← Quay lại trang sách

Người thơ trầm tích

Nhà thơ Hoàng Trần Cương sinh ra ở mảnh đất phên dậu xưa của đất nước, là xứ Nghệ. Một vùng quê nghèo khó, phong thổ dữ dằn nhưng cảnh đẹp nên thơ, mà ca dao đã có câu: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh. Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.” Mảnh đất nắng thật nắng, gió thật gió, rét thật rét, khô cằn thật khô cằn, bão lũ thì triền miên này đã sản sinh ra cộng đồng người mang đậm trong mình chất Nghệ. Họ là những con người giàu nghị lực, không cam chịu số phận, luôn biết quẫy vượt khỏi hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên và xã hội, khẳng định mình để tồn tại và hòa vào dòng chảy đời sống. Hoàng Trần Cương là một người con mang đậm đặc trong mình những phẩm chất quê mẹ đó. Nhưng bên trong cái vẻ xù xì thô ráp, ăn sóng nói gió, thậm chí có những giây phút thăng hoa “nảy lửa” lại là một con người hiền lành, “dịu dàng” đến dễ thương, đa cảm. Ông từng tự nhận xét về cái vẻ bên ngoài của mình:

Mặt anh buồn như đá

Ai vất ra ngoài đồng.

Nhà thơ Đoàn Xuân Hòa, một người bạn thân thiết của ông đã nói về ông thế này: “Hoàng Trần Cương giống như con hàu biển, lớp vỏ đá vôi xù xì bao bọc cái tinh chất mềm mại bên trong.”

Hoàng Trần Cương là người luôn hết lòng vì bạn, phóng túng với bạn, đặc biệt là với bạn bè văn chương. Ở giữa bạn bè ông trở nên hồn nhiên đến đáng yêu. Đối với ông, khi đã thực sự bạn bè thì đó là bởi duyên may trời cho, cần phải nâng niu và gìn giữ.

Đối với thơ ca, Hoàng Trần Cương thực sự như một tín đồ. Có lẽ ông là một trong số ít những người yêu thơ đến lạ lùng mà tôi từng biết. Dường như, trong đầu ông luôn nghĩ đến thơ. Tình yêu thơ ca đó như ngọn núi lửa luôn rừng rực. Ông cần phải cầm bút, cần phải đọc thơ để giải phóng cái năng lượng đó. Tôi đã nhiều lần chứng kiến ông đọc thơ giữa bạn bè và đọc thơ trước hội trường cả nghìn người. Khi đó ông giống như một con hổ được thả về rừng, được tung hoành trong lãnh địa của mình. Với chất giọng mạnh mẽ và quyết liệt của người Nghệ và tình yêu thơ ca, Hoàng Trần Cương thăng hoa như muốn làm tan vỡ cả đá tảng. Tôi cũng đã từng chứng kiến ông khóc trước bạn bè sau khi đọc thơ, rồi ông lại trầm ngâm, lại đưa tay vuốt cặp lông mày rậm rạp.

Thơ Hoàng Trần Cương cũng phần nào giống như con người ông. Nó gập ghềnh, trúc trắc, giống như sỏi đá khô cằn, giống như vẻ xù xì thô ráp bên ngoài của ông. Ngay cả thơ tình của ông khi đọc lên cũng cảm thấy nó trúc trắc như vậy:

Anh cắm sào trước dòng sông héo sóng.

Nghe bãi bờ khò khè dưới chân.

Sóng mà lại héo, bãi bờ mà lại khò khè. Đó là một câu thơ hay và lạ.

Trong kho tàng thơ ca viết về miền Trung, Hoàng Trần Cương ghi một dấu ấn quan trọng:

Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa

chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam.

Chỉ hai câu thơ đó đã khắc họa phong thổ cũng như tính cách của người dân xứ Nghệ đến gần như đầy đủ. Hầu hết những câu thơ viết về quê hương của Hoàng Trần Cương đều trong tập trường ca Trầm tích. Với tập trường ca này, Hoàng Trần Cương như rút ruột mình để trả nghĩa cho quê hương. Nó là mốc son trong cuộc đời sáng tác của ông, và cũng là một cột mốc cho thơ ca miền Trung. Ngôn ngữ trong Trầm tích quê mùa cục mịch như củ khoai củ sắn, như vại nhút vại cà, trúc trắc và khô cằn như sỏi đá miền Trung nhưng lại như lưỡi dao cứa vào lòng người đọc. Những ai sinh ra và lớn lên ở cái mảnh đất nghèo khó đó, khi đọc Trầm tích như được gặp lại chính mình, gặp lại một phần đời không thể quên nơi vùng quê đó mà không khỏi rưng rưng:

Dằng dặc dải làng quê thưa thắt

những vạt lúa đỏ đuôi luội mình đổ rạp

chỏng chơ nồi cơm ngày đói khát

tảng cháy cạy đi rồi

còn hằn vết móng tay

cày lên

sưng cả đáy nồi.

Quê ông nằm bên bờ sông Lam, thuộc huyện Đô Lương, Nghệ An, ngay cạnh bến đò Lường nổi tiếng, đã đi vào khúc hát dân ca: Chính thương anh nên em bàn với mẹ, để ngăn anh không đi chuyến ngược Lường. Sở dĩ người vợ khuyên chồng không đi chuyến ngược Lường vì ở khúc sông đó có nhiều vực thẳm, có đập nước Đô Lương xây từ thời Pháp thuộc, tạo thành dòng chảy dữ dằn, có thể nhấn chìm thuyền bè qua lại. Khi còn nhỏ, Hoàng Trần Cương từng chứng kiến biết bao bè gỗ bị dòng nước nuốt chửng ngay trước mắt mình. Ngày đó, Hoàng Trần Cương mới chỉ là một đứa trẻ chưa đến mười tuổi thường hay ra chỗ đập nước để hét lên, thách thức cùng dòng nước cuộn chảy.

Ông sinh ra trong một gia đình dòng dõi, có ông nội là Hàn lâm viện Học sĩ nhưng đã treo ấn từ quan, về sống cuộc đời dân dã, kết bạn văn chương và ủng hộ phong trào Đông Kinh nghĩa thục của Phan Bội Châu. Gia đình ông đã từng nuôi giấu nhiều nhà cách mạng như: Nguyễn Phong Sắc, Hồ Tùng Mậu... Vào một buổi trưa, cậu bé học vỡ lòng hớn hở chạy về thì thấy nhà cửa tan hoang rồi bị niêm phong lại. Mấy mẹ con bà cháu bị dân quân đẩy ra ngoài đồng, sống chết mặc bay. Cay đắng hơn, người cha của ông là một đảng viên từ năm 1946, đang là Chánh văn phòng Ủy ban kháng chiến tỉnh Nghệ An bị quy là địa chủ đầu sỏ và bị dẫn ra hành hình ngay trong chiều hôm ấy. Tất cả mấy mẹ con bà cháu cũng bị lùa ra để chứng kiến cảnh tượng ghê rợn đó. Trong trí nhớ của cậu bé Hoàng Trần Cương khi đó như in cảnh sáu dân quân cầm súng trường đang chuẩn bị giương lên, mấy mẹ con bà cháu sợ rúm ró vào nhau sau vành móng ngựa kết bằng dây chuối. May thay, khi mà cha ông đã bị trói vào cột, giờ hành hình sắp đến, trời bỗng nổi trận mưa giông, tất cả dân làng bỏ chạy tán loạn. Pháp trường vắng hoe. Chợt người đội trưởng đội hành hình hét lớn: “Nỏ ai xem thì bắn mần chi.” Vậy là buổi hành hình bị hoãn lại sang ngày hôm sau. Nhưng, ngay buổi tối hôm đó, có lệnh sửa sai, một chiếc xe ôtô đít vuông đã đón bố ông ra Vinh. Mấy tháng sau gia đình mới được biết bố ông được đưa ra Hà Nội công tác. Trong khoảng thời gian đó mấy mẹ con bà cháu vẫn sống trong một túp lều lụp xụp giữa đồng không mông quạnh, đi mót khoai, mót lạc, mò cua bắt ốc, làm thuê cuốc mướn để sinh sống. Sau này những hình ảnh đau thương đó cũng đã hiện lên trong Trầm tích:

Mẹ ơi

tận bây giờ con vẫn còn hoảng hốt

cái buổi chiều những tưởng cha đi

bỗng dưng trời đất thâm sì

lốc rừng dựng đứng

giông bão ùa về lừng lững

mây đặc trời

tối bưng

gió chém.

mưa đâm

sợi dây trói nới thầm

từ tay cha rụng xuống

mẹ bảo: may mà trời có mắt.

Sau này khi trở thành nhà thơ, quê hương giống như mỏ vàng lộ thiên, còn ông thì cứ miệt mài để khai thác. Ông làm thơ giống như người đi cày, bền bỉ lật lên từng thớ đất quê hương để phát hiện ra những long mạch, những hồng ngọc trong Trầm tích.

Năm 1970 khi đang là sinh viên năm thứ tư Trường Đại học Tài chính, Ngân hàng Trung ương, cả lớp học có hơn sáu chục người thì chỉ mình ông trúng tuyển nhập ngũ, theo phong trào tổng động viên sinh viên các trường đại học. Ông từng chiến đấu ở các mặt trận phía Nam, Nam Lào, các mặt trận phòng không ở các tỉnh phía Bắc... và trận chiến Điện Biên Phủ trên không tại Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Ông đã đi qua nhiều trận đánh, từng bế trên tay biết bao đồng đội bị thương và hy sinh. Có trận chiến mà cả đại đội chỉ còn ông với hai người nữa sống sót. Chính vì những năm tháng đầy khốc liệt không thể nào quên ấy, cho nên thơ của ông viết về chiến tranh, về đồng đội cũng là mảng đề tài ghi dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Đó là những câu thơ mạnh mẽ, đầy khí tiết:

Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm dăng màn

Thoáng bóng giặc núi bửa thành máng súng

những đứa con văng như mảnh đạn

thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi.

và cũng đầy day dứt của một người lính trở về từ bom đạn:

Mẹ ơi

lẽ ra con cũng như bao đồng đội

khi đất nước mình trận mạc

những ngày sống bây giờ

dẫu còn lấm láp

nhưng với con

kể như là lãi

món nợ này

con biết trả sao

biết trả ra sao

khoản lợi nhuận con đang thừa hưởng

phảng phất đêm ngày lớp lớp khói hương.

Chiến tranh kết thúc, Hoàng Trần Cương xuất ngũ với tấm thẻ thương binh, quay lại trường học tiếp. Những năm 80, ông là kế toán trưởng của báo Nông Nghiệp Việt Nam. Đây là khoảng thời gian mà ông nhận ra giá trị cũng như sự nghiệt ngã của đồng tiền. Nhà thơ Hoàng Trần Cương từng đi buôn gạo, buôn sắt vụn để có tiền lo từng cân thịt, từng chiếc bánh chưng cho anh em trong cơ quan. Chính những ngày tháng đó, vốn liếng về con người, sự nhận chân giá trị thực cuộc sống trong ông trở nên sâu sắc. “Lửa đạn” thời bình còn đáng sợ hơn chiến tranh, vì ta không nhìn thấy được, kẻ thù không phải bằng da bằng thịt nên buộc con người ta cần phải tỉnh táo. Từ chiến trường ông bước vào thị trường đầy gian khó, đầy sai lầm của thời cuộc với một tâm thức phải luôn gắng gỏi vươn lên nhưng không được đánh mất phẩm giá con người.

Cho đến lúc nghỉ hưu ông đang ở cương vị Tổng biên tập Thời báo Tài Chính Việt Nam. Bây giờ ông càng có nhiều thời gian dành cho thơ ca và bạn bè. Mảnh đất miền Trung vẫn là đề tài mà ông nung nấu như vừa mới bắt đầu khai thác. Ông bảo, từ trước đến giờ, mỗi lần định viết về quê hương, bao giờ ông cũng tắm rửa sạch sẽ, dâng hương trước bàn thờ tổ tiên, ngồi vào bàn thật bình tĩnh, thanh thản, rồi mới bắt đầu viết.

Ông là một người nghiện thơ, và trong con người nghiện thơ đó lại có một cái nghiện khác, đó là nghiện viết trường ca. Cho đến nay ông đã hoàn thành bốn tập trường ca và một trường ca về biển đảo đang viết dở. Ông đang cố gắng viết khác để không lặp lại mình. Mong rằng ông sẽ làm được. Và, nếu không, thì dẫu sao ông cũng đã tạo được một phong cách Hoàng Trần Cương – người thơ trầm tích của thổ nhưỡng miền Trung.

Trần Vũ Long

Nhà thơ Hoàng Trần Cương

• Sinh năm:1948

• Quê quán: Đặng Sơn, Đô Lương, Nghệ An

• Hoạt động: tốt nghiệp Đại học Tài Chính Ngân Hàng, từng tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Lào, chiến trường Tây Nam, các mặt trận phòng không phía bắc; sau chiến tranh, làm kế toán trưởng báo Nông Nghiệp Việt Nam; rồi làm chuyên viên kế toán tài chính kinh doanh của Bộ Tài chính; nguyên Tổng biên tập Thời báo Tài Chính Việt Nam.

• Tác phẩm đã xuất bản: Hạnh phúc hôm nay (ký), Bầu trời Quảng Trị (truyện ký), Nguyên vẹn (truyện ngắn), Chớp xanh (truyện ngắn), Dư âm (truyện ngắn), Đường chân trời (Thơ in chung), Dấu vết tháng ngày (thơ), Trầm tích (trường ca), Quà tặng hành tinh (thơ)....

• Giải thưởng: Giải A bút ký của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ (1990-1991), giải thưởng Bộ Quốc phòng (1994-1999), giải thưởng Hội Nhà văn (2000), giải đặc biệt giải thưởng Hồ Xuân Hương (1997-2002).