← Quay lại trang sách

Người lữ khách trên chuyến tàu đời

Quê mẹ

Ông Hà Kiến Huân là một Hoa kiều quê gốc ở Quảng Đông, Trung Quốc, từ nhỏ đã dạt sang Việt Nam, sống tại huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Vào một buổi chiều muộn, trên bờ sông Ghép thuộc làng Ngọc Giáp, Hà Kiến Huân qua sông bằng con đò của cô lái đò Đặng Thị Văn. Chuyến đò này đã bắt đầu mối tình của họ, rồi chẳng bao lâu sau, hai người nên duyên chồng vợ. Đến năm 1916 thì họ sinh được con trai, đặt tên là Hà Triệu Anh. “Hà Anh”, phát âm tiếng Quảng Đông (Trung Quốc) là “Hồ Dzếnh”. Thế rồi, hai mươi năm sau, thơ ca Việt Nam hiện đại xuất hiện một thi sĩ tài hoa có bút danh khá lạ lùng, là Hồ Dzếnh.

Thời thơ ấu, Hồ Dzếnh sống với cha, mẹ tại Quảng Xương, Thanh Hóa, vài năm sau được lên thị xã Thanh Hóa, học ở Trường Dòng. Năm 1931, mới mười lăm tuổi, Hồ Dzếnh ra Hà Nội, khi làm gia sư, lúc làm công cho các hiệu buôn người Hoa, để sống và để có thể theo học bậc Thành chung. Những năm làm thuê kiếm sống và theo học Thành chung ở Hà Nội, mỗi khi có được thời gian nghỉ là Hồ Dzếnh lại về quê ngoại. Một lần về quê, lúc chiều đã xuống, lại cũng bên bến đò Ghép vắng lặng thuộc làng Ngọc Giáp, Quảng Xương, Hồ Dzếnh gọi mãi mới có con đò của một cô gái ghé tới. Và chuyến qua sông hôm đó cũng bắt đầu một mối tình. Mối tình này đã khiến người trai này cầm bút làm thơ, vậy nên cuộc đời lại có thêm một thi sĩ: Trên đường về nhớ đầy.../ Chiều chậm đưa chân ngày/ Tiếng buồn vang trong mây.../ Có phải sầu vạn cổ/ Chất trong hồn chiều nay” (bài Màu cây trong khói, những lần in sau được đổi là Chiều)... Ngay từ những bài thơ đầu tiên đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật và Tiểu Thuyết Thứ Bảy, dường như Hồ Dzếnh đã muốn dâng trọn tâm hồn mình cho quê mẹ, nơi ông sinh ra và cũng là nơi ông có mối tình đầu. Bài thơ Cảm xúc rất nổi tiếng đương thời cho thấy, mối tình đầu của nhà thơ sâu xa hơn và lớn lao hơn tình ái của người trai với người gái, nó là tình yêu đối với quê hương, bản quán. Sinh ra, rồi sống trọn đời, thi sĩ này chỉ biết có quê mẹ, đó là Việt Nam: Cô gái Việt Nam ơi!/ Từ thuở khai sinh lận đận rồi/ Tôi biết tình cô u uất lắm/ Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi... Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực/ Cho lòng cô gái Việt Nam tươi. Trong hồi ức của mình, nhà văn Vũ Bằng đã viết: “Mỗi khi thấy Hồ Dzếnh ngồi buồn ngâm bài thơ ấy thì tôi lại yên trí rằng cô gái Việt Nam đó chính là vợ anh; mà có biết vợ anh thì ta mới thấy thương và quý tình yêu thủy chung của Hồ Dzếnh đến ngần nào...”

Mối tình đầu

Người Hồ Dzếnh yêu là Nguyễn Thị Huyền Nhân, một thiếu nữ tham gia hoạt động yêu nước từ năm 1942. Tình yêu đó đã khiến thi sĩ sống lặng lẽ như khép mình giữa làng văn chương đầy sôi động ở Hà thành và lẳng lặng viết những bài thơ lãng mạn, ngôn ngữ thơ mới lạ, đặc biệt là rất nặng tình:

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé

Tôi sẽ trách, cố nhiên, nhưng rất nhẹ

Nếu trót đi em hãy gắng quay về

Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề

Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở

Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ

Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa...

(Ngập ngừng)

Trong sáu năm sống xa người yêu, Hồ Dzếnh cho ra đời năm tác phẩm: Chân trời cũ (tập truyện, 1942), Một chuyện tình mười lăm năm trước (tiểu thuyết, 1942), Quê ngoại (tập thơ, 1943), Cô gái Bình Xuyên (tiểu thuyết, 1946), Hoa xuân đất Việt (tập thơ, 1946). Trong các tác phẩm đó, Chân trời cũ, nhà văn Thạch Lam viết lời tựa, và tập thơ Quê ngoại với lời đề từ trang trọng Kính dâng mẹ ở đầu sách, đã tạo nên tiếng vang lớn trong đời sống văn chương đương thời. Đặc biệt, trong Quê ngoại, nhiều bài thơ, nhiều câu thơ trầm buồn, nhưng có sức lay động lòng người rất sâu xa: Tôi là người lữ khách/ Màu chiều khó làm khuây.../ Nhớ nhà châm điếu thuốc/ Khói huyền bay lên cây (bài Chiều). Có lẽ, trong sâu thẳm tâm hồn thi sĩ này vẫn phảng phất nỗi vọng nhớ về cố quốc, một chút buồn Chiêu Quân, một chút động lòng với dáng liễu Động Đình, với trăng thu Dương Tử, mây chiều Giang Nam... Nhưng, Quê ngoại là tập thơ chan chứa tình cảm của một người con đối với mẹ, đối với Việt Nam. Đặc điểm nổi bật nữa là, thơ lục bát của Hồ Dzếnh rất giàu mỹ cảm, những hình ảnh làng quê Việt vào thơ ông thật bình dị mà đẹp lấp lánh: Trời không nắng cũng không mưa/ Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.../ Dưới chân mỗi lối thu vàng/ Tình xa lắm lắm tôi càng muốn yêu! (bài Màu thu năm ngoái); và những câu trong bài Lũy tre xanh: Tôi yêu, nhưng chính là say/ Tình quê Nam Việt, bàn tay dịu dàng/ Thơ tôi: đê thắm, bướm vàng/ Con sông be bé, cái làng xa xa...

Sau khi cho xuất bản tiểu thuyết Cô gái Bình Xuyên, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, năm 1948 Hồ Dzếnh về Thanh Hóa và lập gia đình. Thời gian này, sức khỏe của bà Nguyễn Thị Huyền Nhân kém đi nhiều. Hai vợ chồng Hồ Dzếnh tản cư về làng Neo thuộc phủ Thọ (nay thuộc huyện Thọ Xuân), Thanh Hóa, sống trong một căn nhà nho nhỏ bên bờ sông Nông Giang. Năm 1950, nỗi bất hạnh lớn ập tới, do bệnh tật, bà Huyền Nhân qua đời, để lại cho Hồ Dzếnh đứa con trai mới bốn tháng tuổi. Sau này, nhà văn Vũ Bằng có viết về hoàn cảnh “gà trống nuôi con” của Hồ Dzếnh thực là tủi nhục mà cũng thực là cao đẹp và can đảm. Nhiều anh em văn nghệ kháng chiến chống Pháp hồi ấy ở Khu IV nhớ mãi hình ảnh thi sĩ Hồ Dzếnh “mặc chiếc áo bành tô màu cứt ngựa, chân đi dép, địu đứa con nhỏ trên lưng, lúc thì vơ vẩn đầu sông, lúc thì chui vào bụi để tránh máy bay bắn phá... Đúng theo lối của những người đàn bà Tàu muôn thuở, Hồ Dzếnh lấy một tấm vải bố quấn lưng lại, rồi làm hai cái dải buộc chéo hai vai, cho đứa con vào trong cái túi trên lưng, đi khắp nẻo đường Khu IV”. Như vậy, Hồ Dzếnh đã địu con đi xin bú nhờ (bú chực) trên các nẻo đường Khu IV. Cũng theo nhà văn Vũ Bằng, “không có người đàn ông thứ hai nào nuôi con khổ cực như Hồ Dzếnh, một mặt lo chạy loạn, một mặt lo ăn, một mặt nữa là phải kiếm cho con chút sữa để sống qua ngày...”.

“Tôi đem số phận gửi trong má đào”

Đó là câu thơ của Hồ Dzếnh, trong bài Chuyến tàu đời, viết năm 1938, khi đang làm thuê kiếm sống ở Hà thành và ngày đêm thương nhớ bà Huyền Nhân. Khi viết bài Chuyến tàu đời, Hồ Dzếnh mới 22 tuổi. Ông mở đầu bài thơ: Nhiều lần tôi nghĩ bao la/ Đời là quán khách, tôi là giấc mơ/ Trao duyên rất đỗi tình cờ/ Không mong ước hẹn, không ngờ gặp nhau. Có thể do mặc cảm về thân phận ly hương, lại sớm đắm say với mối tình đầu đến mức “không mong ước hẹn”, nên từ nỗi tủi khổ, Hồ Dzếnh có được sức suy nghĩ rất sâu về cõi đời rằng, bắt đầu một số phận, người ta lên chuyến tàu đời, rồi sẽ kết thúc bằng việc xuống ga... Thơ lục bát của Hồ Dzếnh thật nhuần nhuyễn, lại rất dồi dào sự sống, và sự sống trong Chuyến tàu đời chứa đựng quy luật nhân sinh thật sâu sắc:

Đường đời bóng núi sông qua

Nay đang nắng mới, mai là cảnh xưa

Có tôi tàu đã đông thừa

Không tôi, chợ chẳng hề thưa vãn người,

Mất còn có nghĩa gì tôi

Tôi là chút ít của đời chút không

Bài thơ về một phận người, như một hơi thở dài, một hơi thở dài thật buồn, thật sâu, và sau hơi thở dài lại thấy lòng nhẹ nhõm hẳn đi:

Dặm trần bụi cuốn mây dong

Tôi đem số phận gửi trong má đào

Từng phen gió lạnh bay vào

Bâng khuâng: ta xuống ga nào hở em?

Người vợ thứ hai

Năm 1953, Hồ Dzếnh được chính quyền kháng chiến tỉnh Thanh Hóa cấp giấy phép cho về Hà Nội chữa bệnh cho con và tìm kiếm người thân thất lạc đã lâu. Để sống và nuôi con, ông đã làm phóng viên cho báo Thần Chung xuất bản tại Sài Gòn những năm 1953- 1954. Về sống ở Hà Nội, Hồ Dzếnh không tìm được người thân thất lạc nào, nhưng đã gặp lại bà Nguyễn Thị Hồng Nhật, vợ nhà thơ Trần Trung Phương, vốn là bạn thân của ông. Những năm Hồ Dzếnh gặp gian nan, lận đận ở Thanh Hóa thì ở Hà Nội bà Hồng Nhật và ông Trần Trung Phương cũng gặp không ít khổ nạn. Hai người cưới nhau, mới có được con trai năm tháng tuổi thì Trần Trung Phương bị bệnh lao, bà Nhật vừa nuôi con, vừa chạy vạy thuốc thang chăm chồng chữa bệnh. Đương thời, bệnh lao là một trong tứ chứng nan y. Chưa đầy một năm sau, Trần Trung Phương qua đời. Trước khi mất ông có để lại một số bài thơ đã in báo và những di cảo, với ý, nếu bà Nhật gặp lại được Hồ Dzếnh thì nhờ người bạn ấy tìm cách xuất bản cho. Và rồi, bà Hồng Nhật đã tìm gặp lại Hồ Dzếnh, đưa tập bản thảo của Trần Trung Phương, nhờ ông giúp thực hiện ý nguyện của người chồng quá cố.

Tập thơ Những vần thơ sáng của Trần Trung Phương đã được xuất bản. Và sau đó, bà Hồng Nhật và Hồ Dzếnh, với hoàn cảnh tương tự như nhau, lại có sự đồng điệu trong tình cảm, nên đã quyết định đến với nhau. Năm 1954, hai người tổ chức lễ cưới, đạm bạc, nhưng đậm tình nghĩa. Trong đám cưới, có một nhà văn rất hiểu đời sống tình cảm của Hồ Dzếnh và Hồng Nhật, đã ra một vế đối thật độc đáo, mời mọi người đối lại: “Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ.” Một bạn thơ khác biết rõ cuộc đời Hồ Dzếnh, cảm động đối lại: “Con nuôi nước Việt nhờ nước Việt nuôi con...” Có thể nói, từ khi có mái ấm gia đình lần thứ hai, thi sĩ Hồ Dzếnh bắt đầu được sống những ngày thật hạnh phúc. Năm 1955, Hồ Dzếnh cho xuất bản vở kịch Đi hay ở, thể hiện rất rõ quan điểm cuộc sống của ông khi đất nước ta bước vào giai đoạn tạm thời bị chia cắt. Năm 1957, ông tham dự đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam; sau đó ông được bầu vào Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật Việt Nam (nay là Ủy ban toàn quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam). Hai người con riêng của ông và bà Hồng Nhật, là Chính và Cường luôn thương yêu nhau như anh em ruột thịt...

Chàng lữ khách xuống ga vào một ngày thu

Sức khỏe Hồ Dzếnh không tốt lắm, năm 1988 ông còn cố để sửa chữa hoàn tất và cho in Hồ Dzếnh, tác phẩm chọn lọc. Khi tác phẩm này đến với bạn đọc, công chúng văn học đã phải sửng sốt bởi những bài thơ và trang văn chan chứa hồn quê nước Việt; đặc biệt, văn và thơ ấy có sức sống rất mãnh liệt, bền mãi với thời gian! Những năm sau đó, ông ốm yếu luôn. Khi biết không sống thêm được nữa, Hồ Dzếnh đòi về nhà. Nửa đêm, hai con trai thuê xe của bệnh viện đưa ông về 80 phố Hòa Mã. Bà Hồng Nhật vẫn thức chờ. Ông đã hôn mê. Bà quỳ bên giường, ruột đau như cắt, nhưng không khóc được. Có lẽ do vậy mà ông lại cựa mình, mở mắt, gọi nhỏ: “Mình ơi!” Rồi ông tắt thở luôn. Đó là ngày 13-8-1991 (mồng bốn tháng Bảy năm Tân Mùi). Hà Nội đang vào thu, nắng thật trong, gió thì mơn man, như nắng và gió trong thơ Hồ Dzếnh: Mênh mông xanh thắm phai tờ/ Chân đi vương vấn lời thơ ngậm ngùi...

Sau ít ngày, khi dọn lại nơi Hồ Dzếnh thường ngồi đọc sách, ghi chép, bà Hồng Nhật thấy trong cuốn sổ tay của ông có một bài thơ viết tặng bà:

Mình vừa là chị là em

Tấm lòng người mẹ trái tim bạn đời

Mai này tới phút chia phôi

Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?

Xót mình đã lắm thương đau

Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình

Cuộc đời đâu phải phù sinh

Nước non chan chứa nghĩa tình, mình ơi!

Thơ như thế, không chỉ riêng bà Hồng Nhật, mà bạn đọc văn chương nói chung đều thấy, cuộc sống được đưa vào văn chương thật bình dị và chân chất, mà hay đến mức khiến người ta ứa nước mắt!

Anh Chi

Nhà thơ Hồ Dzếnh

Tên khai sinh: Hà Triệu Anh

• Sinh năm 1916

• Quê quán: xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Mất ngày 13 tháng 8 năm 1991

• Tác phẩm đã xuất bản: Chân trời cũ (truyện ngắn, 1942); Một truyện tình mười lăm năm về trước (tiểu thuyết, 1942); Quê ngoại (thơ, 1943); Cô gái Bình Xuyên (tiểu thuyết, 1946); Hoa xuân đất Việt (thơ, 1946); Người nữ cứu thương Trung Hoa (kịch một màn, công diễn 1947); Đi hay ở (kịch một màn, công diễn 1955); Hồ Dzếnh tác phẩm chọn lọc (tuyển chọn, 1988).

• Giải thưởng: giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.