- XXXIII - TÔI ĐẦU HÀNG
Một bức thư đang đợi tôi ở nhà trọ.
Đấy là thư của ông giáo sư già hồi trước đã báo cho tôi biết tin thầy mẹ tôi bỏ nhau.
Hôm nay tôi hay tin rằng cuộc bỏ nhau đó là vĩnh viễn!
Thầy tôi đã chết, - chết vì đau tim.
Thầy tôi chết trong tay một người phụ nữ xa lạ, người mà thầy tôi đã mang đi theo. Bức thư nói rằng bà ta đã ở bên cạnh thầy tôi cho tới phút cuối cùng; nhưng lúc sợ có tai họa xảy đến, cảm thấy hối hận hoặc vì sợ hãi xác chết, bà ta liền nhờ báo tin nguy cấp cho người mà bà đã cướp mất chỗ, vì tình. Mẹ tôi đã đến kịp để chôn cất con người mà mẹ tôi từ lâu đã khóc ngay khi còn sống.
Tôi cũng phải lên đường ngay lập tức, nội trong một tiếng nữa, nếu tôi muốn đến trước khi chôn cất thầy tôi.
Ở ga, lúc xuống tàu, tôi gặp một bà tuy không vận đồ tang nhưng có đeo băng tang. Mọi người chỉ chỏ bà ta. Tôi đã đoán được bà ấy là ai!
Chính tôi lại đi thương hại bà ta trong khi những người khác lên án bà. – Lên án bà ta ư? Tại sao? Xét cho cùng, có lẽ nhờ bà mà thầy tôi mới được hưởng những giờ phút hạnh phúc – bà ta hiểu thầy tôi. Nhưng giờ đây cuộc đời bà, của riêng bà, thế là hết!
Chuông rung… tàu chuyển bánh.
Bà ta đi đâu vậy?
Tôi đang ngồi trong ngôi nhà có tang, trên chiếc ghế kê cạnh giường đặt thi hài người chết.
Mẹ tôi ở buồng bên cạnh, người trắng bệch như sáp…
Tôi đóng cửa buồng, tôi muốn ngồi một mình.
Tôi không muốn có ai chứng kiến cơn mơ mà hoặc nước mắt của tôi ngoài người nằm dưới tấm khăn liệm trắng kia.
Đây là lần đầu tiên hai bố con tôi ngồi bên cạnh nhau, bình tĩnh, hay trong một bầu im lặng, không giận dữ. Hai bố con tôi từ lâu đã trở thành hai kẻ thù. Chúng tôi đã làm lành với nhau, cuộc hòa giải mất một buổi tối: cuộc xung đột đã kéo dài mười năm – sở dĩ như vậy là vì chúng tôi đã rời bỏ đất, mảnh đất cày bừa tốt đẹp nơi chúng tôi đã ra đời!
Trong cái yên tĩnh của đêm nay, qua cửa sổ hé mở, tôi trông thấy ở đàng kia những gốc cây già, một đống cỏ khô; vầng trăng rải bạc trên đồng cỏ. Chà! Tôi sinh ra để lớn lên giữa những đống cỏ khô kia, những cây kia! Đáng lẽ tôi đã là một nông dân đẹp đẽ! Ba người trong gia đình tôi đã yêu mến nhau: bố, mẹ và đứa con trai!
Đúng là dòng máu nông thôn chảy dưới da thịt tôi, nó thèm khát không khí thoáng đãng và hương vị thiên nhiên. Thế nhưng chính thầy mẹ tôi đã muốn tôi trở nên một ông và một thằng tù.
Thế đấy! Tôi nhớ lại là năm mười hai tuổi tôi đã muốn tự vẫn vì nhà trường, đối với tôi, buồn quá và độc ác quá. Phải, thầy ôi, thầy nằm kia với vầng trán nhợt nhạt và giá lạnh như cẩm thạch, thầy hãy biết rằng khi là học trò, con đã khổ đến nỗi muốn trở thành pho tượng giá lạnh và cứng đờ như thầy hôm nay!
Thầy không ngờ tới nỗi khổ nhục của con!
Thầy tưởng rằng đấy chỉ là những trò nhăn nhó trẻ con, và thầy bắt con phải chịu đựng sự tàn bạo của thầy giáo, phải ở trong nhà ngục ấy – vì yêu con, vì lợi ích của con, bởi lẽ thầy cho rằng con trai thầy ở đấy ra sẽ trở thành một nhà bác học và một con người. Con chỉ trở thành bác học trong đau khổ, và nếu con trở thành một con người, thì chính là vì ngay từ hồi nhỏ con đã nổi loạn - chống lại cả thầy nữa.
Bố con tôi đã không được gặp lại nhau để siết chặt bàn tay và ôm hôn nhau.
Ít nhất thầy có nghĩ tới con không, khi thầy cảm thấy sức sống rời bỏ mình? Thầy có tìm hình ảnh con trong không gian không?
Người ta kể lại rằng trong cơn mê sảng, thầy đã hỏi xem Pari ở hướng nào, và thầy muốn người ta kê về phía đó, đầu thầy đã gục xuống và nhìn mãi về phía con.
Khuôn mặt này đầy đức hạnh và đau khổ.
Biết bao đau khổ giấu kín dưới cặp mắt đã vĩnh viễn nhắm lại kia, trong hõm khóe mắt không bao giờ còn khóc kia! Con cảm thấy ngón tay xỉa xói của bọn đao phủ vận áo giáo sư đang sỉ nhục và nạt nộ người ta. Giáo sư khốn khổ! Một viên hiệu trưởng hoặc một viên giám đốc trường nắm trong bàn tay học giả của hắn miếng bánh mì, hầu như cả danh dự của gia đình.
Tôi hiểu rằng thầy tôi đã có những cơn giận dữ, rồi trút nó lên đầu tôi… Tôi phàn nàn là mình đã đau khổ! Không, chính thầy tôi mới là nạn nhân và là vật hy sinh!
Con người nằm kia, năm nay vừa bốn mươi tám tuổi! Ông không bị một phát đạn vào sọ, không bị xe cam nhông chẹt phải. Vào năm bốn mươi tám tuổi, ông tắt thở, thật ra chẳng phải vì cái chết quật ngã, mà vì bị cuộc sống làm mòn mỏi. Ông chết vì trái tim bị nghiền nát giữa những trang sách giáo khoa; ông chết vì đã tin ở những cái ngu xuẩn của thế giới bên kia.
Nếu ông đã giữ mình làm một con người tự do, chắc ông vẫn còn đứng dưới ánh mặt trời, ông sẽ có vẻ người anh lớn của tôi! Hai bố con tôi sẽ có thể làm bạn với nhau lắm chứ!
Có tiếng gõ cửa: một người bước vào và nói với tôi.
“Ông đưa bà cụ đi chỗ khác, chúng tôi đem áo quan tới.”
Tôi trao người đàn bà tội nghiệp cho một bà lão hàng xóm, bà kiếm cớ đưa mẹ tôi đi.
“Con sẽ đến với mẹ”, tôi nói – và tôi ở lại chờ những người vận áo đen, họ uể oải bắt tay vào việc.
Vậy thế là hết! Thầy tôi sắp bị đóng đanh nhốt vào kia. Tấm ván kia là cánh cửa của nhà tù vĩnh viễn.
Thầy ơi, vĩnh biệt! Và trước khi chia ta, một lần nữa con xin thầy tha thứ cho con!
Đồng hồ điểm mười giờ! Thời gian trôi nhanh làm sao trong cuộc hội kiến tay đôi trịnh trọng ấy!
Tôi không nhận thấy đêm đã qua và mặt trời đã mọc. Tôi chỉ nhìn vào trong lòng tôi. Tôi không nghe cũng không nhìn thấy giờ phút hiện tại, vì tôi mê mải chiêm ngưỡng dĩ vãng và suy nghĩ về tương lai. Tôi tưởng như người chết cũng đang suy nghĩ, và bầu bạn với tôi trong cơn mơ màng khắc khổ ấy.
Chà! Không phải đau đớn mà là uất giận đến với tâm hồn tôi! Tôi tưởng như người ta đem đi một kẻ bị ám sát!
Tôi, tôi sợ bị chôn đi như vậy! Tôi muốn là đã chiến đấu, đã xứng đáng với những vết thương, đã thách thức nguy hiểm và bọn đô tùy phải rửa tay sau công việc, vì người tôi chỗ nào cũng chảy máu… Nếu cuộc đời của những người nhẫn nhục không dài hơn cuộc đời của những kẻ phiến loạn, thì chẳng thà làm một kẻ phiến loạn nhân danh một tư tưởng và một ngọn cờ!
- Thưa các ngài, khi nào các ngài muốn.
Nửa đêm
Thầy tôi được chôn cất ở giữa những đám cỏ… Chim chóc đã hót chào lúc thầy tôi đến; bên miệng huyệt đầy những hoa… Gió êm dịu làm khô nước mắt trên mi mắt tôi, và đem lại cho tôi những hương vị mùa xuân… Một cây phong ở cách nấm mồ không xa, cũng như một cây ở trước căn nhà tồi tàn nơi thầy tôi ra đời.
Tôi muốn ngồi lại đấy để mơ mộng, nhưng tôi phải đưa mẹ tôi về. Tôi lại xin mẹ tôi, như một đặc ân đau đớn, để tôi được ngồi một mình đối diện với bản thân mình trong căn buồng trống rỗng.
Trên giờ, tất cả kỷ niệm về thi hài người quá cố chỉ còn một nếp nhăn trên khăn giải giường và một vết lõm trên gối.
Tôi vùi đầu nóng bỏng vào vết lõm đó như vào một cái khuôn cho tư tưởng của tôi…
Bây giờ tôi thế nào?
Tình hình tôi ra sao?
Thế này – vì thầy tôi chết chưa già lắm, vì chúng đã giết thầy tôi còn trẻ quá, nên mẹ tôi không có tiền tử tuất mà chỉ có một khoản trợ cấp: bốn trăm phơrăng hàng năm, mà cũng có thể mất lúc nào đó; nhưng thêm vào đó số vốn của món tiền thực lợi bốn mươi phơrăng hàng tháng cho tôi, với khoảng mười lăm ngàn phơrăng giấu trong một xó, hình như thế, mẹ tôi sẽ có quần áo, một chỗ ở và bánh ăn.
Còn tôi, tôi sẽ không còn gì nữa.
Với bốn mươi phơrăng, tôi đã chỉ vừa đủ để khỏi chết đói.
Thế mà tôi đã xoay xở đủ mọi cách đấy!
Chà! Tôi không có gì để tự trách mình cả!
Như con lợn lòi bị dồn vào chỗ bùn lầy, tôi đã lấy mõm sục tất cả mọi chỗ, tôi đã va gẫy nanh vào mọi tảng đá!
Tôi đã dạy BA BƠ BI BÔ BU ở nhà người này, tôi đã ăn mứt nho ở nhà kẻ nọ. Tôi đã hỉ mũi, đã nhét sơ-mi vào quần cho trẻ con: khéo thượng hạng là tôi!
Tôi đã làm công cho nhà Bônacđen và nhà Maya.
Tôi đã làm thi sĩ trào phúng, làm vè và đấu sĩ võ đá. Tôi đã làm đủ mọi thứ có thể làm được khi người ta không có nghề nghiệp – và lại là người cộng hòa!
Tôi còn làm hơn thế nữa!
Tôi cảm thấy một niềm vui cay đắng khi nhớ lại chuyện cũ, khi nhào cái mớ bột đau khổ ngu xuẩn ấy, vào lúc tổng kết đau đớn này.
Tại góc một quán sữa, tôi đã làm quen với một nhân viên của Sở dọn nhà Bayi. Hai người đã ngồi ăn cạnh nhau; ông ta ăn những đĩa tám xu; tôi ăn nửa xuất.
Một hôm, tôi tới tìm ông.
“Tôi có thể làm phụ việc dọn nhà ở Sở của ông kiếm ba phơrăng không?
- Anh ấy à?”
Con người tốt bụng đó hết sức xấu hổ hộ tôi và không muốn tin rằng tôi sẽ ghé vai khiêng những hàng nặng.
“Tôi sẽ ghé vai, và tôi còn khiêng được những thứ khá nặng, tôi tin như thế”
Thế là tôi đã làm phu dọn nhà! Người ta cho tôi mượn một chiếc bludơ, một mũ cát-két, và sai tôi tới Vilét.
Tôi mười lần suýt bị què – điều đó không sao; nhưng tôi suýt làm què đồ đạc.
“Mong rằng ngày mai sẽ khá hơn”, ông ta nói khi trả tiền tôi vào buổi tối.
Ngày hôm sau, tôi đến chỗ làm, người ê ẩm; dưới áo sơmi, vai tôi thâm tím, nhưng tôi nhìn thấy sau những vết tím ấy mấy đồng xu.
Cái số tôi là làm nghề này, tôi sẽ còn bị đứt tay, mà đứt vì một con dao bẩn thỉu!
Tại một nhà nọ, nơi bọn tôi làm việc, một lúc người ta ngỡ bị mất cắp một đồ nữ trang, và chính tôi, tên phu khuân vác tay không chai sẹo, đã bị nghi ngờ và sắp bị khám xét.
May thay, người ta lại tìm thấy món nữ trang.
Nhưng tôi bỏ đi kinh hoảng.
Điều đó không đúng: một cậu tú không thế làm bất cứ việc gì để kiếm miếng ăn! Điều đó không đúng!
Nếu có kẻ nào tới nói như vậy trước mặt tôi, tôi sẽ đáp: MÀY NÓI DỐI! Và tôi sẽ đem những kỷ niệm của tôi ra đập vào mặt hắn. Hoặc tôi sẽ tát hắn thực sự, vì nếu một kẻ vừa thoát khỏi trường trung học nghe tiếng tát tai ấy, có lẽ hắn sẽ được cứu thoát cái ảo tưởng cho rằng với lòng can đảm người ta sẽ kiếm sống được. Ngay cả làm gã thợ nề tập sự cũng chẳng được!
Tôi đã định thử xem sao. Tôi tới Grevô, một buổi sáng, để xem liệu một anh chàng trí thức, có lòng dũng cảm, có thể rời khỏi tầng cao căn buồng của anh ta, đi với đám thợ nề xin việc làm được không.
Thôi đi! Người ta ngỡ tôi là một tên bịp bợm, muốn ẩn nấp dưới vôi vữa.
Người ta không kiếm sống được bằng cách bán thì giờ của mình, bán một tháng, một ngày hoặc một giờ, bằng cách ra bán cái mệt nhọc của mình, vừa gò lưng, vừa nói: “Ít nhất hãy trả công cho cái cử chỉ súc vật của tôi, cái mồ hôi máu của tôi!”
Điều đó, tôi muốn viết nó bằng chữ lớn và thét to lên.
Gã khốn khổ kia, mà người ta gọi là cậu tú, mày đã nghe rõ chưa? Nếu cha mẹ mày không làm lụng hay ăn cắp đủ để có thể nuôi mày cho đến năm ba mươi tuổi như một con lợn vỗ béo, nếu mày không có đủ cám trong máng để ăn trong hai mươi năm, mày sẽ phải chịu một cuộc đời cùng khổ và nhục nhã!
Ít nhất trên con đường khổ ải của mày, dọc theo cống rãnh, mày có thể nói lại với những ai mà người ta muốn lôi cổ xuống đó sau mày!
Mày hãy giơ cái đầu bị tàn phá, phanh bộ ngực lép, phơi trái tim ruỗng hoặc chảy máu của mày ra trước lớp trẻ qua đường!
Hãy làm cho chúng sợ hãi như Đăngtơ khi ở địa ngục về!
Hãy la bảo chúng phải tự vệ và phải lấy răng và móng bám chặt và kêu cứu, khi người bố ngu ngốc định kéo và đưa chúng tới chỗ người ta học những môn cổ điển.
Tôi, thật ra, tôi không phải là yếu đuối.
Anh có thể nói cho tôi biết ngày mai tôi sẽ ra sao không?
Đối với tôi cũng như đối với những người khác, đó sẽ là nhà thương, là Nhà xác, là Sarăngtông[1*]… tôi không đến nỗi hèn nhát như một số người và tôi rất có thể phải vào tù.
Một buổi tối đau đớn và giận dữ nào đó, tôi là người có thể ở giữa phố chặn một tên lính hoặc một tên mật thám đánh cho nó đổ máu, để có thể ra giữa Tòa đại hình khạc nhổ sự khinh bỉ của tôi vào mặt xã hội…
“Jac!”
Mẹ tôi gọi.
Mẹ tôi bảo tôi ngồi xuống bên cạnh.
“Con nghe đây: ở ngoài nghĩa địa, ông hiệu trưởng đã tới gần mẹ trong lúc con đang nhìn cây cối và bứt hoa… con có nhớ không?… trông con như một thằng điên!”
Tôi có nhớ. Trong lúc đất đổ xuống quan tài, tôi nghĩ tới cuộc đời đồng áng… bị ruồng bỏ để đổi lấy nhà tù đại học!
Mẹ tôi nói với tôi những điều mẹ tôi muốn nói.
Tôi kêu lên một tiếng và có một cử chỉ xúc phạm và làm mẹ tôi đau đớn.
Mẹ tôi òa lên khóc. Tôi quỳ xuống chân mẹ tôi. Tôi kéo đầu mẹ tôi lại và uống những giọt nước mắt đổ trên đôi má trắng bệch của mẹ.
Mẹ tôi muốn nhận lỗi về phần mình.
“Lỗi tự mẹ, con ạ, lỗi tự mẹ… Nhưng, con thấy đấy, một đôi khi con đã gửi từ Pari về cho mẹ những lá thư làm mẹ đau lòng biết mấy! Khi con hỏi xin thầy con đặt một khoản mua chịu ở hiệu bánh mì, hoặc ứng trước cho con ít tiền để con chắc chắn có một chỗ ngủ đêm… Ông hiệu trưởng bảo rằng con chỉ cần ở lại đủ thời gian để thi đỗ cử nhân, rồi con sẽ học thi tiến sĩ, khi ấy con sẽ được tự do – và mẹ sẽ yên tâm là con sẽ không khổ nữa…”
Tôi để mẹ tôi nói.
Đêm đã khuya lắm khi tôi đưa mẹ tôi về buồng, ở đó tôi trông thấy ngọn đèn còn cháy trước những lá thư vàng khè mà mẹ tôi đọc lại.
Tôi, tôi đứng tựa cửa sổ, và tôi suy nghĩ, đầu quay về phía nghĩa trang.
2 giờ sáng
Tôi đã quyết định: TÔI ĐẦU HÀNG.
Có lẽ rồi tôi sẽ chẳng ra gì.
Tôi nhớ lại một buổi tối sau hồi tôi đã uổng công thử làm việc tại các nhà tư sản. Một người láng giềng ở nhà trọ, một cựu sĩ quan bị thải hồi, đã để quên một khẩu súng lục ở buồng tôi. Nòng súng lấp lánh dưới ánh trăng, mặt tôi không sao rời được khỏi khẩu súng. Tôi nhìn thấy bóng ma của tự sát! Và tôi phải nắm chặt lấy cuộc sống bằng cả hai tay: nhảy tới khẩu súng, quay mặt đi mà vồ lấy nó, chạy vụt sang ông hàng xóm!
“Mở cửa! Mở cửa!”
Ông mở hé cửa, và tôi quăng khẩu súng trên tấm thảm trong buồng…
“Ông cất nó đi, kẻo tôi tự sát mất…”
Tôi muốn sống, - Như gã mô phạm kia đã nói, có học vị tôi sẽ đạt: tú tài thì chết đói – tiến sĩ thì có thể có suất ăn ở cửa hàng xúp.
Tôi sẽ phản lại tất cả những lời tuyên thệ bất phục tùng của tôi! Mặc! Tôi cần cái công cụ làm ra miếng bánh.
Nhưng rồi mày sẽ phải trả nợ cho chúng tao, cái xã hộ chó má! Mày đã làm những người có học và những người can đảm bị đói khi họ không muốn làm tôi tớ cho mày! Được! Không mất gì, mày cứ chờ đấy!
Tao sẽ rèn rũa công cụ, nhưng tao cũng sẽ mài sắc cái vũ khí một ngày kia sẽ làm cho mày đổ máu! Tao sẽ ăn ở gà-mèn của mày để lấy sức, tao sẽ tập luyện để giết mày – rồi tao sẽ xông thẳng vào mày như đã xông thẳng vào Lơgrăng, và tao sẽ làm cho mày què cẳng như anh ta!
Đàng sau tao, có lẽ sẽ có một lá cờ, với hàng vạn kẻ nổi loạn, và nếu ông thợ già còn sống, ông sẽ hài lòng! Tao sẽ trở thành cái mà ông đã mong ước: người chỉ huy những kẻ mặt áo rơđanhgốt xếp thành đội ngũ chiến đấu bên cạnh những kẻ mặc áo bludơ…
Dưới mái rạp Ôđêông
Những gã gót giầy đen và những người cộng hòa xen lẫn với nhau.
Người ta chen nhau xung quanh một lão sống lang thang vừa nhận được một tin.
“Các bạn còn nhớ Vanhtrax không, cái thằng toàn nói chuyện nện giáo sư và muốn đốt trường học ấy?…”
- Có…
- Thế đấy! Nó đi làm giám thị rồi.
- Quân hèn mạt! HẾT