← Quay lại trang sách

Giọt nước trong lá sen -

Tôi trông lại ngôi nhà gạch cổ tìm dưới tán cây vú sữa trong bóng chiều đông xứ Huế lất phất mưa lạnh. Thế kỷ XX còn ở lại đây. Ngay trong khuôn viên tuềnh toàng mới được đeo số 38. Đường Nguyễn Khoa Vi. Phường Vĩ Dạ. Gia chủ tôi vừa được gặp. Trần Vàng Sao.

Tôi yêu mến Trần Vàng Sao từ thuở còn là sinh viên. Dạo ấy vào cuối những năm 60 và đầu năm 70 của thế kỷ trước. Những năm tàu bay giặc hung hãn mang bom đạn đốt nhà giết người khắp bờ cõi Việt. Cả một nền đại học rời Hà Nội về rừng núi, thôn quê sơ tán. Chính phủ lo cho hàng vạn học trò cái ăn đã đủ mệt rồi. Thiếu sách, thiếu vở, đói rét là chuyện thường. Một nền đại học ngặt nghèo trong khói lửa chiến tranh. Đám sinh viên hiểu được cái ân huệ yên bình mà mình được hưởng. Ai cũng miệt mài thức khuya dậy sớm. Đêm hôm đèn sách. Thung lũng Đại Từ tỉnh Thái Nguyên bốn bề là núi xanh lơ. Ở giữa lại có hai quả núi nhỏ. Núi Văn. Núi Võ. Xa trông giống như hai cái mũ cánh chuồn úp xuống. Nơi cư ngụ của mấy ngàn ngọn đèn dầu sinh viên thời chống Mỹ. Sinh viên Văn khoa Tổng hợp Hà Nội thời ấy oai lắm. Có thói quen chép tay hay truyền miệng nhau thuộc lòng những bài thơ hay. Thôi thì đủ cả. Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Không đề của Olga Bergon. Nghĩ lại về Pautovxki của Bằng Việt v. v... và Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao. Không rõ in năm nào, nhưng mà còn nhớ in chung trong tuyển thơ cách mạng miền Nam, nhiều tác giả. Bài thơ ấy không biết ai nhuận sắc. Nó ngắn hơn so với nguyên bản, nhưng hồn cốt vẫn giữ được. Người ấy chắc phải là tay cao thủ trong làng thơ xứ Bắc, và chúng tôi thuộc lòng bài thơ kỳ lạ ấy. Suốt một nửa thế kỷ qua nó vẫn sống động, vẹn nguyên trong tâm hồn thế hệ thanh niên những năm gian khó. Giờ đã ở tuổi ngoại lục tuần, thi thoảng gặp nhau lại đem Trần Vàng Sao ra đọc như đọc lại một thời quá khứ long lanh.

Bài thơ độc đáo và đi vào lòng người ở chỗ nhiều thi sĩ khác khi viết về đất nước thường viết theo âm hưởng anh hùng ca, sang sảng, phơi phới đi lên. Họ thường đặt đất nước vào vòng tay của lịch sử. Vòng tay rộng lớn, mạnh mẽ, nhiều khi đầy uy lực. Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? của Chế Lan Viên; Đất nước của Nguyễn Đình Thi; và sau này, Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo v.v và v.v... Trần Vàng Sao đã có cách làm khác hẳn. Ông ôm đất nước vào vòng tay nhỏ bé, tội nghiệp, và cay đắng của chính mình để hát lên một bài ca tha thiết, mà giản dị. Xúc động đến xót xa mà hài hòa vây ấm. Người ta khi đọc lên thấy yêu mến hơn đất nước mình, nhân dân mình một cách tự nhiên từ những gì gần gụi nhất.

Một bài thơ hay có trăm nghìn cách tiếp cận khác nhau để làm rõ ra, để xâm nhập, đào bới vào những vỉa quặng của ý nghĩa xã hội và vẻ đẹp thẩm mỹ. Nhưng dù cách nào, ai nấy đều thừa nhận Bài thơ của một người yêu nước mình là một trong số ít bài thơ đặc sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại viết về đất nước. Và nó đã ghi danh tên tuổi của thi sĩ Trần Vàng Sao lên bầu trời thi ca nước Việt, thế kỷ thứ hai mươi. Bài thơ có nhiều vầng sáng lan tỏa trong nhau. Nhưng có ba vầng sáng lung linh và đẹp đẽ nhất, soi tỏ những vầng trán đắm say và suy tưởng của nhiều thế hệ người đọc. Ba vầng sáng: Đất nước, Người mẹ và Em. Mở đầu bài thơ là sự thảnh thơi, thư thái. Không phải cái gì cao sang to tát mà bồi hồi như hơi thở làng quê, tràn trề hạnh phúc của tuổi thơ mỗi buổi sớm thanh bình.

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày ra đứng ngoài đường

Gió thổi những bông nứa trắng bên sông

Mùi tóc khô còn thơm lúa mùa qua

Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà

Và lũ trẻ đứng nhìn ngấp nghé

Tôi yêu đất nước này như thế.

Tình yêu đất nước bắt đầu từ nỗi nhớ khôn nguôi về một tiếng cười của người mà ta chưa từng gặp mặt. Mang đến cho ta nỗi buồn man mác hương hoa của cõi xưa vắng lạ trong câu dân ca xa ngái cùng sự chia ly vô cớ của tuổi hẹn hò.

Đôi khi nhớ một tiếng cười lạ

Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu

Một vết bùn khô trên mặt đá

Không có ai chia tay

Cũng nhớ một tiếng còi tàu.

Nhưng da diết hơn cả, sâu nặng hơn cả là hình ảnh người mẹ hiền giàu đức hy sinh, chịu bao cay đắng, thiệt thòi, tủi nhục. Suốt đời niệm Phật để nuôi dòng sữa Thiền cho ta khôn lớn. Là tiếng thở dài của mẹ đêm đêm, dài hơn cả cuộc đời ta, dài hơn cả nước sông gạo chợ tảo tần. Hình ảnh mẹ là hình ảnh sâu đậm nhất của quê hương để cuộc sống dù trải qua bao đắng cay cũng trở thành thân thương chan chứa mà dung dị lạ thường.

Tôi yêu đất nước này như thế

Như yêu cây cỏ trong vườn

Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương

Nuôi tôi thành người hôm nay

Yêu một giọng hát hay

Một bài mái đẩy thơm hoa dại

Có sáu câu vọng cổ chứa chan

Có ba ông táo thờ trong bếp

Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen.

Vâng, giọt nước trong lá sen! Giọt nước long lanh được xứ Huế chắt chiu qua bao khổ đau, giông bão để sinh hạ ra thi sĩ tài hoa Trần Vàng Sao. Thi sĩ của tình yêu Tổ quốc mình. Càng đằm sâu vào thế giới tinh thần của bài thơ những vầng sáng lan tỏa soi tỏ tâm thức cõi người. Yêu đất nước hòa quyện với tình yêu của người con gái ngây thơ đã gọi nhỏ tên ta ở tuổi học trò áo trắng và chùm hoa phượng đỏ để ta nguyện cầu trong nỗi buồn cô đơn không giải thích nổi của tình yêu đôi lứa.

Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em

Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò

Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ

Trong bước chân chim sẻ

Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi

Hay nói chuyện luyên thuyên

Chuyện trên trời dưới đất rất lạ

Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá

Cứ hay cười mà không biết có người buồn.

Ôm đất nước trong vòng tay bé nhỏ của mình, Trần Vàng Sao đã mười lần kêu lên: “Tôi yêu đất nước này!” Với bao tâm trạng: Xót xa. Cay đắng... Để rồi lần thứ mười một, dường như ông không thể nhỏ nhẹ được nữa, cầm lòng được nữa, tiếng thơ như vỡ òa ra, thổn thức bật lên từ những âm vang của lịch sử, của những bài ca lao động, của những huyền thoại bất tử vang vọng hồn xưa.

Tôi yêu đất nước này lầm than

Mẹ đốn củi trên rừng cha làm cá ngoài biển

Ăn rau rìu, rau có, rau trai

Nuôi con người từ khi mở đất

Bốn nghìn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ

Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.

Và bài thơ đi đến những âm hưởng cuối cùng trong sự hài hòa của những ước mơ khiêm nhường mà xiết bao hy vọng: Căn nhà nhỏ ban đêm có ngọn đèn thắp sáng; Gió thổi trong vườn cây xào xạc hương thơm; Tiếng trẻ con khóc bên nhà hàng xóm; Mẹ bồng con buổi đất nước hôm nay đã thấm hồn người... Bởi cuộc đời ta trải qua đắng cay đã biết làm người và giữ gìn mãi mãi tình yêu chân thật.

Không một ai đọc bài thơ này mà không một lần trào nước mắt. Đất nước đâu có gì xa xôi mà quá đỗi giản dị trong vòng tay của người thi sĩ và của chính mỗi người dân Việt.

Sau khi xuất hiện bài thơ kỳ lạ này không thấy bóng dáng ông trên thi đàn nữa. Không rõ việc gì đã xảy đến với ông.

Lũ chúng tôi ra trường, tỏa đi bốn phương muôn ngả đường trần trong cõi mưu sinh. Có nhiều cái đã quên, nhưng Bài thơ của một người yêu nước mình cùng với những kỷ niệm thời trai trẻ thì không quên được.

Mãi đến những năm gần đây, mọi người mới biết rõ ông gặp nạn. Đọc hồi ký Tôi bị bắt của ông trên mạng cảm thấy một tâm trạng xót xa và buồn. Nhưng biết làm sao được khi lịch sử đi những bước lớn vinh quang trên con đường của nó, cuốn theo bao nhiêu thân phận con người... Và không phải lúc nào hoa mai cũng nở được hai lần để ai lỡ bước kịp phân trần cho mưa lạnh vào đêm hôm trước nở hoa.

Thế kỷ trước có một vị tướng tài, đánh đông dẹp bắc. Khi ngựa chiến vừa dừng chân, ông nhận được chiếu chỉ của triều đình sắc phong cho ông chức vị chuyên lo về một việc dân sinh. Chẳng gắn gì với tài thao lược trong đời binh nghiệp của ông. Ông thanh thản nhận công việc đó. Việc đánh giặc khác gì đắp đê. Tuy vậy đó là một trong những quyết định khó khăn nhất của cuộc đời ông. Nói như Trần Vàng Sao, bởi vì ông là một người yêu nước mình, yêu nhân dân mình. Yêu hơn cả tính mạng và danh dự của bản thân mình. Đồng bào ai ai cũng quý trọng nhân cách làm người ấy. Câu chuyện này không liên quan gì đến cuộc đời Trần Vàng Sao. Nó chỉ như một dẫn chiếu để lý giải cho sự vắng mặt lâu dài của ông trên thi đàn. Và điều đáng quý là Trần Vàng Sao không im lặng. Ông tiếp tục làm thơ. Tiếp tục yêu nước mình dù ngay cả trong lúc cất lên những bài ca đau đớn và ai oán nhất. Đọc kỹ trên mạng thơ ông viết thời đó Người đàn ông 43 tuổi nói về mình (1984), Khoảng trống ngoài sân khấu (1986), Tau chửi (1997)... khoảng gần ba mươi bài. Không còn những hình tượng thơ tươi sáng và thanh khiết như Bài thơ của một người yêu nước mình nữa. Năm tháng, tuổi tác và sự đời không thể cho ông làm được như thế nữa. Nhưng dù gì thì gì, Trần Vàng Sao vẫn trải lòng mình với những dòng thơ thế sự thấm đượm nhân văn.

Một nỗi cô đơn lẻ bóng và yên phận mà sao chân thành và suy tư đến thế.

Một, hai, ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa

Miếng nước trà mốc có mùi bông lài rát cổ

Cũng không có chi phiền

Vấn một điếu thuốc hút

Hai ba lần tắt đỏ...

(1984)

Thi sĩ của chúng ta không còn thảnh thơi mặc áo đi giày ra đứng ngoài đường nữa. Ông bỏ dép đi kín nước dưới sông. Thắp ngọn đèn nhỏ sáng trong ngôi nhà mình như ông từng mơ ước khi kết thúc Bài thơ của một người yêu nước mình. Một sự thống nhất không thể nhạt phai lý tưởng xã hội và lý tưởng thẩm mỹ của ông.

Tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát

Đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua

Tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp

một cây đèn để lên bàn thờ

Hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về

Trời còn lâu mới tối

Tôi đi gánh một đôi nước uống

(1984)

Năm 1985 ông viết bài thơ Những điều có khi hôm nay bỏ qua không nhớ. Nói là bỏ qua mà không thấy ông bỏ qua được. Thi sĩ Trần Vàng Sao không thể bỏ qua tình yêu quê hương đất nước mình. Cả những gì giản dị nhất.

Tiếng trẻ con ru em buổi trưa trời nắng

Những điều đó bỏ đi tình cờ gặp lại

Không kể năm

Không kể tháng

Không kể ngày......

Con chuồn chuồn hết đạp nước rồi đậu trên dây thép gai

Con bò kéo xe chở gạch bước lách cách

Người đánh xe đội chụp cái mũ Levis ngồi dựa ngửa hút thuốc

Buổi chiều nước sông không có mặt trời

Tôi xoa hai đồng bạc kên trên mấy đầu ngón tay.

(1985)

Ông không bao giờ chịu để ngọn đèn nơi ngôi nhà mình tắt. Ngọn đèn đã khêu lửa trong thơ ông từ hồi những năm ông rời thành phố Huế lên xanh cùng sống chết với quê hương mình.

Đèn hết dầu

Tôi lấy chai ra đường kêu cửa mua chịu.

(1985)

Trong số ít bài thơ viết khoảng ba mươi năm sau 1967, có bài thơ dài gợi nhiều suy tưởng. Bài thơ Gọi tìm xác đồng đội đã được một tờ báo ở Hà Nội in toàn văn, sau khi tập thơ đã có giấy phép xuất bản, chuẩn bị đưa vào nhà in. Tòa báo này cũng đã điện thoại xin được sự đồng ý của tác giả... Ở bài thơ này, Trần Vàng Sao không còn những câu thơ lấp lánh nữa. Ông sử dụng phương pháp tự sự, kể chuyện, sử dụng triệt để phương pháp đồng hiện. Những cái chết bi ai trong chiến tranh với nhiều tên người, tên đất cụ thể ở khắp mọi vùng Tổ quốc. Bài thơ không phải là một văn chiêu hồn mới. Nó là khúc ca nghẹn ngào nhắc nhở hiện tại và mai sau cái giá phải trả cho cuộc sống hòa bình. Nhắc nhở người đang sống dù hạnh phúc hay đắng cay phải biết ơn những người đã chết vì đất nước và quê hương. Dù còn bao gian khó. Hiện thực của bài thơ trần trụi một cách đáng sợ. Người ta không thể tính được cái giá của hòa bình. Cái giá của chiến tranh. Chỉ có quỷ dữ mới tính được cân, được lạng da thịt của người chết! Chiến tranh hiện hình trần trụi trong từng cái chết. Nhưng không thể dập tắt khát vọng sống mãnh liệt của con người. Gọi tìm xác đồng đội có những câu thơ trong sáng như mây buổi sớm. Và Ban mai như một hình tượng thơ trong suốt pha lê của cả đời thơ nhà thơ xứ Huế.

Những buổi sớm mai

Những buổi sớm mai thơm mùi lúa

Tôi đi qua cánh đồng đất nứt cuốc lật

Hai bên đường bông cỏ vừa nở

Chim hót trong gió mát

Và sương mờ trong cây bên kia vùng

Em làm gì mà ngơ ngác như không thấy tôi

Những buổi sớm mai

Những buổi sớm mai

Như thơ tôi Sớm mai

Mặt trời mọc

Như thơ tôi ở với trời đất và anh em

Bạn bè tôi người sống người chết

Thơ tôi là đời tôi là tôi đây.

(1996)

Cho phép tôi được gọi Trần Vàng Sao là nhà thơ của Ban Mai trong khổ đau hy vọng.

Và như cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, cái buổi sớm mai chàng thi sĩ họ Trần mặc áo đi giày ra đứng ngoài đường gặp em gái đang độ tuổi học trò. Bông hoa mọc một mình trên đá. Cứ hay cười không biết có người buồn của gần nửa thế kỷ trước lại hiện về xao xuyến yêu thương trong bài thơ đầy chết chóc. Con người hy vọng ở Ban Mai. Vơi đi bao nỗi ưu phiền.

Mọc trên đá một mình

Em còn xa tôi, xa tôi

Tôi còn đi mãi bơ vơ

Trang giấy buồn

Tôi xin đọc lời di chúc phúng điếu tôi bên

Dòng sông này

Cùng cây cỏ

Cùng anh em tôi.

(1996)

Không thể không nói những năm sau này thơ Trần Vàng Sao mang nặng những nỗi buồn. Để rồi vượt lên tất cả, kết thúc bài thơ dài Gọi tìm xác đồng đội là tâm hồn thanh thản của Thi Nhân. Tôi chú ý đến ông miêu tả cử chỉ ngó xuống hai bàn tay của ông mà liên tưởng tới thế tay của ba vị Tam Thế trong chùa. Khuôn mặt của quá khứ, hiện tại và tương lai đều giống nhau thôi. Khác nhau chỉ ở cái ấn quyết của đôi tay Phật. Trần Vàng Sao là nhà thơ yêu nước mình. Ôm trọn đất nước vào vòng tay bé nhỏ của mình mà ca hát đến nghẹn ngào.

Còn tôi

Tôi ngó hai bàn tay tôi

Rồi ngó trước mặt

Ngó sau lưng

Đêm mưa không biết

Có tiếng chẻ củi ở nhà bên cạnh...

Được biết sau này, thi sĩ Trần Vàng Sao đã ba lần được mời tham dự Hội Nhà văn. Lần đầu vào khoảng năm1990, hồi nhà văn Vũ Tú Nam còn cầm trịch, cho đến các khóa sau này, nhà thơ Hữu Thỉnh kế nhiệm, và lần gần đây nhất vào khoảng năm 2005-2006. Lần ấy, nhà thơ Nguyễn Hoa, Trưởng ban Hội viên của Hội vào Huế có gặp ông. Khi ở trên bờ đã thấy ông xuôi xuôi. Xuống thuyền thưởng ngoạn sông Hương xong, lúc lên bờ, Trần Vàng Sao lại ân cần từ chối. Biết làm sao được... Dòng sông Hương bao đời nay chảy giữa tâm tư khát vọng của xứ Huế, giữa kinh thành một thời vang bóng, cờ xí rồng bay... Nhưng dường như có một dòng chảy vô hình nữa ở đâu đó dưới làn nước xanh. Sông Hương trầm lặng có bao giờ chia sẻ tâm sự nhân thế với con người đầy mẫn cảm hay vẽ tranh Bồ đề Đạt Ma Trần Vàng Sao – Nguyễn Đính (tên cúng cơm của Trần Vàng Sao) hay không? Nhưng dòng chảy âm thầm của sông như mách bảo bí mật những lời của thiên sứ cho các văn nhân tài hoa xứ sở từ bao đời nay, để làm nên một cốt cách của người xứ Huế không pha trộn, vay mượn được...

Khuất Bình Nguyên

Nhà thơ Trần Vàng Sao

• Tên khai sinh: Nguyễn Đính

• Ngày sinh: Sinh năm 1941

• Quê quán: Thừa Thiên – Huế

• Đời hoạt động: Năm 1961 thi đỗ tú tài, vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha. Từ năm 1965 đến 1970, lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao. Năm 1970 ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh, viết nhật ký những suy nghĩ về “hậu phương xã hội chủ nghĩa”, sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập.

• Sau khi Việt Nam thống nhất, Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng không được chấp nhận; tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế, rồi về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984.

• Các tác phẩm chính: hầu như không cho xuất bản thơ; vẫn nổi tiếng với bài Bài thơ của một người yêu nước mình ký bút danh Trần Vàng Sao, sáng tác tháng 12 năm 1967.