Ngoảc đếnh cùng nhà thơ Nông Viết Toại
Ngoảc đếnh, tiếng Tày nghĩa là NGOÁI NHÌN là tên tập thơ tiếng Tày (không dịch ra tiếng Việt) của nhà thơ Nông Viết Toại, xuất bản năm 2006, nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh (ông sinh ngày 15- 5-1926). Tập thơ mỏng nhưng “dày” về chữ nghĩa, “dày” chất thơ! Tôi và nhà nghiên cứu Văn hóa – văn nghệ Vương Hùng viết lời giới thiệu bằng tiếng Tày in ở đầu sách. Cuối năm 2012 tôi trở lại Bản Áng, tỉnh Bắc Kạn thăm ông. Bảy năm sau ngày Ngoảc đếnh ra đời nhìn lại tám mươi năm cuộc đời và thơ, giờ ông vẫn như xưa: Vui vẻ, hóm hỉnh, chân tình, yêu quý con người!
Nhà thơ Dương Khau Luông, chủ tịch Hội Văn học – Nghệ thuật Bắc Kạn nói với tôi rằng, khi đưa bản thảo tập thơ tuyển (tiếng Tày) cho Hội, nhà thơ tự đặt hai tên sách là Ngoảc đếnh và Nặm Lìn (Nước Dây) để Hội chọn lấy một! Điều này cho thấy ông rất tôn trọng bạn bè văn nghệ, nhưng cũng cho thấy một chút vẻ tự ti (hay khiêm tốn!). Ấy là bản tính cố hữu trong ông như ông tự nhận “Người ta thường nói người có tài cũng thường có tật. Với tôi, tài chẳng có mà tật thì lắm. Có lẽ không bỏ qua lần nào, khi gặp nhau trò chuyện mà anh (nhà thơ Nông Quốc Chấn) không nhắc đến cái tật khá cơ bản của tôi là thường mang nặng tư tưởng nhu nhược, tự ti, thiếu tự tin. Từ công tác đến làm thơ văn”. (Tuyển tập Nông Viết Toại, nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, 2005, trang 326).
Nhà thơ Nông Viết Toại là em trai ruột nhà thơ hào hoa, tài cao và thành đạt Nông Quốc Chấn. Có lẽ cảm thấy mình bị “cớm bóng” bởi người anh nổi tiếng nên ông lại càng tỏ ra tự ti. Đây lại thêm một “bằng chứng”: “Năm 1971 hai anh em (Nông Quốc Chấn và Nông Viết Toại) được gặp nhau, cũng đến dự cuộc họp của Sở Văn hóa khu Việt Bắc tổ chức ở huyện Trùng Khánh (Cao Bằng). Anh em tôi buổi trưa đi dạo phố chợ Cô Sầu trở về. Đồng chí trưởng ty văn hóa đang đi tới phía trước. ‘Gần tuổi năm mươi mà ông anh vẫn dáng thư sinh lắm. Còn ông em, thì...’. Tôi cướp lời ông trưởng ty điền luôn... ‘Thì cũng trắng trẻo như củ tam thất mười phần mười chứ gì...’ Cả ba chúng tôi cười.” (Tuyển tập Nông Viết Toại – trang 328)
Ông không hề bị “cớm bóng” bởi anh trai mình, ít nhất là trong mảng thơ Tày. Nhà nghiên cứu Vương Hùng nhận xét thật tinh: “Thơ Nông Viết Toại chọn được những ý hay, lời hay, nhất là từ lấp láy, đặt đắc địa trong câu thơ, bài thơ như những hạt đá quý đính đúng chỗ trên tấm lụa đẹp! Đó mới thực là thơ Nông Viết Toại: Không giống ai, không lẫn lộn với những thứ thơ khác, đó chính là những từ Tày gốc, khác xa những thứ Tày pha, Tày giả vờ, Tày Lưu quan...” (lời giới thiệu Ngoảc đếnh).
Thơ Nông Viết Toại “không giống ai” còn ở giọng thơ đậm chất uy-mua (hài hước, hóm hỉnh, humour) như trong các bài: Tốc Khóa – Mất quần; Tả lảo bâư – Bỏ thuốc lá v.v. Giọng thơ ảnh hưởng từ Slấy Hậu (nhà thơ Tày nổi tiếng Hoàng Đức Hậu), thầy dạy chữ, dạy thơ cho mấy anh em ông. Nói như vậy không có nghĩa học với thầy Hậu thì thơ giống thơ thầy Hậu. Điều cốt yếu là tố chất thơ nơi ông, chất uy mua có lẽ bắt đầu từ tên khai sinh bố mẹ đặt cho ông: Nông Đình Hân! – chữ Hân bắt nguồn từ tiếng Tày: Hôn Hỉ (vui vẻ), chứ không có nghĩa Hân là con cáo!... Vùng Cốc Đán – huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn (trước đây thuộc tỉnh Cao Bằng) là một vùng đất Văn, bằng chứng rõ nhất là ở mẩu đất chật hẹp đó (mà Nông Viết Toại bảo là: khặp khẹp) có đến ba nhà thơ, nhà văn nổi tiếng: Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu. (Nhà văn Nông Minh Châu là anh em con dì, con già với nhà thơ Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại)...
Cũng nên “ngoảc đếnh”, nhìn lại những chặng đường Đời và Thơ của nhà thơ Nông Viết Toại: Năm 1947 bắt đầu có thơ. Năm 1952 ông được cử phụ trách đoàn Văn công Liên khu Việt Bắc, ông viết kịch, viết truyện ngắn, đặt lời cho các điệu dân ca dân tộc (như bài Then Rặp xuân, đến nay vẫn được nhiều nghệ sĩ biểu diễn, thu băng). Mười lăm năm làm trưởng đoàn Nghệ thuật ca múa nhạc Việt Bắc, nhiều năm làm việc tại Sở Văn hóa khu tự trị Việt Bắc và Hội Văn nghệ Việt Bắc rồi giữ chức vụ giám đốc bảo tàng Văn hóa các dân tộc... Đóng góp của Nông Viết Toại cho đời sống văn hóa các dân tộc là không nhỏ và những tác phẩm thơ, văn, tiểu luận, sưu tầm, biên khảo của ông đã góp phần làm giàu thêm vốn văn hóa, văn nghệ miền núi, dân tộc.
Thành tựu thơ đến với ông rất sớm. Ngay từ năm 1957 ông đã in ba cuốn sách: Sloại slóc vứt pây, Hai em bé mồ côi, Nam Kim – Thị Đan. Với “số vốn” ban đầu đó, năm 1958, ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, chỉ sau đợt đầu (năm 1957) gồm những thành viên sáng lập! Ông kể chuyện vui: “Mình vào Hội năm 1958 cùng các nhà thơ Hoàng Hạc, Cầm Biêu... Vậy mà năm 1985, ông Chính Hữu, nhắc mình viết đơn xin vào Hội!” Tôi chỉ tủm tỉm cười vì chuyện vào hội cũng lắm điều vui, kể như, điều lệ Hội Nhà văn Việt Nam ghi rõ: Ai muốn vào hội, cần có ít nhất hai cuốn sách được xuất bản – đó là Luật! Vậy mà có người “mưu cao” chỉ có một đầu sách mà vẫn “lách” được vào Hội. Tài đến thế là cùng!
Nông Viết Toại là người không ngần ngại nói thật! Mới nhất là trong bản tham luận ông viết cho hội thảo Then Tày, (viết xong ngày 1-12-2012) ông phê phán sự phóng đại quá mức Then Tày: “Năm 1973 Sở Văn hóa khu Việt Bắc có tổ chức đợt sưu tầm giới thiệu Then tương đối quy mô, kế hoạch. Đợt sưu tầm chủ yếu cũng là ở huyện Hòa An – Cao Bằng. Đợt này do đồng chí Nông Văn Hoản – Phó Giám đốc Sở Văn hóa khu trực tiếp điều hành kế hoạch, kết quả cũng chỉ sao chép phần lời. Nhóm sưu tầm phần nhiều thuận tay với phần văn học. Nhà văn Nông Minh Châu có giới thiệu trên tờ tạp chí Văn Nghệ Việt Bắc chương Khảm Hải (Vượt biển). Sau đó các ông Hoàng Quý, Vi Quốc Bảo dựa trên đó có phần phóng đại như một tác phẩm văn học Tày cổ là quá mức. Thực ra Khảm Hải chỉ là một chương, đoạn của một đêm Then, thậm chí có bạn do thiếu tìm hiểu kỹ đã có ý muốn xếp Khảm Hải ngang Sống Chụ son sao (Tiễn dặn người yêu) của đồng bào Thái!”
Thật là một “phát hiện” và “cải chính” bất ngờ!
Nhà thơ Nông Viết Toại đam mê sưu tầm, nghiên cứu vốn cổ dân tộc và ông đã có nhiều thành công ở lĩnh vực này. Truyện thơ Nam Kim – Thị Đan do ông sưu tầm và biên dịch được in năm 1957 vẫn là một công trình đến nay chưa hề cũ! Ở nhà ông còn lưu giữ nhiều văn bản Nôm Tày in trên giấy bản xám, mốc. Năm 2006, ông tặng tôi bản dịch TRUYỆN KIỀU của dịch giả Thân Văn Lư dịch ra tiếng Tày. Tôi đem về cho bà Thân Thị Kim Liên (con gái cụ Thân Văn Lư) in ra sách vào năm 2008. Đợt này nhà thơ Nông Viết Toại lại cho tôi “mượn vĩnh viễn” nhiều bản Nôm Tày để tôi nghiên cứu, biên dịch. Tôi chỉ biết cám ơn ông về cái tình mà ông dành cho tôi.
Ông là một người chịu nhiều mất mát. Vợ ông bị bệnh tim, ốm đau liên miên và đã mất cách đây hai mươi chín năm. Hai mươi chín năm lẻ bóng, ông gồng mình sống vui, sống khỏe, tiếp tục cống hiến, gây dựng và làm chỗ dựa cho con cháu. Nghỉ hưu ông về Bắc Kạn làm căn nhà nhỏ trong lũng ở. Nhà nước cấp cho ông một mảnh đất tại thị xã, ông có năm mươi triệu đồng từ chính sách đãi ngộ lão thành cách mạng, vay mượn thêm xây được căn nhà... chẳng may con cháu vướng vào chuyện tiền nong ông đành bán rẻ căn nhà để trả nợ. Tuổi già, ông sống với người con trai thứ hai ở Bản Áng, nào ngờ con trai ông năm 2006 tai biến mạch máu gần như nằm liệt, thân già lại phải ra tay “chăm sóc”. “Cuộc đời nhiều khi quay ngược, mình buộc phải quay theo. Biết làm sao!” Ông nhìn nhận vẻ cay đắng, nhưng không sầu, không bi.
Đời ông chẳng như tên ông nên khi viết văn ông đổi tên từ Nông Đình Hân ra Nông Viết Toại mong được một chút toại nguyện. Nhà nghiên cứu Vương Hùng luận về chữ Viết Toại như thế này: “Viết là nói, Toại là bình tâm, vừa lòng. Đúng như thế, thơ Nông Viết Toại viết ra hợp với tâm, vừa với lòng của người Tày – Nùng ở bốn phương. Bạn đọc mong được đọc những bài thơ hay của ông. Nhà thơ càng có tuổi thơ càng hay. Không sợ đường xa, sông rộng. Tâm tình ông tỉnh táo, vui vẻ nên ông viết thêm được nhiều bài thơ mới, thơ hay.”
Bản Áng (Vũng sâu), buổi trưa nắng vàng. Nhà thơ Nông Viết Toại tiễn tôi ra tận đầu con đường hẹp, khuất nẻo. Ông nắm tay tôi, giọng xa xăm: “Uyên ạ, Tắc lẻ tâu... nhưng Pâu cả váo cẩn trọng! Cẩn trọng!” – Ông giảng giải thêm “Gãy đứt thì nối lại nhưng chắc mối nối sẽ xù xì, không chắc, không đẹp như cũ. Hãy suy tính cho thật thấu đáo.” Tôi sững người! Đây là lời khuyên của bậc cha chú với con cháu, của người anh đối với người em, hay của người bạn với người bạn... Có lẽ là tất cả! Đó chính là kinh nghiệm, lời tâm sự ông chắt ra từ cuộc đời nhiều mất mát, khổ đau của ông dành cho tôi.
Tôi “ngoảc đếnh” nhìn dáng đi của nhà thơ già nhẹ nhàng, thanh thoát. Nghe giọng cười vang của ông mà chợt nhớ tới ấp Cầu Đen (Yên Thế) của nhà văn Nguyên Hồng. Bản Áng – Bắc Kạn sẽ giữ mãi Hình ông và Tình ông – Nhà thơ Nông Viết Toại.
Hoàng Quảng Uyên
Nhà thơ Nông Viết Toại
• Tên khai sinh: Nông Đình Hân
• Sinh ngày 15-5-1926
• Quê quán: Xã Châu Khê (nay là Tốc Đán), Ngân Sơn, Cao Bằng
• Dân tộc: Tày
• Tháng 4-1942: vào Hội Việt Minh ở xã Tốc Đán. 1945: phụ trách một xã, sau đó tham gia đội tuyên truyền kháng Nhật ở huyện. 1946: trưởng phòng Thông tin huyện, kiêm cán bộ huyện ủy (Huyện bộ Việt Minh, do Đảng chưa ra công khai). 1947-1951: Phó Bí thư, Bí thư huyện ủy Ngân Sơn và Na Rì. 1952-1966: đội trưởng Văn công Bắc Kạn, trưởng đoàn Văn công nhân dân Khu Việt Bắc. 1966-1976: Sở văn hóa Khu, Hội Văn nghệ Việt Bắc. 1977-1988: Trưởng phòng Giáo vụ Trường Văn hóa nghệ thuật Việt Bắc, Giám đốc Bảo tàng văn hóa các dân tộc (thành phố Thái Nguyên).
• Tác phẩm chính: Slại sloá vít pây cằm đây củng cỏ (Xấu xa bỏ đi, điều lành trò chuyện, thơ Tày); Kin ngày phuối khát (Ăn ngay nói thẳng), thơ châm biếm Tày, 1956); Đét chang nâư (Nắng ban trưa, thơ tiếng Tày, 1976); Đoạn đường ngoặt (truyện ngắn, dịch từ tiếng Tày, tập Boỏng tàng tập éo, 1982).