← Quay lại trang sách

Tôi tự hào vì những năm tháng ấy...

Đây là bài trả lời phỏng vấn cuối cùng của nhà văn Trần Hoài Dương về thời gian ông làm việc tại báo Văn Nghệ. Trong buổi làm việc đó, ông đã tâm sự rất chân tình “Mười hai năm ở báo Văn Nghệ là tươi đẹp nhất của tôi”... Tiếc thay bài báo chưa kịp hoàn thành thì ông đã đột ngột ra đi...

Tôi về báo Văn Nghệ từ cuối năm 1969 đến cuối năm 1981, giai đoạn mười hai năm là khoảng thời gian rất đẹp. Báo Văn Nghệ thời kỳ đó rất sang trọng và rất mạnh. Bây giờ rất nhiều báo và rất nhiều nơi để đăng, chứ thời kỳ ấy để được đăng trên báo Văn Nghệ rất khó. Khó hơn in bốn, năm quyển sách. Vì cả nước chỉ có một tờ báo Văn Nghệ và vị thế của tờ báo rất cao, những người xuất hiện trên tờ báo thời ấy cũng rất khó khăn, rất hiếm. Lực lượng văn nghệ thập niên 70 rất mạnh, ban biên tập rất hùng hậu: Hoài Thanh, Nguyễn Văn Bổng, Đào Vũ, Kim Lân; thơ có Phạm Hổ, Vĩnh Mai, Trinh Đường, Xuân Quỳnh; văn xuôi có Võ Huy Tâm, Trần Hoài Dương, Xuân Trình (sau là Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ sân khấu), Ngô Ngọc Bội, Hồng Phi, Nguyễn Phan Hách, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Trần Ninh Hồ, Ngô Văn Phú...

Theo tôi, họ là những nhà văn mà làm biên tập thì rất lợi thế vì thẩm mỹ rất tinh. Họ đọc và chỉnh sửa hay trao đổi với tác giả, họ có kinh nghiệm và giúp chất lượng bản thảo được nâng cao rất nhiều. Cho nên rất nhiều cây bút viết ở nơi khác chưa xuất hiện trên báo Văn Nghệ coi như chưa thành danh. Có được một, hai truyện ngắn hay hai ba bài thơ trên Văn Nghệ coi như một “chứng chỉ” đủ để đi vào văn chương, được bạn đọc chú ý, coi như thành danh.

Trước cả thập kỷ 70, có những gương mặt lần đầu tiên xuất hiện trên báo Văn Nghệ. Chúng tôi là những người đầu tiên chứng kiến các bản thảo. Có những người gửi vài ba chục tác phẩm, cuối cùng mới được dùng. Và khi được dùng rồi, họ có đà viết. Về sau họ trở thành lực lượng rất quan trọng như Nhật Tuấn, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khắc Phục, Lê Minh Khuê, Chu Lai, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Phúc Lai, Vũ Hữu Ái, Đặng Ái, Trần Đức Tiến, Anh Động, Nguyễn Thanh và ngay cả Lê Văn Thảo...

Thời đó có các bài ở miền Nam gửi ra, nhận được là mừng lắm, mừng hơn cả những gì mình viết được, rất quý và trân trọng. Trong đó, truyện đầu tiên xuất hiện của Lê Văn Thảo là Đêm Tháp Mười. Tôi và nhà văn Võ Huy Tâm nghe anh chị miền Nam gởi ra chỗ anh Bảo Định Giang liền sang xin nhưng cũng thật nhiêu khê vì họ giữ gìn bản thảo kỹ càng, sợ thất lạc. Muốn xin được phải chờ ghi sổ, đánh máy... rồi mới gởi các báo. Chờ được trong tay có bản thảo thì rất lâu. Trường hợp Đêm Tháp Mười mượn về đánh máy (lịch đánh máy theo từng tổ cũng khó khăn) nhưng họ không cho mượn. Tôi và anh Võ Huy Tâm mượn ngay tại chỗ và ngồi chép tay mất ba buổi. Đọc thì thấy không khí rất Nam bộ nhưng còn rườm rà, dài. Sau đó về biên tập kỹ, cắt xén lấy một phần, sau trở thành truyện ngắn hay.

Tất cả ở giai đoạn ấy hầu hết những người mới xuất hiện, hiện nay họ đóng vai trò là những cây bút chủ lực của Hội Nhà văn. Chúng tôi có cái may mắn là chứng kiến được những bước đầu tiên vào văn chương của họ.

Báo Văn Nghệ thời ấy rất vui. Một là lực lượng rất mạnh và thứ hai đều rất trong sáng, hết lòng vì công việc.

Riêng trong tổ văn xuôi cả chục người đều là những cây bút sừng sỏ, gai góc, đầy cá tính. Tất cả anh em hơn chục năm ở với nhau, nói chung có lúc này lúc kia đụng chạm nhưng vì công việc, biết tôn trọng lẫn nhau, rất đoàn kết.

Lúc tôi phụ trách tổ văn xuôi, tôi có đề xuất với bác Hoài Thanh và ban biên tập là thay phiên nhau một nửa đi viết, nửa ở nhà biên tập. Qua đó thỏa mãn nguyện vọng riêng của từng người, có điều kiện để anh em viết. Bên cạnh đó giúp cho tờ báo luôn luôn có những bút ký, phóng sự, ghi chép, truyện ngắn... phản ánh được đúng không khí cuộc sống.

Công tác cộng tác viên rất quan trọng

Tôi nhận thấy, các báo bây giờ viết lẫn lộn, dùng tên này tên nọ để ký tên và dùng tờ báo của mình để tiêu thụ tác phẩm mà không mở rộng quan hệ cộng tác viên chỉ quanh quẩn người trong nhà.

Thời chúng tôi, vừa là người trong nhà vừa là những nhà văn tên tuổi xuất hiện được trên báo nhưng đồng thời vừa sử dụng được của cộng tác viên. Và đặc biệt coi trọng cộng tác viên cả lão làng và người mới viết, thường xuyên viết thư mời chào, đôn đốc, thúc giục họ viết. Chúng tôi rất có ý thức về việc xây dựng cộng tác viên, nhất là lớp trẻ. Không chỉ ở báo Văn Nghệ có bài mà còn giúp cho họ thành danh.

Vì người mới viết văn cả hàng chục tác phẩm mà không dùng thì họ sẽ nản nhưng nếu mình biết khơi gợi họ, dùng họ một vài cái, họ có đà và thành nhà văn. Rất nhiều người chết oan vì sự không tận tâm của người biên tập.

Về cộng tác viên lão làng, chúng tôi thường xuyên liên hệ với những cây bút chủ lực và để chuẩn bị bài hay cho số báo Tết, số báo quan trọng, đặc biệt..., chúng tôi phải “mai phục” chí ít nửa năm để đặt bài. Báo chỉ có một ô tô, chúng tôi phải đi liên hệ với các cơ sở, các bộ, các nông trường, các nhà máy ở các tỉnh... xin họ chuyến ô tô và hứa sẽ viết cho họ. Khi được, mời từ nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, nhà thơ Quang Dũng... tổ chức, tạo điều kiện để họ đi Tây Bắc, khu gang thép Thái Nguyên, nông trường Mộc Châu...

Về cộng tác viên mới xuất hiện, viết được hai truyện ngắn, chúng tôi đã để ý và có sổ lưu danh sách, theo dõi họ. Nói thật, ban văn xuôi theo dõi sát, nắm tình hình rõ hơn cả Hội Nhà văn, vì họ gửi tác phẩm cho báo chứ đâu gửi Hội.

Riêng tôi, đọc mấy chục bản thảo của một số người vừa mới viết (trước đó đã bị vứt bỏ), tôi moi những truyện bị phê “truyện nhạt”, đọc lại và “vớt” được rất nhiều, trong đó có những truyện sau đoạt giải Nhì, Ba, Khuyến khích...

Hễ nhận được một bản thảo nào hay, cả tổ đọc rồi khen và cảm thấy vui. Vui hơn là mình viết. Ai có gì hay mình dùng ngay, viết thư chèo kéo, động viên, đặt bài.

Theo tôi, công tác cộng tác viên vô cùng quan trọng, nó làm cho tờ báo sống được hay không. Bây giờ một số nhà biên tập, nhà văn, nhà báo ở các tòa soạn hình như họ thấy gửi các nơi khác khó dùng “người khôn của khó”, họ tự biên tự diễn ở báo nhà. Họ không chịu mất công mời người ngoài, ai muốn thành danh, ai không thì... mặc.

Để tờ báo phát triển, không muốn tờ báo đơn điệu, chúng tôi luôn luôn ý thức nâng cao chất lượng. Biên tập viên phần lớn là những cây bút viết về nông thôn như Ngô Ngọc Bội, Hoài An, Nguyễn Thị Ngọc Tú. Còn nhiều bản thảo phản ánh thời sự đơn điệu thì chúng tôi đấu tranh với nhau làm cho trên mặt báo luôn luôn cải tiến, phong phú, sinh động, đa dạng và chấp nhận nhiều phong cách, đề tài hơn. Vì báo Văn Nghệ mà đăng thiên về một đề tài, lập tức bạn đọc, cộng tác viên thấy đề tài đó đang ăn thì sẽ viết theo, dễ sáo mòn.

Mở rộng nhiều chuyên mục

Hiện nay báo Văn Nghệ không còn chuyên mục Đó đây cuộc sống con người như nhiều năm trước. Ví dụ nhiều bản thảo không dùng được nhưng có những mảng sắc sảo, rất hay. Những đoạn khắc họa một chân dung, hoặc một đoạn miêu tả về cảnh sắc thiên nhiên... bỏ đi thì rất uổng. Tôi trao đổi với bác Hoài Thanh (chủ nhiệm báo Văn Nghệ), anh Đào Vũ rằng, rất nhiều bản thảo bỏ đi thì đúng thôi vì nhiều người mới viết nhưng bỏ đi thấy xót ruột quá. Có những mảng họ mới viết nhưng rất hay, có sự tươi non, sự phập phồng có nhớ nhung, luyến tiếc hơn cả những người viết lâu năm mà đành phải bỏ, uổng lắm. Tôi đề xuất và bàn với anh Đào Vũ (lúc đó là Phó Tổng biên tập) ban biên tập cho phép mở mục: Đó đây cuộc sống con người để chuyên đăng một đến hai trang (in bốn năm mẩu) những đoạn trích ra từ bản thảo không dùng được (vì chưa hoàn chỉnh một truyện ngắn). Theo tôi, đó là những đoạn văn rất sinh động, những mảng khắc họa, ký họa chân dung văn học rất sắc sảo, có khi đó là cảnh sắc, như một buổi sáng sớm của cánh đồng mùa gặt, cảnh lao động trên công trường hầm hập không khí... In như thế người viết trẻ rất phấn khởi vì tuy không được in trọn vẹn nhưng giúp họ tự tin, sửa chữa để viết tốt hơn.

Mở mục Đó đây cuộc sống con người rất bổ ích, nó vừa khuyến khích những người mới viết nhưng đồng thời phản ánh đời sống văn học phong phú, sinh động, đa dạng hơn. Do vậy báo Văn Nghệ hiện nay cần “cựa quậy” tìm những chuyên mục cho tờ báo sinh động, hấp dẫn, dung nạp nhiều phong cách hơn.

Mười hai năm với nhiều kỷ niệm vui có, buồn có, rất thú vị nhưng cũng có những va vấp như vụ Cây táo ông Lành của Hoàng Cát, Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân... Nhưng nói chung, nhìn lại một giai đoạn thời đó chúng tôi làm việc hết lòng cho tờ báo Văn Nghệ, một thời rất tươi đẹp mà tôi may mắn được làm việc. Tôi tự hào vì có được những năm tháng ấy đã giúp ích cho tôi được rất nhiều như quen biết hầu hết được các nhân vật xuất sắc của văn học Việt Nam. Đặc biệt tôi chứng kiến những vui buồn cả lớp già lẫn lớp trẻ (mà về sau họ đều là những cây bút thành danh cả). Theo tôi, văn chương cũng có thời vụ, giai đoạn nó rộ lên từng thế hệ, cũng vừa do thời đại nhưng cũng là “trời cho” được một vài tài năng văn học, vì trong văn chương không phải cố mà được. Thế hệ tôi là thế hệ chủ lực trong văn học thời chống Mỹ. Tôi sẽ ghi lại trong hồi ký sắp in.

Nguyễn Tý (ghi)

Nhà văn Trần Hoài Dương

• Tên khai sinh: Trần Bắc Quỳ

• Sinh ngày: 8-11-1943

• Quê quán: thành phố Hải Dương. Mất năm 2011.

• Đời hoạt động: Tốt nghiệp hạng ưu Trường Báo Chí Trung ương khóa I năm 1961, về công tác tại tạp chí Học Tập (nay là tạp chí Cộng Sản) làm biên tập viên đến năm 1968. 1969-1970 đi thực tế ở Trường Giáo dục trẻ em phạm pháp của Bộ Giáo dục. 1971-1981, làm báo Văn Nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, là biên tập viên, sau đó phụ trách Ban Văn xuôi. 1982-1992: công tác tại nhà xuất bản Măng Non sau chuyển thành nhà xuất bản Trẻ, là trưởng ban văn học. 1992 đến nay là nhà văn tự do. Chuyên viết cho thiếu nhi từ đầu những năm 1960.

• Tác phẩm chính: Em bé và bông hồng (tập truyện ngắn, 1963); Đến những nơi xa (tập truyện ngắn, 1968); Cây lá đỏ (tập truyện ngắn, 1971); Cuộc phiêu lưu của những con chữ (tập truyện ngắn, 1975); Con đường nhỏ (tập truyện ngắn, 1976); Hoa của biển (truyện dài, 1976); Người tù vượt ngục và em nhỏ trên đảo (truyện dài, 1979); Lá non (tập truyện ngắn, 1981); Áng mây (tập truyện ngắn, 1988); Mầm đước (truyện dài, 1994); Nhớ một mùa hoa thạch thảo (tập truyện ngắn, 1994); Cô bé mảnh khảnh (truyện ngắn chọn lọc, 1996); Nắng phương Nam (tập truyện ngắn, 1998); Trần Hoài Dương – truyện ngắn chọn lọc (1998); Hoa cỏ thì thầm (1999); Miền xanh thẳm (truyện dài, 2000); Tuyển tập Trần Hoài Dương (2000); Trần Hoài Dương – Truyện chọn lọc (2006). Ngoài ra còn viết kịch bản phim hoạt hình và kịch bản múa rối cho thiếu nhi, trong đó đã có 5 kịch bản được dựng thành phim.

• Giải thưởng: Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Ủy ban Thiếu niên và Nhi đồng Trung ương năm 1968 với tác phẩm Cuộc phiêu lưu của những con chữ. Giải thưởng loại B (không có giải A) của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001 với tác phẩm Miền xanh thẳm. Và nhiều giải thưởng khác.