dự phần tích cực trong vụ xử người đã là người bạn rất hào phóng đối với ông.

Essex bị xử có tội và bị tử hình. Sự tham dự của Bacon vào việc xử án đã làm cho ông mất thanh danh một thời gian; và từ đấy trở đi ông sống giữa những kẻ thù đợi dịp để trả thù ông. Tham vọng không biết chán của ông khiến ông không nghỉ ngơi được; ông luôn luôn bất mãn và luôn luôn ông tiêu trước lợi tức của ông khoảng một năm. Ông tiêu xài phung phí; sự chưng bày đối với ông là một phần của chính sách. Khi, vào năm bốn mươi tuổi, ông cưới vợ, đám tiệc kênh kiệu và đắt đỏ đã để lại một lỗ thủng lớn trong của hồi môn vốn là một trong những sự quyến rũ của vị phu nhân. Năm 1598 ông bị bắt vì nợ nần. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục tiến. Tài năng đa diện và kiến thức hầu như bất tận của ông khiến ông là một hội viên đáng giá cho mọi hội đồng quan trọng, dần dần nhiều chức vị cao được mở ra cho ông: năm 1606 ông được làm Solicitor-General; năm 1613 trở thành Attorney-General; năm 1618, vào năm năm mươi bảy tuổi, cuối cùng ông trở thành Lord Chancellor.

3. NHỮNG BÀI TIỂU LUẬN:

Sự tiến thân của ông dường như đã thực hiện giấc mộng Platon về một thánh vương (vị vua vừa là triết gia). Vì song song bước một với sự trèo lên thế lực chính trị, Bacon đã lên đến đỉnh cao của triết học. Thật hầu như không thể tin được rằng tài bác học và những công nghiệp văn chương của con người này lại chỉ là những biến cố và những chuyển hướng của một sự nghiệp chính trị đầy sóng gió. Châm ngôn của ông là: người ta sống hay nhất với một đời ẩn dật - Bene vixit qui bene latuit. Ông không thể biết rõ ông thích đời sống trầm mặc hơn hay đời sống hoạt động hơn. Hy vọng của ông là vừa làm triết gia vừa làm chính khách như Seneca, mặc dù ông e ngại rằng hướng đi song đôi của đời ông như vậy sẽ làm ngắn tầm mục tiêu và giảm thiểu mức thu nhập của ông. "Thật khó nói - ông viết (Valerius Terminus, đoạn cuối)- xem sự pha lẫn suy tư với một đời sống hoạt động, hay sự rút lui hoàn toàn vào việc suy tư, có làm mất khả năng của tâm trí hơn hay cản trở nó hơn không?". Ông cảm thấy rằng sự học tự nó không thể là cứu cánh hay minh triết, và một tri thức không được áp dụng trong hành động chỉ là một tri thức thiếu máu. "Dùng quá nhiều thì giờ vào việc học là lừ đừ; dùng quá nhiều sự học để trang hoàng là làm bộ; phán đoán hoàn toàn theo quy luật sách vở là tính khí của một học giả. Người tài lên án sự học, người ngu thán phục nó, người minh triết sử dụng chính nó; bởi vì sự học không dạy sử dụng chính nó; nhưng đây là một sự minh triết ở bên ngoài và bên trên sự học đạt được nhờ quan sát ("Về sự học"). Đây là một điểm mới, đánh dấu sự chấm dứt cái học hàn lâm -nghĩa là ly khai giữa tri thức với thực dụng và quan sát- và đặt nặng khía cạnh kinh nghiệm và kết quả, làm nổi bật triết lý Anh và lên đến tột đỉnh của nó trong thuyết duy dụng. Không phải Bacon có lúc thôi yêu mến sách và suy tư; bằng những lời khiến ta nhớ đến Socrate, ông đã viết: "nếu không có triết học tôi không thiết sống ("Đề tặng cuốn Wisdom of the Ancients); và ông tự mô tả mình, cuối cùng là "một người có thiên tính thích hợp cho văn học hơn cho bất cứ việc gì khác, và đã bị một định mệnh nào đó đưa đẩy vào đời sống hoạt động phản lại khuynh hướng của tính khí mình" (Tăng tiến Tri thức). Ấn phẩm hầu như đầu tay của ông gọi là "Ca tụng tri thức" (1592); tính cách nồng nhiệt của nó đối với triết học khiến ta phải trích dẫn mới được:

"Lời ca ngợi của tôi sẽ dành cho chính tâm trí. Tâm trí là con người, và kiến thức là tâm trí, một người chỉ là những gì mà y biết... Há chẳng phải lạc thú của tình yêu lớn hơn lạc thú của giác quan, và há chẳng phải lạc thú của tri thức lớn hơn lạc thú của ái tình? Há chẳng phải lạc thú tự nhiên chân thật là thứ lạc thú mà người ta không bao giờ ngấy chán? Há chẳng phải chỉ có tri thức mới giải toả tâm trí khỏi mọi vọng động? Biết bao nhiêu điều chúng ta tưởng tượng song không có thật? Biết bao nhiêu điều ta đánh giá và xem trọng hơn chính thực bản chất chúng? Những tưởng tượng vô lối này, chính là những đám mây lầm lỗi đã chuyển thành những cơn bão tố của vọng động. Thế thì có một hạnh phúc nào cho tâm thức con người, một hạnh phúc có thể nâng tâm thức ấy lên trên những hỗn mang của sự vật, ở đấy y có thể kính trọng trật tự của thiên nhiên và lầm lỗi của con người? Há chỉ có độc một niềm hoan lạc mà không có sự phát minh? Chỉ có sự hài lòng mà không có lợi lộc? Há chúng ta không đồng thời thấy rõ những báu vật của kho tàng thiên nhiên cũng như vẻ đẹp của nó? Chân lý có thực khô cằn chăng? Há chúng ta sẽ không nhờ đấy mà có thể sản ra những hậu quả đáng giá, và đem lại cho nhân sinh những tiện nghi vô hạn?

Sản phẩm văn chương tinh luyện nhất của ông, cuốn "Tiểu luận" (1597 - 1623), chứng tỏ ông vẫn còn bị dằn xé giữa hai tình yêu, yêu chính trị và yêu triết học. Trong bài "Tiểu luận về danh dự và tiếng tăm", ông gán tất cả mức độ danh dự cho những công trình quân sự và chính trị, không một mức độ nào được quy cho công trình văn chương hay triết học. Nhưng trong bài tiểu luận "Bàn về chân lý", ông viết: "Sự tìm tòi chân lý - sự bắt tình với nó; tri thức về chân lý - sự ca ngợi nó, niềm tin vào chân lý - sự thưởng thức nó, là điều kiện tối cao của thiên tính con người". Trong những cuốn sách "chúng ta nói chuyện với thánh hiền, cũng như trong hành động ta nói chuyện với người ngu". Nghĩa là nếu chúng ta biết lựa chọn sách để đọc. " Một số sách chỉ đáng nếm qua" - để trích một đoạn thời danh- "một số khác đáng nuốt chửng, và một số ít đáng được nhai nghiền và tiêu hoá"; tất cả những nhóm này, chắc hẳn, đã họp thành một phần rất nhỏ của những đại dương và những thác mực trong đó hằng ngày thế giới được tắm rửa, bị đầu độc và chết đuối.

Dĩ nhiên "Tiểu luận" phải được kể trong số ít sách đáng được nhai nghiền và tiêu hoá. Hiếm khi ta tìm thấy nhiều hào thiện được gia vị và gia hương một cách tuyệt diệu như thế trong một đĩa ăn bé nhỏ. Bacon ghét rườm rà, và không ưa phung phí một tiếng nào; ông cho ta vô vàn của cải trong một câu ngắn; mỗi bài tiểu luận trong đó, với khoảng một, hai trang, đem lại sự tinh tế được chưng lọc, của một tâm trí bực thầy về một vấn đề chính yếu của đời sống. Thật khó nói xem bên hình thức, bên nội dung, bên nào tuyệt hơn; vì ở đây ngôn ngữ đã đến chỗ tuyệt xảo về tản văn cũng như ngôn ngữ Shakespeare đã tuyệt xảo về văn vần. Đấy là một lối văn giống như văn của Tacite, hùng mạnh, cô đọng nhưng gọt giũa; và quả vậy một phần sự sáng sủa khúc triết của nó là nhờ ở sự mô phỏng khéo léo những từ ngữ La Tinh. Nhưng kho tàng ẩn dụ của nó đặc biệt có tính cách của thời đại Elizabeth, và phản ảnh sự dồi dào của thời Phục hưng; không người nào trong văn chương Anh lại sung túc về lối so sánh hàm súc và ý nhị như thế. Sự chưng bày phung phí những so sánh này là khuyết điểm độc nhất trong lối văn của Bacon: những ẩn dụ bóng gió tượng trưng bất tận đổ xuống như những nhát roi quất trên thần kinh của ta và cuối cùng làm cho ta chán mệt. Cuốn "Tiểu luận" giống như món ăn nặng nề nhiều gia vị, không thể tiêu hoá nhiều trong một lúc, nhưng nếu đọc mỗi lần bốn hay năm bài, thì chúng là dưỡng chất tinh thần bổ khoẻ nhất bằng Anh ngữ.

Ta có thể rút ra được gì từ sự minh triết đã được rút tỉa này? Có lẽ khởi điểm tốt nhất, và sự chuyển hướng đáng chú ý nhất từ những thời thượng của triết học trung cổ chính là sự chấp nhận hẳn nhiên của ông đối với đạo đức của Epicure. Quan điểm triết học "đừng sử dụng để khỏi mong muốn, đừng mong muốn để khỏi sợ hãi, có vẻ là một dấu hiệu của một tâm thức yếu đuối rụt rè. Và quả thế phần lớn những học thuyết của các triết gia dường như quá hoài nghi, và lo cho nhân loại quá mức cần thiết. Họ làm tăng thêm nỗi sợ chết khi đưa ra những phương pháp chống lại nó; bởi vì khi họ xem cuộc sống của con người chỉ là một kỷ luật chuẩn bị cho cái chết, thì dĩ nhiên kẻ thù ấy phải là ghê gớm, sự tự vệ chống lại nó được đặt ra triền miên" (Tăng tiến tri thức, VII, 2). Không gì tai hại cho sức khoẻ bằng sự tiết chế dục vọng theo thuyết khắc kỷ; kéo dài một đời sống ra làm gì khi sự an phận thản nhiên đã biến nó thành ra sự chết trước kỳ? Ngoài ra, đấy là một nền triết học bất khả; vì bản năng sẽ vọt ra. "Bản năng thường bị che dấu, một đôi khi bị thắng lướt, nhưng hiếm khi chết hẳn. Sức mạnh bản năng còn dữ dội hơn khi quay trở lại; lý thuyết và sự giáo dục làm nó bớt cấp bách, nhưng tập tục chỉ biến đổi, hàng phục bản năng. Người ta chớ nên quá tin vào sự đắc thắng của mình đối với bản năng, vì nó sẽ nằm chôn vùi một thời gian lâu, nhưng sẽ sống dậy khi có dịp hay có sự cám dỗ. Bản năng cũng như cô gái của Aesop, biến từ một con mèo thành một người đàn bà, ngồi rất đoan trang ở đầu tấm phản, cho đến khi một con chuột chạy ngang trước mặt. Bởi thế, một người hãy tránh hẳn cơ hội, hoặc đặt mình thường xuyên tiếp xúc với cơ hội để có thể ít bị xúc động vì nó °" (°Về bản năng trong người ). Quả thế, Bacon nghĩ rằng thân xác cần được tập quen với sự quá độ cũng như sự tiết chế: nếu không, ngay chỉ một lúc không tiết chế cũng đủ phá hoại nó. - Bởi thế một người quen ăn những thức ăn thuần khiết và dễ tiêu hoá nhất sẽ dễ dàng bị đau bụng khi vì quên hay vì hoàn cảnh bắt buộc, phải bỏ lệ -. Tuy nhiên "sự thay đổi nhiều lạc thú tốt hơn là sự quá đà"; vì "sức mạnh của bản năng nơi tuổi trẻ đã vi phạm nhiều sự quá độ khiến một người đến tuổi già phải trả giá chúng". Sự trưởng thành của một người thường phải trả giá bằng tuổi trẻ y. Một đường lối hay hoặc để đạt đến sức khoẻ là một mẫu vườn; Bacon đã đồng ý với tác giả của Sáng thế ký rằng: "Đức Chúa trời lúc đầu dựng một khu vườn" và với Voltaire rằng chúng ta nên trồng tỉa khoảnh sân sau của mình.

Triết lý đạo đức trong cuốn "Tiểu luận" có mùi vị của Michiavel hơn là của Kitô giáo, mà Bacon thường chỉ trích gay gắt "Chúng ta mắc nợ của Machiavel và những nhà văn tương tự, những người tuyên bố một cách cởi mở không che đậy những gì con người làm thực sự, chứ không phải những gì y làm; bởi vì không thể nào nối liền sự khôn ngoan của một con rắn và sự ngây thơ của con bồ câu, nếu trước hết không có một tri thức về bản chất của sự ác; không có tri thức này thì đức hạnh bị phơi ra không được phòng vệ" (Tăng tiến tri thức, XII, 2). "Những người Ý có một câu cách ngôn khiếm nhã: Tanto buon che val niente, - tốt quá đến nỗi không ích vào việc gì" (Về sự tốt đẹp). Bacon phối hợp lý thuyết của ông với thực hành, và khuyên nên có một hoà hợp giữa sự gian lận và lương thiện, giống như một hợp kim sẽ khiến cho chất kim loại kém tinh ròng nhưng mềm hơn, có thể sống dai hơn. Ông muốn có một sự nghiệp trọn vẹn và nhiều màu sắc, để quen với mọi thứ có thể mở rộng, đào sâu, tăng cường, làm sắc bén tâm trí. Ông không thán phục đời sống thuần tư tưởng ; như Goethe, ông khinh bỉ thứ tri thức không đưa đến hành động: "người ta phải biết rằng trên sân khấu nhân sinh chỉ có những Thượng đế và thiên thần mới làm khán giả" (Tăng tiến tri thức, VII, 1).

Về tôn giáo, mặc dù đã hơn một lần bị lên án là vô thần và toàn bộ khuynh hướng triết học ông có tính cách thế tục và thuần lý, Bacon tỏ ra là một người đả kích sự bất tín rất hùng hồn và nghe ra có chiều thành thật. "Tôi chẳng thà tin mọi bài ngụ ngôn trong truyện hoang đường, và kinh Talmud và Alcoran, còn hơn tin rằng cái khung vũ trụ này lại không có một tâm thức... Với một ít triết lý rởm đời, tâm thức con người ngả về vô thần; nhưng sự uyên thâm về triết học đem tâm thức người lại gần tôn giáo. Vì khi tâm thức con người nhìn vào những nguyên nhân phụ bị phân tán, đôi khi nó có thể an nghỉ trong chúng và không đi xa hơn; nhưng khi nó nhìn chuỗi dây xích của chúng, liên minh kết nối với nhau, nó phải bay đến Thượng đế và thần tính. Sự thờ ơ đối với tôn giáo là do rất nhiều yếu tố. "Những nguyên nhân của sự vô thần là sự phân chia nhiều tôn giáo ; vì khi chỉ chia đôi, mỗi ngành tôn giáo sẽ gia tăng sự hăng hái cho cả đôi bên; nhưng nhiều ngành tôn giáo sẽ đưa đến vô thần... Và cuối cùng, nguyên nhân ấy là những thời đại của học giả, nhất là khi có hoà bình thịnh vượng; vì những lúc rối loạn và ngang trái, quả có làm cho tâm thức con người thiên về tôn giáo ". Nhưng giá trị của Bacon nằm ở tâm lý học nhiều hơn ở thần học và đạo đức. Ông là một nhà phân tích xác đáng bản tính con người, sự quan sát tinh tế của ông rọi vào mọi tâm hồn. Ông độc đáo một cách mới mẻ về một đề tài nhạt nhẽo nhất thế giới. "Một người cưới vợ già thêm bảy tuổi trong tư tưởng ngay hôm đầu tiên". "Người ta thường thấy những ông chồng xấu lại có vợ tốt" (Bacon là một ngoại lệ!). "Một đời độc thân tốt cho những giáo sĩ, vì lòng bác ái không thể nào tưới được xuống đất khi nó phải đổ đầy một cái ao trước đã... Người nào có vợ con tức đã đưa con tin cho vận số; vì gia đình là chướng ngại cho những công việc lớn, dù công việc ấy có tính chất thiện hay ác". Bacon dường như bận việc quá nhiều không có thì giờ để yêu đương, và có lẽ ông không bao giờ cảm thức tình yêu một cách sâu xa. "Thật lạ lùng khi ta chú ý đến sự thái quá của thứ đam mê này... Không một người đàn ông kiêu hãnh nào lại có thể nghĩ tốt về mình một cách phi lý như người đang yêu nghĩ về người mình yêu... Ta có thể thấy rằng trong số tất cả những người vĩ đại và xứng đáng không một người nào đã bị mê man điên dại vì yêu đương, điều ấy chứng tỏ những tâm hồn lớn và những công việc lớn vẫn thường tránh xa cái đam mê yếu đuối ấy" ("Về ái tình").

Bacon đánh giá tình bằng hữu hơn tình yêu, mặc dù ngay cả tình bằng hữu ông cũng có thể có thái độ hoài nghi. "Có rất ít tình bằng hữu trên thế giới, và hiếm nhất là tình bằng hữu giữa những người ngang nhau, mối tình này thường hay được phóng đại. Tình bạn có thật là giữa người trên và người dưới, những người vì cảnh ngộ có thể hiểu nhau... Một hậu quả chính của tình bạn là niềm thoải mái và sự trút sạch nỗi đầy ứ của trái tim, mà đam mê đủ loại đã gây ra". Một người bạn là một lỗ tai. "Những người cần bạn để thố lộ can tràng chính là những kẻ ăn thịt chính trái tim mình... Kẻ nào có tâm sự đầy những ý tưởng, thì trí tuệ và hiểu biết của y sẽ sáng tỏ và tuôn ra trong khi bàn luận cảm giao với một người khác; ý tưởng của y tuôn ra dễ dàng hơn; y sắp đặt chúng một cách thứ tự hơn; y thấy rõ chúng sẽ ra thế nào khi biến thành lời; cuối cùng y trở nên minh triết hơn trước; và đó là nhờ một giờ đàm luận hơn là qua một ngày trầm tư. ("Về tình bằng hữu").

Trong bài tiểu luận "Về tuổi trẻ và sự già nua" Bacon đã thu gọn một cuốn sách vào trong một đoạn văn. "Thanh niên thích hợp cho việc phát minh hơn là cho sự phán đoán, thích hợp cho sự thi hành hơn cho việc làm cố vấn, và thích hợp cho những kế hoạch mới hơn là cho công việc đã an bài; bởi vì cái kinh nghiệm của tuổi tác về những việc đã qua hướng dẫn họ, song về những việc mới lại lừa dối họ... Thanh niên, trong sự điều hành những hoạt động, thường ham hố ôm vào thật nhiều nhưng nắm được rất ít, có thể quấy động nhiều hơn trấn an; lao vào mục đích mà không biết xét đến phương tiện thứ lớp, theo đuổi một cách phi lý một vài nguyên tắc họ tình cờ bắt gặp, không biết biến chế, và điều này đã mang lại cho họ nhiều khó chịu bất ngờ... Những người tuổi tác thì cản ngăn quá nhiều, cân nhắc quá lâu, không mấy khi chịu làm liều, thối lui quá sớm, và ít khi đẩy công việc đi đến giai đoạn toàn mãn nhất mà chỉ bằng lòng với một thành công tàm tạm. Dĩ nhiên cần dùng cả hai... Bởi vì những đức tính nơi hạng người này có thể sửa chữa những khuyết điểm nơi hạng người kia". Tuy nhiên Bacon nghĩ rằng tuổi thanh và thiếu niên có lẽ được dành quá nhiều tự do, bởi thế đâm ra lêu lổng vô trật tự. "Các bậc cha mẹ nên chọn đúng lúc năng khiếu và con đường họ muốn con cái phải theo, bởi vì vào giai đoạn ấy trẻ dễ uốn nắn nhất; họ không nên quá chú tâm đến thiên tư của con cái đến độ tưởng rằng tốt hơn hết chúng nên theo những gì chúng ham thích. Quả có đúng khi bảo rằng nếu một đứa trẻ có những ham thích hay năng khiếu phi thường vào một việc gì, thì không nên làm trái năng khiếu ấy; nhưng phần nhiều lời khuyên sau đây của Pythagore rất hợp lý: "Optimum lege suave et facile illud faciet..." "Hãy chọn việc tốt nhất, thói quen sẽ làm cho nó thú vị và dễ dàng" ("Về cha mẹ và con cái"). Vì "thói quen là vị thẩm phán chính trong đời người ta" ("Về thói quen").

Về chính trị, những bài tiểu luận đưa ra một thuyết bảo thủ tự nhiên nơi người có khát vọng thống trị. Bacon muốn có một quyền hành trung ương mạnh. Chính thể quân chủ là hình thức cai trị tốt nhất; và thường hiệu năng một quốc gia thay đổi tuỳ sự tập trung quyền hành. "Có ba giai đoạn trong việc chính sự: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn thảo luận hay cứu xét và giai đoạn thi hành. Bởi thế, nếu muốn nhanh chóng, chỉ giai đoạn giữa nên để cho nhiều người làm, còn đầu và cuối cho số ít" ("Về sự thi hành nhanh chóng"). Bacon là một nhà quân sự rõ rệt; ông phàn nàn sự phát triển kỹ nghệ, coi như không thích hợp cho chiến tranh và than phiền hoà bình kéo dài có thể ru ngủ con người chiến đấu trong ta. Tuy nhiên ông công nhận tầm quan trọng của nguyên liệu: "Khi Croesus khoe với Solon chỗ vàng của mình, Solon nói không ngoa rằng nếu kẻ nào khác có sắt tốt hơn, kẻ ấy sẽ làm chủ tất cả số vàng ấy" ("Về sự vĩ đại đích thực của các vương quốc").

Cũng như Aristote, Bacon khuyên nên tránh các cuộc cách mạng. "Cách thức chắc chắn nhất để đề phòng nổi loạn;... là dẹp hết chất liệu cho những cuộc nổi loạn; vì khi nhiên liệu đã sẵn sàng, thật khó biết khi nào tàn lửa sẽ châm đốt... Điều ấy không có nghĩa là muốn trừ loạn phải ráo riết dẹp tắt những cuộc hội thảo, trái lại, khinh thường những cuộc hội thảo ấy đôi khi là cách hay nhất để ngăn chận chúng; còn cứ lo đi quanh dẹp hội thảo thì chỉ làm cho chúng sống dai thêm... Chất liệu cho biến loạn có hai: nghèo túng và bất mãn. Những nguyên nhân và động lực thúc đẩy các cuộc bạo động là sự canh tân tôn giáo; chính sách thuế khoá; thay đổi luật lệ; tước đặc quyền; sự đàn áp chung; sự tiến cử những người không xứng đáng, những người lạ; sự đói kém; lính giải ngũ; các đảng phái đâm ra tuyệt vọng; và bất cứ gì làm mếch lòng dân đều đoàn kết họ lại trong một chính nghĩa chung". Mánh lới của nhà lãnh tụ dĩ nhiên là phải chia rẽ kẻ thù ra và đoàn kết bạn hữu lại". Nói chung, sự chia rẽ và dập tắt mọi đảng phái... nghịch với chính quyền và đặt họ ở xa nhau hay ít nhất làm cho họ nghi kỵ lẫn nhau, không phải là một trường hợp tuyệt vọng khi những người cầm giềng mối quốc gia thì có đầy yếu tố bất hoà và phe đảng, còn những người chống lại quốc gia thì toàn vẹn nhất khối ("Về những cuộc bạo động và bất an"). Một phương sách tốt hơn để tránh cách mạng là phân chia tài sản cho quân bình: "Tiền giống như phân bón, không tốt nếu không rải phân" (ibid.). Song điều này không có nghĩa chủ trương xã hội hay dân chủ. Bacon không tin vào dân chúng mà vào thời ông rất ít được giáo dục; sự nịnh bợ là mị dân"; và "Phocion, khi được dân chúng hoan hô, đã hỏi một câu đầy ý vị: "Ta có làm gì sai quấy đâu?" ("Tăng tiến tri thức"). Điều Bacon muốn trước tiên là một chế độ tiểu điền chủ gồm những tá điền sở hữu ruộng đất; rồi một giai cấp quý tộc để cầm quyền hành chánh, và trên hết là một vị quốc vương vừa là triết gia". Hầu như không có trường hợp nào trong đó một nền cai trị không được phồn thịnh dưới những nhà cầm quyền uyên bác" (ibid). Bacon kể đến Seneca, Antonius Pius và Aurelius; hy vọng của ông là hậu thế sẽ cộng thêm tên mình vào số đó.

4. CUỘC TÁI TẠO VĨ ĐẠI:

Vô tình, giữa lúc đang vênh vang chiến thắng, tâm hồn Bacon quay về với triết học. Triết học đã là vú nuôi của ông vào thời niên thiếu, đang là người bạn của ông ở văn phòng và sẽ là nguồn an ủi cho ông trong cảnh ngục tù thất thế. Ông than cho triết học, theo ông nghĩ, đã bị mang tiếng xấu, và quy lỗi cho nền học kinh viện cằn cỗi. "Người ta rất dễ khinh miệt chân lý vì những cuộc tranh luận nêu lên về nó, và có khuynh hướng nghĩ rằng những người không bao giờ gặp nhau đều đi lầm đường" (Ibid). "Những ngành khoa học...gần như bị ngưng trệ không tăng thêm kiến thức nào xứng đáng với giống người;... và mọi truyền thống kế tục của các trường học vẫn còn là một chuỗi kế tục những học giả mà không có nhà phát minh... Hiện nay những gì được thực hiện về khoa học chỉ là sự thảo luận xoay tròn bất tuyệt". Suốt những năm đời ông đang lên hương, Bacon luôn trầm tư về việc phục hưng hay tái tạo triết học; "Meditor Instaurationan philosophiae" (trong Redargutio Philosophiarum). Ông dự định tập trung mọi nghiên cứu vào công việc này. Trước tiên, ông bảo chúng ta trong bài tiểu luận "Chương trình công việc", ông sẽ viết một vài bài Luận thuyết dẫn nhập, giải thích sự ngưng trệ của triết học vì đã cố chấp vào những phương pháp xưa cũ, chết cóng, và vạch sơ lược những đề nghị một khởi công mới mẻ. Thứ hai, ông sẽ cố gắng phân loại các ngành khoa học lại, định cho chúng những nguyên liệu của chúng, và kê ra những vấn đề chưa được giải quyết trong mỗi ngành. Thứ ba, ông sẽ mô tả phương pháp mới của ông để Giải thích thiên nhiên. Thứ tư, ông sẽ cố bắt tay vào môn vạn vật học thực thụ, tìm hiểu những Hiện tượng thiên nhiên. Thứ năm, ông sẽ chỉ rõ Chiếc thang tri thức nhờ nó các nhà trứ tác trong quá khứ đã leo lên những chân lý mà bây giờ đang ra khỏi bối cảnh rườm rà của thời trung cổ để dần dần thành hình. Thứ sáu, ông sẽ cố Tiên đoán những kết quả khoa học mà ông tin sẽ có nhờ sử dụng phương pháp của ông: Và cuối cùng, như một ngành Triết học thứ yếu (hay ứng dụng), ông sẽ vẽ ra một xã hội lý tưởng bừng nở từ tất cả nền tri thức đang đâm chồi này mà ông hy vọng mình sẽ là người báo trước. Tất cả các điều nói trên lập thành tác phẩm Magna Instauratio, sự tái tạo vĩ đại của triết học °)

[° Bảy tác phẩm trên của Bacon mang nhan đề như sau:

1. De Interpretatione Naturae Proemium - Dẫn nhập việc giải thích thiên nhiên, 1603 -; Redargutio Philosophiarum -Phê bình các ngành triết học, 1609-.

2. The Advancement of Learning, 1603 -được dịch ra La-tinh dưới nhan đề De Augmentis Scientiarum, 1622)

3. Cogitata et Visa (Những