← Quay lại trang sách

Ông Bổng vẫn đấy

Nguyễn Văn Bổng đứng vào lớp cha chú chúng tôi, nhưng tôi vẫn quen gọi ông bằng anh. Ông sinh năm 1921 tại làng Bình Cư, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Vùng đất quê ông giàu truyền thống yêu nước và văn học. Cha ông là nhà nho đã dạy ông văn học chữ Hán. Ngay từ năm chín, mười tuổi, Nguyễn Văn Bổng đã bắt đầu tập làm thơ, viết truyện. Truyện dài đầu tiên Đêm tối ông gửi dự thi Giải thưởng Tự lực văn đoàn đã được nhà thơ Tú Mỡ khen. Năm 1937, đang học năm thứ nhất bậc tú tài ở trường Khải Định (Quốc Học) Huế, ông tham gia biểu tình đón sứ giả của Mặt trận Bình dân Pháp, sang điều tra tình hình Đông Dương, bị nhà đương cục Pháp cắt học bổng. Sau khi đậu tú tài, ông dạy học ở Huế, viết văn và có những truyện được đăng ở báo Sài Gòn, Hà Nội như Say nửa chừng, Đáy sông Hương, Cha mẹ, Làm lại cuộc đời...

Cách mạng tháng Tám 1945 thổi bừng ngọn lửa yêu nước âm ỉ trong lòng người trí thức trẻ Nguyễn Văn Bổng. Ông vừa làm việc ở Ty Thông tin tuyên truyền thành phố Đà Nẵng (cơ quan mang bí danh Thái Phiên) vừa đứng ra thành lập và làm Hiệu trưởng Trung học Thái Phiên; ông cũng trong Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc Đà Nẵng. Ông viết một số bút ký về cuộc đổi mới do cách mạng đem lại. Những bút ký trong tập Nhập vào đám đông của ông được trích đăng trên báo Quyết Thắng, cơ quan của Mặt trận Việt minh Trung bộ. Hè năm 1946, ông mang tập bút ký này ra in ở Hà Nội tại nhà xuất bản Tiền Phong, cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam.

Rời Hà Nội, ông tức tốc trở về Đà Nẵng tham gia kháng chiến, phụ trách Ban Tuyên truyền quân dân chính Quảng Nam Đà Nẵng, làm báo Quyết Thắng, làm Trưởng ty Thông tin tỉnh, ủy viên Ban chấp hành Văn hóa kháng chiến Liên khu V. Ông hào hứng sáng tác phục vụ cách mạng với các vở kịch: Quỷ loạn, Em Sinh, Đà Nẵng, Đêm đông xuân... Vở Em Sinh được công diễn trong Đại hội Văn nghệ Liên khu V năm 1948.

Cuối năm 1948, ông chuyển hẳn sang công tác văn nghệ, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Chi hội phó chi hội Văn nghệ Liên khu V, biên tập Tạp chí Miền Nam, cơ quan của Liên đoàn Văn hóa kháng chiến Liên khu V, tổng biên tập báo Văn Nghệ Liên khu V. Vừa làm lãnh đạo ông vừa hăm hở xuống cơ sở, tham gia chiến dịch Đông Xuân 1949-1950 ở mặt trận Quảng Nam – Đà Nẵng. Bàn chân ông in dấu các địa bàn gian khổ ác liệt nhất của Khu, từ vùng cát ven biển đến đèo núi Tây Nguyên. Ông thường xuyên đi về với đất mẹ Quảng Nam khoai sắn, say mê ghi chép, nghiên cứu tư liệu, sáng tác tập truyện Cái bắt tay của người tù binh (1949) gây tiếng vang rộng rãi trong Khu. Năm 1950, ông in chung với nhà văn Nguyễn Chí Trung tập bút ký Đà Nẵng. Với vốn tích lũy ông đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Con trâu (1952). Tiểu thuyết này đánh dấu một mốc quan trọng trong đời sáng tác của Nguyễn Văn Bổng. Tiểu thuyết đã được giải thưởng Phạm Văn Đồng ở Liên khu V và giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955) đưa tên tuổi của ông vang khắp cả nước. Sau này, tác phẩm này còn được trích giảng trong sách giáo khoa mà thế hệ của tôi đã được học.

Cuối năm 1953, Nguyễn Văn Bổng vượt Trường Sơn nghìn dặm ra Việt Bắc dự Hội nghị Tuyên huấn cải cách ruộng đất rồi ở lại tham gia cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên. Năm 1954, hòa bình lập lại trên miền Bắc, ông chuyển về làm báo Nhân Dân với chức vụ trưởng ban Nông nghiệp của báo. Ông vừa làm công tác lãnh đạo, lo tin bài cho các trang báo hàng ngày vừa đi thực tế viết bài về cải cách ruộng đất, về tổ đổi công, hợp tác xã – những mô hình mới của nông thôn miền Bắc. Từ đó, các tác phẩm Cắm thẻ Đồng Câu, Bếp đỏ lửa lần lượt ra mắt bạn đọc. Ông đau đáu nhớ quê hương miền Nam, và dồn tình cảm ấy trong truyện ngắn Người chị rất xúc động. Từ năm 1956, ông chuyển về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm phó tổng thư ký. Ông cũng tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957) và được bầu làm ủy viên Thường vụ khóa đầu tiên. Dù bận việc đến đâu ông cũng không rời cây bút. Ông xông xáo đi và hoàn thành tập bút ký Đón một mùa xuân mới ở miền Nam, vở kịch Dân cụ Hồ, truyện phim Đường về Nam.

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng thời kỳ ở chiến trường miền Nam. Từ trái sang:

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, nhà văn Nguyễn Văn Bổng và nhà văn Lý Văn Sâm.

Năm 1962, ông trở về miền Nam như nhiều chiến sĩ ở các ngành khác, để lại miền Bắc người vợ đảm đang cùng bốn đứa con nhỏ. Ngày ấy việc đi Nam còn bí mật, nhiều độc giả ngạc nhiên không thấy tên Nguyễn Văn Bổng xuất hiện trên báo chí miền Bắc. Lúc đó, ông đang đảm nhiệm trưởng ban Văn nghệ, ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam và phó tổng thư ký Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam với bút danh Trần Hiếu Minh. Anh em văn nghệ ở miền Nam thân mật gọi ông là Anh Tám Nhàn. Ông lại xông xáo đi khắp nơi, vừa có mặt ở Bến Tre, quê hương đồng khởi, lại thấy ông xuất hiện ở chót mũi Cà Mau, rừng U Minh, Đông Nam Bộ. Khi trở về, ông cặm cụi suốt ngày đêm, hối hả viết như sợ không kịp hoàn thành nhiệm vụ, như sợ lỡ hẹn với nhân dân và chiến sĩ những nơi mình đến. Từ những đêm thức đỏ mắt ấy, tập bút ký Cửu Long cuộn sóng (giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu 1965) và tiểu thuyết Rừng U Minh ra đời. Nhà văn Từ Sơn, cùng đơn vị với ông hồi ấy, kể rằng: “Ở căn cứ Lãng Bạc, anh Tám Nhàn hối hả viết Rừng U Minh. Anh viết với tốc độ nhanh kỳ lạ, viết tới đâu là đưa cho cô Trúc đánh máy ngay hàng ngày. Anh viết được nhiều đến mức cô Trúc đánh máy không kịp, dù cô đánh máy có năng suất hai mươi, hai mươi nhăm “táp” mỗi ngày. Bản thảo đánh máy xong, anh gửi ra Hà Nội. Các bản còn lại anh cho vào thùng đạn Mỹ đem cất giấu nhiều nơi đề phòng B52 đánh trúng chỗ này chỗ khác.” Tác phẩm Rừng U Minh viết về cuộc chiến đấu của quân dân ở miền đất tận cùng cực Nam của tổ quốc đã đánh dấu một bước phát triển mới của ông với tư cách là nhà tiểu thuyết.

Vừa chấm dấu chấm cuối cùng kết thúc tiểu thuyết Rừng U Minh, Nguyễn Văn Bổng được điều vào công tác bí mật ở nội thành Sài Gòn. Hoạt động ở Sài Gòn có khó hơn ở căn cứ, ở đây đi lại, ăn ở không công khai như ở núi rừng mà được các cơ sở hướng dẫn, bảo vệ. Người hoạt động ở thành phố phải cải trang.

Tại Sài Gòn, với nhiều bút danh, ông viết cho báo Tin Văn của giới trí thức. Ông xông xáo đi trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1968. Với những hiểu biết phong phú về những năm ấy, ông viết tập bút ký Sài Gòn ta đó và sau này viết tiểu thuyết Áo trắng.

Cuối năm 1968, có tin đồn thất thiệt ông đã hy sinh, nhiều bạn bè ở Hà Nội đã khóc ông. Nhà văn Đoàn Minh Tuấn kể: Lần ấy tôi và Đoàn Giỏi nghe tin anh hy sinh, mỗi lần uống rượu nhà ông Giỏi, tôi, Hoàng Trung Thông rót thêm một chén và thắp nén hương tưởng nhớ bạn cố tri. Bỗng một hôm Nguyễn Văn Bổng xuất hiện như trong truyện cổ tích. Ông vừa được điều ra Hà Nội, tham gia Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam và làm tổng biên tập báo Văn Nghệ, như ông vẫn ở nguyên đó, chưa hề xa Hà Nội ngày nào.

Cuối năm 1974, anh em văn nghệ giải phóng lại gặp ông trong chiến dịch Buôn Ma Thuột, như ông chưa hề rời khỏi miền Nam ngày nào. Nguyễn Văn Bổng vẫn xông xáo, hăm hở, ghi chép. Ông là nhà văn đầu tiên có mặt tại Sài Gòn đúng 12 giờ trưa ngày 30-4-1975 tại dinh Độc Lập. Nhiều người ở Đô Thành vẫn tưởng ông bám trụ tại đó suốt từ năm 1968.

Sau ngày giải phóng, ông làm tổng biên tập báo Văn Nghệ và mở những đợt đi sâu, đi dài ở nhiều vùng kháng chiến cũ ông đã từng qua hoặc chưa bao giờ được đặt chân đến để lấy tư liệu, viết các tập bút ký Đường đất nước, Ghi chép ở Tây Nguyên, tập truyện ngắn Chuyện bên cầu chữ Y và các tiểu thuyết Áo trắng, Sài Gòn 1967. Tiểu thuyết Áo trắng chẳng rõ thế nào được dịch ra tiếng Hàn Quốc với tên Áo trắng Sài Gòn. Sau khi ra đời nó bị cấm phát hành nhưng nhanh chóng được sao chụp thành hàng vạn bản phổ biến trong các trường đại học Hàn Quốc như là một cuốn cẩm nang hướng dẫn sinh viên phương pháp đấu tranh, cách tổ chức đấu tranh và cổ vũ họ bằng ngọn lửa của một tuổi trẻ tự nhận thức, dám đứng lên làm cách mạng dân chủ.

Tác phẩm cuối đời của ông, tiểu thuyết Cuộc đời được xuất bản năm 1989. Lúc này, ông đang bệnh nên không viết được, phải đọc cho vợ ghi. Tiểu thuyết Cuộc đời như cuộc tổng kết về đời ông, đi Bắc về Nam, trải qua bao vùng đất, bao hoàn cảnh, qua những biến động dữ dội của lịch sử dân tộc suốt ba mươi năm kháng chiến.

*

Nguyễn Văn Bổng rất nghiêm khắc khi làm việc, nhất là trong việc biên tập. Ông cẩn thận, không chấp nhận ai làm ẩu, kể cả với những bạn thân. Trong cuộc sống ông là người khiêm tốn, hòa nhã, giản dị, nhân hậu, luôn bao dung với người khác, luôn nhận trách nhiệm về mình. Ông rất vui mừng khi người khác có thành tích trong cuộc sống và sáng tác. Có một lần, chúng tôi mời ông về làm chủ khảo cho Trại sáng tác văn học ở Quảng Nam – Đà Nẵng. Ông không quản ngày đêm đọc, sửa chữa, góp ý từng tác phẩm của anh em trẻ.

Ông bực bội góp ý thẳng cánh khi gặp một truyện đáng lẽ sẽ tốt lại được viết với một văn phong cẩu thả, nhạt nhẽo. Ông nói chuyện kinh nghiệm sáng tác, đi thực tế, cách lấy tài liệu cho anh em trẻ. Vào khoảng năm 1991, ông nhận làm chủ biên tập Văn miền Trung thế kỷ XX của nhà xuất bản Đà Nẵng. Lúc này ông đã yếu, phải nằm trên võng làm việc luôn nhắc nhở anh em biên tập đừng bỏ sót tác giả nào, truyện hay nào. “Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn của xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị mà tiêu biểu là Con trâu, Rừng U Minh, Cuộc đời. Những tác phẩm bộn bề chất liệu hiện thực, đậm đà hơi thở nóng hổi của cuộc đời với một thế giới nhân vật đa dạng, những cảnh sống giàu màu sắc phong tục tập quán miền Nam, những trang viết biểu hiện rực rỡ vốn sống và tài năng của ông, một nhà văn gắn bó tha thiết với cuộc đời rộng lớn của cách mạng, dân tộc, tâm huyết với sự nghiệp của Đảng và đất nước.

“Nói đến Nguyễn Văn Bổng là nói đến một nhà văn chiến sĩ vào Nam ra Bắc, xông xáo nơi đầu sóng ngọn gió, sống trọn một cuộc đời đầy biến động và thử thách khắc nghiệt, đi cùng lịch sử đất nước, luôn có mặt ở nơi mũi nhọn, những điểm nóng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.”

Những lời trên được nhà thơ Hữu Thỉnh chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đọc trong lễ truy điệu nhà văn Nguyễn Văn Bổng vào ngày 13 tháng 7 năm 2001.

Nhưng tôi biết, tôi nghĩ, tôi tin như một nhà văn Nga, dịch giả Marian Tkachop, bạn của Nguyễn Văn Bổng, xúc động nói khi nghe tin ông mất: “Ông Bổng vẫn đấy.”

Thanh Quế

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng

• Ngày sinh: 1-1-1921

• Quê quán: Xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam

• Đời hoạt động: Trong kháng chiến chống Pháp là chi hội phó chi hội Văn nghệ Liên khu V. Tập kết ra Bắc, tiếp tục hoạt động văn nghệ, là Phó Tổng thư ký Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (khóa 1), Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 1, khóa 2, khóa 3), riêng khóa 2, khóa 3 là ủy viên Thường vụ. Từ 1963 vào chiến trường miền Nam, là Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam với bút danh Trần Hiếu Minh. Từ năm 1972 trở lại Hội Nhà văn Việt Nam, từng làm Tổng biên tập Tuần báo Văn Nghệ.

• Các tác phẩm chính: Say nửa chừng (truyện ngắn, 1944); Con trâu (tiểu thuyết, 1952); Cửu Long cuộn sóng (tập bút ký, 1965); Rừng U Minh (tiểu thuyết, 1970); Áo trắng (tiểu thuyết, 1972); Đường đất nước (tập bút ký, 1976); Ghi chép về Tây Nguyên (tập bút ký, 1978); Sài Gòn 1967 (tiểu thuyết, 1983); Chuyện bên cầu chữ Y (tập truyện, 1985); Tiểu thuyết cuộc đời (tiểu thuyết, 1989); Thời đã qua (tập bút ký, 1995).

• Giải thưởng văn học: Con trâu, tiểu thuyết giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955). Cửu Long cuộn sóng, tập bút ký, giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu của Hội đồng Văn học nghệ thuật Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II, năm 2000.