Chương 20 .
Vườn tược hầu như chiếm cả khu nhà của gia đình Parker. Đó là một loại vườn lộn xộn. Bà Parker say sưa trồng một bụi cây mà trước đấy bà đã nhìn thấy ở đâu đó và khát khao muốn có; bà đã trồng và rồi quên bẵng đi. Sau bỗng nhiên nó phát triển, tràn khắp chung quanh. Cơ man là hoa, là lá chằng chịt nhau trong khu vườn. Các bụi cây đua nhau nở hoa. Đôi khi bà Parker từ trong nhà đi ra và nóng nảy gạt các cành lá sang một bên, rồi đứng nhìn. Làn da nâu nhăn nheo phía mắt bởi những ngày dưới ánh mặt trời. Da bà thô ráp. Cành cây, bụi rậm vướng vào tóc bà và kéo nó ra. Lắm khi rối bù lên, nhưng biết làm thế nào? Bà luôn luôn cào và vuốt mớ tóc xuống với bàn tay nâu mang chiếc nhẫn xỉn màu. Bàn tay của bà hơi thô cứng nhưng đáng yêu. Ai cũng muốn nhìn vào đó.
Và họ muốn nhìn bà, khi vừa ló ra từ trong các cành trúc đào luôn bám bụi, mỗi mùa hè, hoặc khi bà rẽ, vạch các nhánh chè tìm chỗ ghép cành. Đôi khi bà Parker ngắm những người qua lại trên đường, nhưng bây giờ bà không nói chuyện với họ, chẳng nói mấy. Bà lặng lẽ quay trở vào nhà, leo lên các bậc cấp cẩn thận, thường khoác một chiếc áo len đan quanh thân hình đẫy đà, luôn nở nang hơn ở phần hông. Rồi bà đi vào trong nhà, một người đàn bà khá bí mật vào ngôi nhà màu nâu, không thể tách biệt khỏi khu vườn, khỏi phong cảnh xung quanh.
Ngôi nhà chưa hề có một cái tên nào. Ban đầu nó chẳng cần. Người ta biết đó là nhà vợ chồng Parker và cứ giữ nguyên như thế. Chẳng một ai trong vùng Durilgai, chẳng một ai trong các quận lân cận có thể nhớ hồi gia đình Parker chưa dọn đến. Mọi người cho là đương nhiên và chẳng bao giờ nhìn đến nó. Nhiều người nghĩ nó xấu xí. Dẫu sao nó cũng cũ kỹ và đã ngả màu nâu, chẳng có kế hoạch gì hơn là để nó tùy ý.
Tuy vậy ông Parker đã trông nom sửa sang khá gọn gàng. Ông giữ các máng rãnh luôn sạch, gỗ luôn được sơn lại và thay các tấm ván bị mối xông. Ông là hạng người tận tâm. Chậm chạp. Nom ông to lớn, mỗi khi ông leo lên dốc từ chỗ đàn bò hay đánh luống trồng ngô. Bây giờ ông phải mang kính, và nhớ lại cái ngày mới mang đôi kính nhỏ, gọng kim loại, vì bị đau đầu dữ dội. Thật là của nợ, nó bị gãy. Ông phải dùng chỉ bôi sáp buộc lại. Nhưng đôi kính bỗng hợp với khuôn mặt ông. Ông leo dốc cùng mấy cái xô, gật mạnh đầu chào mọi người, cả những người không quen biết để qua ngày. Mọi người mến ông. Nom ông rất trung thực.
Một ngày mùa đông, khi công việc ở trại đã thư thư, Stan Parker đi đến nhà Joe Peabody giúp anh ta rào cái vườn. Chàng trai Peabody vừa mua được cái nhà này ở Hungerford, nhưng vẫn chưa đâu vào đâu, gặp hết chuyện này đến chuyện nọ. Có năm anh ta bị gãy chân, có năm bị bò húc. Rồi đến bà mẹ vợ ốm, bà bị chứng đau tim, vợ chồng anh phải trả tiền cho bác sĩ chuyên khoa. Peabody đã lấy một cô em họ, bởi vì dạo ấy quanh đó chẳng có mấy con gái. Nhưng cô ta ngoan và khỏe mạnh, họ sinh con đẻ cái ở một bên của cái màn bằng bao tải ngăn đôi họ với bà mẹ vợ. Lũ trẻ làm anh vướng chân vướng cẳng, dù sao cũng chỉ nhất thời nhưng anh rất vui vẻ, đến nỗi chẳng ai nghĩ đến chuyện thương hại anh cả.
Stan Parker thỉnh thoảng cũng lên trên đấy, vì Peabody vẫn hay nhờ việc này việc nọ và hỏi ý kiến ông. Vì thế ông già rất thích chàng trai. Tình bạn bất ngờ này khiến ông cảm thấy khoan khoái và phấn chấn trong lòng.
Ông đang chuẩn bị đi giúp bạn rào vườn như đã hứa, đang tìm và mang cọ chiếc xà beng, bởi ông không thích dùng dụng cụ của người khác, thì vợ ông đến bên nói:
- Anh sửa soạn đi lên nhà Joe Peabody đấy sao!
Đó là một câu khẳng định, không phải một câu hỏi. Và bà đứng đấy, hai tay cho vào túi áo khoác len, nhìn chồng cọ rửa dụng cụ. Stan không trả lời, chỉ ậm ừ xác nhận, sống với nhau bao nhiêu năm rồi nên bà đã dịch được.
Cách đây một vài năm Amy Parker bực bội với quan hệ này giữa hai người. Bà phàn nàn là anh chàng ấy chẳng bao giờ nói thẳng với bất kỳ ai, mà chỉ đứng nghếch sang một bên. Đúng thế thật. Chàng trai Peabody rất ngại vợ bạn mình. Thế là Amy Parker bỗng đâm ghét hình thù cái mũi của anh chàng, và nói linh tinh chuyện này chuyện nọ về cô vợ trẻ của anh ta. Ôi dào, chẳng qua cũng chỉ là một cái máy đẻ, bà nói như vậy.
- Em không thích cậu ấy. Tại sao? - Stan hỏi. - Cậu ấy chẳng làm hại ai cả.
- Em không ghét cậu ta, - bà vợ ngạc nhiên nói. - Nhưng em không thể ưa nổi. Anh hiểu em định nói gì rồi.
Người chồng chẳng hiểu gì cả, hoàn toàn không.
Thế rồi Amy Parker nhớ lại chiếc ca-vat màu xanh mà Joe Peabody đeo vào cái ngày hôm ấy, vì thế bà chẳng bao giờ tha thứ cho anh ta. Đó là một cái màu sáng chói, như tố cáo người khác mà đàn ông chẳng nên đeo. Hoặc giả lúc đó bà chưa kịp chuẩn bị. Bà đã bị tố cáo.
- Em chẳng thù ghét gì cậu ta cả. - Bà nói, giọng quả quyết.
Nhưng rồi chồng bà vẫn tiếp tục đến chơi với Joe Peabody, và rồi bà cũng chấp nhận tình hình này, vì phần lớn tình hình cuối cùng đều được chấp nhận.
- Em không chuẩn bị bữa trưa cho anh đâu. - Bà nhìn chồng thu xếp dụng cụ, vừa nói.
- Đúng rồi. - Ông trả lời. - Họ chẳng thích thế đâu.
Bà nhìn cái đầu của ông. Chà, bà nhủ thầm, mình rất mến anh ấy. Nó dễ chịu hơn tình yêu.
Khi ông đứng thẳng người lên, và rõ ràng sắp sửa lên đường, một tình cảm yêu thương tha thiết tràn ngập lòng bà vì tất cả hành động của ông; bà cọ tay áo vào người ông và nói:
- Thế anh không hôn em sao?
Ông cười vang rồi hôn vợ, nhưng rất vụng về, với đôi môi khô khốc.
Vì môi bà ướt hơn nên bà nghĩ rằng mình tha thiết hơn. Thậm chí bà còn yêu ông nữa. Dĩ nhiên bà yêu chồng. Ông đang đi khỏi sân với đống dụng cụ nặng nề.
Rồi Amy Parker nhìn chồng nổ máy ô tô, một trong số những cái ô tô cũ, và lái đi, lưng thẳng đờ. Trong ngôi nhà mà lúc này bà thấy vui mừng được sống một mình, mặc tình thương yêu của bà hoặc có thể vì tình thương yêu đó, sự thanh bình dường như có thể đạt tới được. Thế là bà miệt mài, khéo léo lau chùi bàn ghế giường tủ trong nhà cho đến khi màu gỗ hồng tâm lâu năm thắp sáng ngày đông tháng giá. Rồi bà nhìn ra cửa sổ ngắm những lá cỏ lóng lánh, những cây keo vừa mới đâm chồi ở lưng chừng đồi. Lúc này, ít nhất bà chỉ đòi hỏi những cái gì bà biết.
Trong buổi sáng thanh bình ấy mọi người đều ngồi thoải mái, điều đôi lúc có thể thực hiện được vào những ngày đông yên tĩnh. Còn Stan Parker, đang lái xe chạy dọc con đường sỏi đá về hướng nhà Peabody, cũng vui mừng được tắm mình trong buổi sáng đó. Ông đã lái xe qua nhiều chỗ ông từng quen thuộc, trẻ con không nhận ra ông, mấy con bò giương mắt nhìn ông, một chú gà trống lông cánh sặc sỡ bay vút lên nóc nhà và đứng ở đó, dáng oai vệ.
Cuối cùng xe đã đến nhà Peabody, người chủ trại trẻ tuổi từ trong lán, nơi họ ở, chạy thẳng ra qua lũ trẻ và chó, tiếng hét và tiếng sủa. Hai người đàn ông, một trẻ một già, sải bước dài trên sương ướt đến chỗ dãy hàng rào đã dựng được một phần.
Họ bắt tay ngay vào việc, đào lỗ chôn cọc trong đất đỏ, mấy con chó chạy đánh hơi trong đám cỏ tìm thỏ. Vì nhờ ông hàng xóm làm không công nên anh chàng Peabody thấy mình buộc phải làm vất vả gấp đôi. Nếu không thì anh phải làm tất.
- Bác Stan, cho cháu cái xẻng. - Anh ta nói, sau khi ném cái xà beng xuống đất.
Nhưng Stan không thích như vậy. Đến lượt ông, ông cầm chiếc xẻng và hất tung đất lên.
Cứ như thế họ làm việc, tôn trọng nhau như hai kẻ cuồng dại.
Trời càng nóng và oi ả, một con diều hâu đen là là bay trên bầu trời quang đãng. Peabody cởi phăng áo, nhổ nước bọt vào hai bàn tay, rồi tiếp tục làm cật lực.
Stan Parker, vẫn mặc áo sơ-mi, ngắm nhìn thân hình của chàng trai, một thân hình cường tráng, đầy sự lãng quên và tự tin của một thân thể trẻ trung, trần trụi. Thế là ông mơ màng nhớ lại cái thời xa xưa trong khi đẵn cây và đào đá. Nhớ lại những kỷ niệm xưa, miệng ông nở một nụ cười mỉa mai. Ông còn nhớ lại được cái thời chỉ cần làm hàng rào chung quanh, đám đất sẽ là của ông. Niềm tin ấy biểu lộ rõ trong đôi mắt trong của chàng thanh niên vạm vỡ, người đang luôn tay đào lấp loang loáng như dao với sự tin tưởng mãnh liệt.
Cuối cùng hai người gặp phải một cái gì đó làm rung cả xương sườn của Peabody. Anh đứng đấy hồi hộp, thân hình bóng lộn như xoa dầu.
- Cái này đúng là chết người đây, - anh nói, bỗng thấy hoài nghi trong chốc lát. - Có khi phải cho nổ mìn.
Rõ ràng hai người đang đào quanh một tảng đá to vô tận.
- Đá à? - Stan Parker mỉm cười nhìn cái hố khá lâu, rồi nói tiếp - Còn có hòn gay hơn cơ. Ta quyết không chịu thua nó, một hòn đá choắt kia.
Ông cầm chiếc xà beng.
Joe Peabody đứng hai tay chống nạnh, thầm hy vọng ông già sẽ xử lý được việc này.
Stan Parker bắt đầu. Thanh xà beng rung lên khi đập mạnh vào đất, chẳng biết vì khinh miệt hay hy vọng. Ông tiếp tục. Phải chăng căm thù đang tuôn trào khỏi hai cánh tay ông? Chỉ biết ông đã phá lên cười một, hai lần. Một đôi lần tảng đá tóe lửa, những vết thương màu xám hiện ra. Thân hình khô khốc, mảnh mai của ông đang chọi với tảng đá ngoan cố. Ông nhớ ra ở dưới đáy rãnh có một dòng nước màu nâu, vào những ngày mát mẻ chảy từ trong lòng đất ra, và những dây thổ phục linh màu đỏ tía xoắn chặt lấy những bụi gai màu xám. Thình lình ông gập người lên trên chiếc xà beng, ép bụng vào đầu cán, mang hết sức mạnh và trọng lượng đè lên.
Tảng đá trong hố chuyển động.
Ông lôi xà beng ra và chọc liên tiếp vào các góc, sau khi thấy một chỗ yếu. Tảng đá nhô lên, hình dáng hiện ra rõ nét.
- Tuyệt quá! - Peabody vốn rất khâm phục ông bạn già hét lên - Sao bác làm được vậy!
Stan Parker mỉm cười.
Mặt ông hơi tái đi. Ông buông thanh sắt xuống, nó rơi đánh keng xuống đất. Người ta thoáng có cảm giác là chính người đàn ông này, mặc dầu vẫn đứng vững, cũng giống như tảng đá, đã bị loại bỏ. Sương mù màu xám trôi lơ lửng trong nắng sớm. Ông cảm thấy buồn nôn. Hơi thở dồn dập. Chứng đau lưng hay gì đó.
- Bác làm sao thế, bác Stan? - Chàng thanh niên tiến lại gần, sờ vào người ông bạn già. - Làm vừa thôi bác ạ. Bác có thấy trong người khó chịu không?
Anh ta rất lo lắng.
Stan Parker dụi mắt, đưa tay che kín gương mặt bối rối của mình. Toàn thân ông run lên cầm cập. Nhưng khi ông bỏ hai tay khỏi mặt, điều mà ông phải làm, ông lại mỉm cười và nói:
- Tôi chẳng làm sao cả, Joe ạ. Tôi không còn được khỏe như trước, thế thôi.
Chàng thanh niên nhìn ông già và nói:
- Bác không nên làm quá sức ạ.
Giờ anh hài lòng nắm quyền điều khiển, khi tảng đá đã hoàn toàn bị bẩy lên khỏi mặt đất, anh lệnh cho Stan ngồi lên trên, và Stan đã làm theo.
Stan ngồi đấy trong buổi sớm mai đẹp trời, đưa tay sờ nắn cái cổ đầy sụn và hai bên xương sườn già yếu. Nếu ông có thể đặt tay được lên linh hồn của mình xác định hình dáng, tuổi tác, độ cứng và độ bền của nó thì ông đã làm. Vì chẳng làm được nên ông cảm thấy xốn xang trong lòng, cảm thấy mình không tồn tại nữa, mặc dù ông vẫn mỉm cười trong cơn mệt mỏi lơ mơ, nhìn chàng thanh niên làm việc theo nhịp độ bình thường, bởi chẳng còn ai cạnh tranh nữa, lắng nghe ông góp ý về việc làm hàng rào, điều với người nghe bắt đầu có vẻ là chắc chắn chứ không phải huênh hoang nữa.
Lát sau, một chú bé con chạy trên mảnh đất bị giày xéo, nó chạy hơi quá nhanh so với sức, nhưng buổi sớm mai đẹp trời đã thôi thúc nó. Hai bàn chân đi đất chạy thình thịch, đôi chân đầy vẩy sẹo loáng loáng, nó chạy đến gần. Nó cầm một mẩu vỏ bánh mì mà đã thôi không nhai, một miếng vụn còn dính trên đôi má ửng đỏ.
Nó đến và lắp bắp điều gì đó.
- Cháu nó nói cái gì thế? - Stan Parker bây giờ đã già rồi không nghe rõ.
- Nó bảo mẹ đã làm cơm trưa xong. - Ông bố trả lời, tranh thủ xúc thêm mấy xẻng đất nữa, theo nguyên tắc.
Chú bé đứng nhìn Stan Parker, vẻ trầm ngâm, chỗ vụn bánh vẫn còn dính trên má.
- Ông Parker làm sao thế hở bố? - Chú bé hỏi. - Tại sao ông không làm việc?
- Không việc gì đến con. - Joe Peabody nói. - Ông nghỉ tay một tý.
Ông bố trẻ mặc áo. Anh có một vệt lông nhỏ, đen chạy suốt từ ngực đến rốn, chia thân hình làm đôi. Anh không để ý nhiều đến thằng bé mà anh đã sinh ra nó trong túp lều tăm tối. Anh coi điều đó là nghiễm nhiên, đặt tay lên lưng người bạn, nói:
- Nhanh lên bác Stan. Chúng ta phải kiếm gì cho vào bụng chứ.
Thế là Stan được dắt đi, ông cảm thấy hài lòng. Thằng bé vừa nhảy lò cò đằng trước vừa nhá mẩu bánh mì, rồi quay ngoắt lại, nhảy lùi về phía sau để nhìn cho rõ, đoạn kêu lên:
- Thế ông Parker ốm à?
Ngay khi bị bố nó đập vào người, thằng bé hét lên vờ khóc, đùa nghịch khoái trá, và bố nó cũng thích vậy.
Trong cái lán đông đúc, mà người vợ trẻ vừa cho đứa bé nhất ăn xong, họ ngồi xuống dùng món hầm có lõng bõng vài ba miếng cà rốt. Trên cái đĩa của hai người đàn ông có một đống khoai tây.
- Tôi đoán các ông đói lắm. - Cô Joe Peabody nói, cô có nước da bánh mật, mang nét mặt rạng rỡ, vui vẻ, vì mọi điều.
- Ông Parker, ông ăn khỏe vào nhé. Mẹ tôi và tôi dùng đủ rồi.
- Hôm nay tôi ăn không ngon miệng. - Bà cụ nói. Cụ cũng tên là bà Peabody. - Ông Parker cũng vậy, tôi chắc thế. Chỉ có cánh trẻ là ăn như hùm. Cũng may mà còn có khoai tây.
- Tôi chẳng bao giờ bỏ bữa cả. - Stan Parker nói, mặc dù lúc này ông chẳng thể nhìn nó được.
- Cái gì đến thì sẽ đến thôi - bà cụ Peabody nói với vẻ kinh tởm. - Ông không còn trẻ nữa, tôi nói thật đấy, chẳng có ý gì đâu.
Ông khách hoàn toàn không thể tự vệ. Một vài đứa trẻ thôi không còn kính trọng ông nữa.
- Kìa, mẹ đừng nói đến chuyện ấy. - Người chủ nhà nói, mồm đầy thức ăn. - Để cho mọi người được yên.
- Bà không ăn được kẹo nữa. - Người con gái nói, đưa mắt nháy ông khách.
- Các người đừng có mà bắt nạt tôi. - Bà cụ than vãn, tóc dựng lên từng túm hoa râm trên làn da nhăn nhúm. - Tôi đã nuôi bảy đứa con gái, đứa này nối đứa kia chuyển tôi đi. Như một gói hàng.
- Mẹ thế là may lắm, - vợ Peabody nói - mới sinh được nhiều như thế. Nếu không thì mẹ chẳng được lâu như thế. Chắc chắn cái gói đã rơi rụng rồi.
Chị khẽ đập vào lưng mẹ một cách hóm hỉnh và trìu mến, khiến bà cụ bật khóc, vì mọi ân huệ bà nhận được, rồi đi ra qua bức rèm bao tải, đến góc phòng bà sống.
Một lát sau Stan Parker gạt đĩa sang một bên.
Vợ Peabody nhìn mấy củ khoai tây lềnh bềnh trong món hầm.
- Kìa, - chị nói, nhưng không tiếp tục nữa.
Chị có ý nghĩ rằng người bạn của chồng là một đối tượng phải được che chở, vì thế chị vòng tay qua người ông để lấy cái đĩa, và khi chị lướt qua người ông, Stan Parker cảm thấy sự che chở ấm áp của chị.
- Tôi sẽ pha cho ông một chén trà. Ông sẽ thích uống trà thôi. - Vừa nói chị vừa quay lại phía ông già.
Stan Parker cảm thấy nhục nhã, không phải vì trước nay ông vốn là con người kiêu hãnh. Mà ông xấu hổ nhìn hai đầu gối quần, và nhìn cái nền đất nhà Peabody, nơi có một khuôn mặt trẻ con đang nhìn ông chằm chằm. Đến cuối đời, ông lại bị đứa trẻ trong sáng lôi cuốn. Ông muốn nói với nó một điều, nhưng nó ở xa quá.
- Trà đây ông, - người mẹ trẻ nói, đặt chén nước trà đầy tràn lên bàn. - Có đường đấy. Ông tự cho đường nhé. Đừng giục ông, anh Joe ạ. Để ông lão thưởng thức một chén trà ngon.
Chẳng ai thúc giục Stan Parker nữa. Đôi môi chậm chạp của ông nhấm nháp chén trà. Ông ngồi trao đổi những chuyện xa xăm, rồi đi cùng Joe đến chỗ hàng rào, nhưng công việc tiến hành mà không có ông tham gia. Suốt chiều hôm ấy ông thơ thẩn, và trong thâm tâm Joe cảm thấy hài lòng, anh nhủ thầm: “Ông lão đã trở thành của nợ rồi, chẳng còn làm được mấy, nhưng là một ông lão tốt bụng”.
Khi Stan Parker về đến nhà, vợ ông nói mà không ngẩng mặt lên nhìn.
- Anh về sớm thế?
- Ừ, anh thấy khó chịu trong người.
- Sao, khó ở à?
Bà giật lùi, tuy ông không đánh đập gì.
- Chả là bọn anh cố bẩy một tảng đá để đóng cột, bỗng anh cảm thấy mình yếu như một đứa trẻ. Lúc đầu chỉ hơi chóng mặt. Song cứ thế mãi không dứt. Hôm nay anh không được tích sự gì, Amy ạ.
Nhưng đến tối ông trở lại là người đàn ông khỏe khoắn và lạc quan. Dưới ánh sáng gay gắt của ngọn đèn điện trong gian phòng vuông vắn, hai người vui vẻ đùa nhau về tuổi già. Ông lại khỏe đến mức mà có lúc bà đấm một cái vào người chồng.
- Ta nên bán mấy con bò khốn kiếp kia đi. - Bà nói. - Suốt đời ta làm cái gì nào? Chỉ lặn lội lên xuống con đường mòn kia để vắt sữa một đàn bò khốn khổ.
Bà theo dõi xem ông lão có xót không. Nhưng ông vẫn bình chân như vại.
Sau khi phơi chiếc khăn ướt lau bàn cho khô, bà đến cạnh ông. Mùi hương từ khoảnh vườn lạnh giá lùa vào qua cửa sổ, mùi hoa thanh thảo và hoa violet đầu mùa. Hôm ấy bà đã chải tóc thật mượt để cho ông thấy, hoặc nhớ lại nhan sắc của bà. Hai người hôn nhau, khá mãnh liệt, và cả hai đều cảm thấy dễ chịu khoan khoái với cái ảo tưởng là thể xác họ đã trở lại như xưa. Người đàn ông may mắn thiếp ngủ trong ảo tưởng kia, còn người đàn bà nằm thao thức lâu hơn trên chiếc giường họ đã nằm ngủ suốt đời, không rõ vì biết ơn hay tò mò bà đưa tay sờ nhẹ đầu ông.
Bà sờ cái sọ của ông, vì hình như trong giấc ngủ da thịt đã tiêu biến. Ông không phản đối nhưng nằm xa ra thở. Một lát sau bà cũng ngủ thiếp đi trong khuôn khổ gò bó của ngôi nhà. Lần này đến lượt bà ráng sức bẩy tảng đá đang nằm bên cạnh bà, nặng nề trên giường.
Ban ngày, dĩ nhiên, lấy lại sự tin cậy vào thể xác hoàn toàn chẳng khó khăn gì. Trong những ngày đông thanh bình, vào lúc xế trưa yên tĩnh, Amy Parker thường ngồi ở hành lang phía trước ngắm nhìn cảnh vật từ sau giàn nho và những thân già cỗi của một khóm hồng phải vứt bỏ đi, vì chiếm quá nhiều chỗ và đã quá già. Khi ấy bà ngồi ngóng chờ một cái gì sẽ xảy ra, tuy phần lớn chẳng có gì.
Trừ một hôm, vào tháng Sáu, một cơn gió lạnh thổi rạp những lá cỏ trong vườn, ánh nắng yếu ớt chưa chiếu đến mục tiêu thì đã tan biến, nhưng hôm đó một chiếc ô tô đi qua, một chiếc ô tô nhỏ, gọn gàng, được lau bóng với niềm tự hào và sự cẩn thận. Bà Parker uốn cong một cành cây xuống để nhìn. Xa quá bà không thể nhìn được chi tiết. Mắt bà ngày càng yếu đi. Bà không thể. Chỉ thấy có một phụ nữ bước ra, nhìn quanh như để tìm kiếm một lời xác minh. Người ấy mặc áo lông đen.
- Xin bà bảo giùm, - người phụ nữ gọi to, sau khi dừng xe lại, - có phải bà Parker ở đây không?
- Xin lỗi bà. - Bà Parker thận trọng trả lời.
Bà chưa muốn xuất đầu lộ diện, xem sao đã.
- Trước kia có một bà Parker. - Người phụ nữ đứng yên nói, giọng bà ta vang lên và lạc lõng trong chốn thôn quê giá lạnh mà bà vừa dừng xe lại.
Bà ta đã già như thế mà còn lái xe đi xa thế này, Amy Parker nghĩ thầm.
- À, vâng, có đấy. - Bà nói, rồi cân nhắc, hắng giọng.
Người phụ nữ này có một gương mặt vàng vọt, giống xà phòng. Giọng bà xoáy vào người Amy Parker, như bới tìm một cái gì.
- Thế bà không phải là… - người phụ nữ nói, - đúng bà là bà Parker rồi phải không?
Bà Parker đỏ mặt.
- Vâng, - bà nói - bà Gage đó phải không?
- Tôi không nhận ra bà, - bà Gage nói. - Bà béo ra nhiều quá.
- Bà cũng đẫy ra đấy. - Bà Parker nói, vừa đưa mắt nhìn phong cảnh chung quanh.
Nhưng hình như bà hài lòng về điều bà nhìn thấy.
Rồi cả hai cười vang lên, tiếng cười vút cao, nghe như tiếng vợt gỗ mỏng đập vào nhau trong không khí.
- À, tôi làm gì có chuyện ấy. - Bà cựu trưởng trạm bưu điện nói, sau khi hai người đã cười đến mệt cả người.
Amy Parker ngắm nhìn khuôn mặt kia, khuôn mặt vàng vọt và linh hoạt kỳ lạ, như đong đầy nước xà phòng. Bà thấy bà Gage đã thoải mái trở lại, và hy vọng bà cựu trưởng trạm bưu điện sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện. Ngay sau đó bà ta kể thật, vừa lấy ngón tay mân mê những núm cửa bằng kền của chiếc ô tô con, và mơ màng hồi tưởng lại quá khứ.
- Khi tôi làm đơn xin chuyển khỏi Durilgai, - bà nói, - sau khi ông Gage tự sát, như bà biết đấy, tôi được cử đến Winbin.
Ở cái quận miền nam khủng kiếp ấy, băng đóng răng rắc trên vũng nước mưa. Có thể nghe thấy tiếng. Có thể nhìn thấy trận mưa vàng vọt, dầm dề đổ xuống thung lũng và quật mạnh đám cỏ vàng. Ở đấy có con đường với cái lò rèn và quán rượu. Có một lần đã xảy ra án mạng, nhưng đã là nhiều năm trước rồi, và chẳng bao giờ xảy ra nữa. Văn phòng màu nâu, dựng trên những cái cọc, trên thùng phuy rỗng và ghế gãy, gió đã làm xiêu vẹo một vài đồ gỗ. Trong căn phòng màu nâu mà bà Gage đứng có mùi bếp lò và mực viết khô. Mực, cặn mực thì đúng hơn, thường xuyên đóng băng, khiến người ta chẳng muốn chấm vào. Thứ mực đông lạnh ấy chỉ làm người ta phát kinh. Vì thế bà Gage, vừa xoa chỗ bị cước vừa lắng nghe tiếng sột soạt của cánh tay áo bằng giấy nâu, đã đưa cho mỗi người một cái bút chì.
- Ở Winbin tôi gầy hẳn đi, - bà trưởng trạm bưu điện nói. - Thật sự cũng vì ông Gage qua đời theo cách đó. Từ ấy tôi bị căng thẳng thần kinh. Rồi bắt đầu gặp khó khăn với giấy má. Bà có thể tin được không, tôi chẳng biết mấy tập tem để đâu mất? Chán nhất là thỉnh thoảng khi ghi điện báo tôi ngã lăn đùng ra, mà tôi tỉnh, thế mới phiền bà ạ. Tôi nghe rõ tiếng bút chì nảy trên bàn gỗ. Tôi nom thấy rõ cái trần nhà trên cao. À, nhiều người không thích chuyện đó. Bởi vì họ không biết phải làm gì khi một người ngã xuống. Vì thế tôi xin thôi việc.
Bà Gage lấy mùi soa chấm nhẹ môi. Cuộc đời bà qua lời kể luôn luôn cỏ vẻ chân thực.
- Ông Goldberg bảo tôi: “Đã đến lúc rồi đấy. Nếu không thì bao nhiêu thông tin có giá trị sẽ mãi mãi mất đi.” - Bà Gage nói.
- Ông Goldberg? - Amy Parker hỏi, hai tay vòng trước ngực, tựa như cẩm thạch.
- Lúc nào đó tôi sẽ kể cho bà nghe. - Bà trưởng trạm bưu điện nói. - Khi tôi về hưu và rời Winbin, tôi đến nhà bà Small, người chị em họ ở Barangoola. Bà ta tốt với tôi đến phát sợ, mùa đông ăn xúp, mùa hè cá nấu đông. Bà ta phải tật nói lắp, thật khổ thân, vì hồi con gái bị bỏng nước sôi. Bà biết đấy, Barangoola là một nơi nghỉ mát, vào những dịp đông khách bà Small có nhận một, hai người ở trọ. Do đó chúng tôi quen ông Goldberg, một con người phong nhã, có học vấn, ông đọc rất nhiều sách và còn làm thơ, ông cho tôi xem một vài bài, rất hay.
Vào những buổi tối mùa hè, trên cái đê chắn sóng, mà thực chỉ là một đập đá nhọn hoắt, chẳng ra sao, nhưng được cái kín đáo, ông Goldberg ưu ái lắng nghe câu chuyện rủi ro của bà Gage. Ông lắng nghe tiếng tảo biển sột soạt và ngắm những cái mõm của mấy con hải quỳ, thỉnh thoảng cho chúng một con cua. Đôi khi ông Goldberg ngẩng đầu lên tựa một con ngựa và như muốn hí lên trước cơn điên của chồng bà Gage.
- Bởi vì, dĩ nhiên, - bà nói, - tôi phải kể lại cho ông ấy nghe tất cả chuyện đó. Nhưng thoạt tiên tôi không cho ông ta xem các bức họa mà tôi đã mang từ Durilgai đến Winbin, rồi từ Winbin đến Barangoola, buộc bằng một sợi dây thừng, vì tôi hầu như chẳng biết làm gì với chúng.
- À, - bà nói vừa nhổ nước bọt, - nếu cuối cùng mà tôi đưa cho ông ta xem các bức họa thì sự việc đã xảy ra như thế này. Một buổi sáng, chúng tôi ở ngoài thành phố, trên đường đi đến thư viện cho mượn sách mà ông Goldberg đỡ đầu, thì một người tiến đến gần, một người ông ấy quen, hình như thế, họ cùng quen nhiều người với đủ kiểu tên khác thường. Người đó đứng lại nói chuyện một lát lâu, nhưng nhìn tôi và mỉm cười, rồi lại nhìn, tuy nhiên theo kiểu một quý bà sang trọng. Dĩ nhiên, tôi nhìn vào một cửa hiệu vì tôi biết rõ hoàn cảnh của mình. Thế rồi bà ta đến gần tôi, bà ăn mặc rất trang nhã, cầm hai tay tôi, hết sức kích động. “Bà Gage,” bà ta nói, “chính là bà, tôi cứ phân vân mãi, những bức họa chồng bà vẽ thật sự đã ám ảnh tôi bao nhiêu năm nay”. Bà chẳng bao giờ đoán được đâu, chẳng ai xa lạ mà chính là bà Schreiber, người đã ở đấy vào cái hôm ông Gage qua đời, đã xem những bức họa cùng với bà và những người khác, chắc bà sẽ nhớ ra, gương mặt bà ta nom khác hẳn, nhưng không thể nói là không thanh tú. Thế là những bức họa bị lộ. Chỉ còn có cách là đưa cho ông Goldberg xem. Ông ấy ép tôi. Ban đầu tôi từ chối. Nhưng cuối cùng phải đưa cho ông ấy xem.
- Ôi, - bà quả phụ nói, mặt tươi hẳn lên, - xem ra ông Gage nhà tôi là một thiên tài, bà có tin như thế không? Mặc dù những người quen biết nhà tôi, tội nghiệp cho ông, đều biết là ông hơi khác thường. Bà không biết chồng tôi đâu.
- Vâng, - Amy Parker nói, tuy bà có biết.
- Chẳng bao lâu tôi thành đối tượng được chú ý, - bà trưởng trạm bưu điện nói tiếp, tay gỡ một cái gì dính vào áo lông, - nhờ sự nhiệt tình của ông Goldberg và một số quý ông khác đối với những bức họa sơn dầu của nhà tôi. Ông Gage tội nghiệp mà ở đó thì chắc chắn sẽ ngạc nhiên. Tôi chỉ tiếc là ông ấy đã ra đi, vì tôi thấy rõ là chúng tôi có thể làm ăn được đôi chút. Dẫu sao, tóm lại, tôi đã bán những bức họa. Tôi phải nói với bà là tôi đã làm đúng. Tôi bán tất trừ một bức mà tôi không thể dứt ra được vì lý do tình cảm, và cũng vì đó là một tác phẩm nghệ thuật, ông Goldberg bảo, có một không hai. Tôi treo nó trên lò sưởi trong phòng khách. Riêng cái khung đã trị giá mười lăm bảng rồi. Đó là bức họa về một người đàn bà, nhưng chắc bà không nhớ đâu. Người đàn bà đang đứng đấy, đúng thế, bà ta khỏa thân, nói thật với bà. Nhưng mà tại sao lại không? Bây giờ tôi phóng khoáng rồi, vì tôi biết như thế là đáng thôi.
- Tôi còn nhớ bức tranh ấy. - Amy Parker nói.
- Thật ư? - Bà Gage nói, như bị khiêu khích. - Thế bà có thích nó không?
- Tôi chẳng biết. - Người đàn bà thô kệch nói. - Tôi không hiểu ý nghĩa của nó.
Bà không hiểu bản thân mình, nặng nề đứng giữa đường, vào lúc đó hay bất cứ lúc nào. Bà không hiểu con mắt của người ta. Và người đàn ông quá cố, liệu ông ta có nhìn thấy bà như bà đã không thể lĩnh hội được bức họa không? Lúc ấy, đi giữa hàng cây ban đêm, liệu bà có nên yêu ông ta không, khi hai cánh tay ông chẳng còn xương xẩu nữa? Bà cảm thấy mình không yêu ai cả. Bà thấy xốn xang. Bà thấy sờ sợ.
- Dẫu sao, - bà cựu trưởng trạm bưu điện nói, - sau đó ít lâu tôi đã có được ngôi nhà riêng. Rất hiện đại. Tôi vừa mới trả xong tiền cái tủ lạnh. Còn bà thế nào? - Bà ta hỏi, nhìn quanh có vẻ ngạc nhiên. - vẫn như xưa. Còn bà O’Dowd?
- Tôi chẳng biết bà O’Dowd có khỏe hay không. - Bà Parker nói một cách trịnh trọng.
- À, - bà Gage nói.
- Ồ, chúng tôi chưa bao giờ điều qua tiếng lại. - Bà Parker vội vàng thanh minh. - Nhưng tình bạn cứ nhạt dần.
Rồi bà trưởng trạm bưu điện hỏi han đến con cái, bằng cái giọng để nói với trẻ con.
- Thelma tốt lắm. - Bà Parker trả lời một cách chính xác. - Nó cưới một ông cố vấn pháp luật. Nó làm ăn rất khá.
- Còn Ray, phải không nhỉ? - Bà Gage hỏi.
Vì cũng phải hỏi chứ.
- Thằng Ray, - bà Parker thở dài, nhẹ nhàng vuốt cái tạp dề theo những nếp từ trên xuống. - Thằng Ray cũng đã trưởng thành. Nó chuyên bán ô tô, nghe nói thế. Nó cũng sắp lấy vợ rồi, con bé nết na lắm.
- Ai vậy?
- Elsie Tarbutt, - Bà Parker nói. - Quê ở Sydney.
- Ồ, thế à? - Bà Gage nói.
Thật kỳ lạ hơn nữa là người khác cũng sống cuộc đời của họ. Cuộc đời của bản thân bà Gage chiếm vị trí nổi bật. Bà không thể tin nhiều vào cái khác. Lúc này bà bắt đầu ấn và lôi những núm bạc trên cửa chiếc xe con của mình. Bà nói:
- Nếu tiện đường xuống Drummoyne, bà phải ghé lại chỗ tôi đấy, tôi sẽ rất mừng được gặp bất cứ ai để nhắc lại thời xa xưa.
Vì bà biết khá chắc là bà Parker sẽ chẳng bao giờ ghé thăm, lời nói đó chỉ làm tăng thêm tính hào phóng đơn thuần của bà. Còn đối với bà Parker, người dứt khoát sẽ không bao giờ ghé thăm, nghĩ mà thấy buồn cười, bà cũng đã quá thỏa mãn. Bà đứng thì thầm một cách hài lòng giữa những tảng đá.
Vừa lúc đó một luồng ánh sáng lạnh lẽo của buổi chiều hôm chiếu sáng bầu trời và gương mặt bà Gage đã tươi tỉnh lại sau khi chuyện trò.
Bà ta nói:
- Được chuyện trò thật dễ chịu. - Bà mạnh dạn nói tiếp. - Rốt cuộc tôi cũng hạnh phúc.
Rồi bà ấn một cái gì đó và trườn vào chiếc ô tô hào nhoáng của bà.
Amy trầm ngâm trở lại hàng hiên. Suốt buổi chiều bà đứng đợi các nhân chứng khác của quá khứ, nhưng chỉ thấy những người trai trẻ chưa hề từng trải và những người xa lạ lạnh lùng hoặc tử tế. Vì bà biết nhiều hơn những người này, nên bà như thấy hơi thở khó nhọc, hay mũi thở phì phì, cố trấn tĩnh và đứng thẳng, không lắng nghe, do đó nom bà rất dữ tợn. Một vài người nói rằng bà Parker là một mụ già khó tính.
Đúng thế mà cũng không đúng. Bà từng chờ đợi một điều gì đó xảy ra, một hành động có tính chất khai sáng, và vì điều ấy đã không xảy ra hay đã qua đi mà không ai nhận ra, nên bà trở nên cau có. Những lúc đó bà thường gãi chân hết sức bực tức. Bà nghển cổ nhìn một cảnh tượng dễ chịu xa xa, mà thị lực bà dĩ nhiên không cho phép. Do vậy lắm lúc nom bà như người dở hơi và xấu xí. Hoặc đôi lúc bà thấy khuây khỏa với quá khứ. Bà trở nên thanh thản và thậm chí khôn ngoan với những tấm ảnh chụp nhanh mà bà có thể đưa ra tùy thích từ ống tay áo. Dĩ vãng là một điều kỳ diệu của các tiểu môn thần.
Khi Thelma Forsdyke về chơi, dạo này cô hay về hơn mong đợi, cô kinh ngạc thấy mẹ ngồi đấy, lại có vẻ hoạt bát nữa.
- Mẹ ơi, mẹ có khỏe không? - Cô thường hỏi.
Bản thân vốn thụ động, cô không chịu được tính thụ động ở những người khác. Từ ngày phát hiện sự tồn tại của văn học, cô thường ngụy trang tính lười nhác của mình bằng một cuốn sách. Tuy nhiên cô cũng đọc, đọc khá nhiều. Cô rất mê môn đạo đức và đang nghiên cứu nhân chủng học. Nhưng cứ ngồi trơ trơ như thế cũng dễ khiến người ta nghi ngờ hoặc là một dấu hiệu của bệnh tật. Đôi khi cô hoảng hốt lo mẹ mình có thể bị ung thư vào tuổi già và cần chăm nom gần gũi. Dĩ nhiên con gái bà sẽ trả được hết các khoản ấy, vì cô giàu. Nhưng làm sao mà chịu nổi bao thứ mùi bệnh tật kinh người trong một căn phòng con con được. Vì thế Thelma cố tìm trên khuôn mặt mẹ những dấu hiệu của bệnh tật.
- Mẹ không ốm, - Amy Parker nói. - Mẹ vừa ngồi một tý vì mẹ thích thế.
Bà mỉm cười ngờ vực nhìn con gái, nhìn thứ vải áo cô và chuỗi hạt trai. Hai mẹ con áp má vào nhau. Bà cảm thấy khá dễ chịu. Bà chẳng còn khát vọng chiếm lấy con gái mình, bởi vì bà đã thất bại rồi. Nhưng bà đã tham dự vào câu chuyện của đời Thelma Forsdyke, bà đã gián tiếp tạo ra nó, vì thế đôi khi bà đòi quyền chỉ trích hoặc góp ý về một số vấn đề thuần túy tự nhiên.
- Con nên có con, Thel ạ. - Một lần bà đã nói như vậy.
Và người đàn bà, con gái của bà, quay mặt đi chỗ khác nói:
- Con chưa sẵn sàng, vấn đề không chỉ là có con. - Cô nhún vai, bực tức.
- Mẹ có biết đâu. - Bà mẹ nói, trễ môi.
Bà nhìn đôi bàn tay con gái. Bà mẹ đương nhiên là hơn hẳn con gái. Bà ngờ vực đôi bàn tay đang đặt trên lòng, bắt chéo nhau như quạt giấy kia. Nhưng bà không nói gì thêm về chuyện đó nữa.
Thỉnh thoảng bà hỏi thăm ông con rể.
- Forsdyke thế nào? - Bà thường hỏi.
Forsdyke đang chuẩn bị đi câu cá thư giãn với các doanh nhân khác, hoặc đang bị viêm xoang, một lần anh bị loét hành tá tràng. Hầu như lần nào anh cũng gửi lời thăm hỏi mẹ vợ, bởi vì anh vốn là người lịch thiệp. Đam mê không biến anh thành một con người thô lỗ.
- Con vô cùng biết ơn Dudley, - Thelma thường nói vậy, mắt cô ươn ướt.
Cô ngạc nhiên về sự khiêm nhường của mình, nhưng cảm thấy dễ chịu. Cô đã giành được quá nhiều, về mặt vật chất, nên chẳng còn chỗ nào nữa để kiếm thêm, do đó cô quay lại quan tâm đến việc nâng cao đời sống tinh thần. Cô sẵn sàng xả thân cho một người nào đó, đặc biệt là chồng cô, người không tạo cho cô một cơ hội, ngoại trừ trong cái cung cách anh hắng giọng, và lúc nào cũng lo bị gió lùa. Không chắc cô sẽ có con, vì những lý do tế nhị, điều này đôi lúc làm cô buồn phiền vào những buổi chiều hôm hay đêm tối, khi cô một mình ngồi lại với đôi bàn tay, cho đến lúc nhận thấy mình sẽ chẳng biết làm gì với những đứa trẻ đập phá lung tung đồ đạc trong nhà, hoặc với những đứa lớn hơn khám phá ra ham muốn tình dục. Dĩ nhiên cô còn phải lo sức khỏe, cô bị hen, nhiều người vẫn nhớ hỏi thăm, nhất là những người mang ơn cô.
Thỉnh thoảng ông mục sư đến thăm. Thelma Forsdyke quyên cho nhà thờ nhưng không ủng hộ cha xứ, vì ông này không phù hợp với ý đồ xã hội của cô. Cô trở nên rộng rãi, cố tình. Cô biếu đồ quý hiếm, hoặc tiền vượt quá mức yêu cầu, mỗi lần làm như thế mắt cô đỏ hoe. Do cô e ngại, hoặc không thể xả thân, sự ham thích hào phóng đã trở thành một nhu cầu. Đó là thói tật bí mật của cô, là rượu gin giấu trong tủ quần áo, là mũi kim tiêm dưới da. Cho đến nay chưa ai phát hiện. Trừ mẹ cô.
Cô thích nhất là mang quà về cho bố mẹ, những món quà đắt tiền, khiến người ta phải trầm ngâm, phải day dứt. Ngồi trong chiếc ô tô riêng mà cô đã tập lái, cô nhíu mày vút qua những biệt thự và những lò mổ, đi về vùng nông thôn dành cho cô nhiều điều kinh ngạc nhưng trong đó cô không dự phần. Xuôi theo con đường ấy, con đường toàn dây kẽm gai lỏng lẻo, cây cối đầy bụi, không giống với những con đường khác chỉ vì bố mẹ cô ở đấy, cô lái xe từ từ thận trọng, nhớ lại một lão già có lần đã khoe thân trong bụi rậm. Cô e ngại rằng sống mãi trong khuê phòng cũng chẳng ngăn chặn được những biến cố cần phải ngăn chặn.
Cô đã đến nơi. Những cuộc thăm viếng này thật phi lý, cô gượng gạo nhận ra, tuy rất cảm động, khi phủi bụi bám vào áo. Không gian vang tiếng chim ác là.
Có một lần cô mang đến cho mẹ một quả dứa, một con cá tươi, và một bộ khăn bàn thêu cảnh săn bắn mà cô đã mua ở một gian hàng từ thiện. Cô mở ra cho mẹ xem, trải dài tấm khăn, bởi vì đây là một phần của trò chơi, được lao vào cơn khoái lạc của tình thân ái. Cô quá tốt bụng.
- Mẹ xem này, - cô vừa nói vừa đặt con cá vảy bạc lên đôi tay trần. - Đẹp thật mẹ nhỉ?
Con cá quả là đẹp. Nó óng ánh. Sự tồn tại của nó không thể kết thúc bằng cái chết.
Mắt bà mẹ dạo chơi giữa đám quà, bà thốt lên:
- Ôi, mẹ biết làm gì với những thứ này, Thelma?
- Mấy chiếc khăn bàn ư? Đẹp đấy chứ, mẹ? Rồi sẽ có dịp dùng đến, mẹ ạ. Cứ cất đấy rồi xem.
- Con thật chu đáo với mẹ, Thelma. - Bà mẹ nói, đưa mắt nhìn con gái, nhìn thẳng vào cô.
Và cô con gái, nay đã trở thành một thiếu phụ mảnh khảnh và phong nhã, cầm con cá lên đi ra ngoài, đặt nó ở một nơi mát, trong ngôi nhà mà cô biết tận chân tơ kẽ tóc nhưng không còn thuộc về nó nữa. Cô quả quyết mẹ mình đã có chiều vị kỷ khi coi mọi chuyện là nghiễm nhiên. Dù đúng như thế hay không, bà lão vẫn tiếp tục nhìn một cách mỉa mai, không nhìn mấy chiếc khăn, mà nhìn con gái, lúc đó đã vào nhà trong. Bà vẫn nhìn đứa con gái bé nhỏ ép sát miệng vào tấm gương soi cho đến khi cái miệng trong gương sát cái miệng ở ngoài.
Tuy vậy, khi bà Forsdyke trở lại, vừa đi vừa kiểm tra hai bàn tay sạch trên chiếc mùi soa trong suốt, bà lão cảm thấy lòng tràn ngập một niềm biết ơn hiền dịu. Bà nói:
- Con cá đẹp lắm, Thelly ạ. Mẹ sẽ mang bỏ lò. Bố thích ăn như thế lắm.
Hai người, mẹ và con gái, vừa chơi một trò chơi thân ái. Bà Forsdyke rất khoái cái cảnh đó và bỏ qua việc mình được gọi là “Thelly”, điều làm cô nhớ đến những hòn đá cuội giấu trong cặp đeo sau lưng mỗi giờ tan trường.
Đôi khi Thelma Forsdyke đi quanh phòng khách và đóng chặt các cửa sổ khi nhớ lại nguồn gốc lai lịch bần cùng của mình. Đó là một cái gì không thể trốn thoát được. Nó lẽo đẽo theo suốt đời. Vì thế khuôn mặt của cô không thuyết phục được cô, ngay cả những lúc nó xinh tươi nhất. Mỗi lần bàn luận về âm nhạc, giọng cô đều ngập ngừng. Sự tiến hóa của một tâm hồn giả tạo luôn mang vẻ kinh tởm. Cô nhớ lại gia đình Bourke, nhớ lại nhung Genoa mịn màng, và hương vị kẹo lạc khi cô ngồi đánh móng tay.
Một lần người hầu bước vào, một bà đứng tuổi, cung cách nhẹ nhàng, đã từng được ai đó dạy dỗ chỉ bảo.
- Thưa bà, có một ông xin gặp bà. Ông ấy bảo là có việc riêng gấp. Ông ấy không chịu nói tên. - Bà người hầu đội mũ trùm kín nói.
An tâm làm sao, đáng kính làm sao, thậm chí cả những người hầu đứng tuổi cũng thế.
Ông khách đó là Ray Parker, anh trai của bà Forsdyke.
- Anh đoán thế nào em cũng ngạc nhiên, Thel ạ. - Ray cười vang, vừa bước vào phòng khách vừa tung cái mũ hắn mang theo, một cái mũ mới, màu nâu, nom rất gớm. - Anh thích làm người ta ngạc nhiên. - Hắn lại cười phá lên. - Làm thế người ta mới ra khỏi đường mòn. Nhưng em đang ở trong đường mòn còn khá tốt. - Hắn vừa nói vừa đảo mắt nhìn quanh.
- Chúng em chọn ngôi nhà này để ngắm cảnh chung quanh. - Cô vừa nói vừa bước tới phía trước để đón khách. - Ba mặt đều có nước. Anh có thể nom thấy cảng ngay, và phía này, nhìn ra Hội đua thuyền.
Rồi cô nhìn ông anh, cố đoán xem anh cần cái gì. Khuôn mặt của cô trơ xương. Sau này, người cô sẽ dài ngoẵng như sợi dây. Cô cũng cứng rắn lắm, mặc cho sức khỏe hom hem, cái chứng hen khò khè ở cô có thể làm người ta sợ hãi. Cô phải cứng rắn để có được gần như mọi điều cô muốn. Điều cô muốn, ấy là tột đỉnh của khát vọng, đã lẩn tránh cô, do đó cô chỉ biết đoán mò, vẻ khó chịu bên ngoài, khi cô hỏi:
- Anh cần cái gì, anh Ray?
Người đàn ông vừa ngồi phịch lên chiếc đệm bọc gấm bạc màu của cô, dạo này hắn béo ra, muốn trêu Thelma một tí. Hắn phồng má lên, đôi má mang màu da thị thành, làm hiện ra hai lúm đồng tiền. Một số người cho là chúng rất hay. Hắn nói:
- Anh đến đây để ngắm em một chút, Thelma ạ. Chúng ta là họ hàng thân thích. Nhưng người nào chỉ biết em hoặc chỉ biết anh thì không biết chúng ta là anh em.
Cô cười vang.
- Thế những con người giả định đó mà biết là chúng ta là anh em thì có lợi gì nào?
- Nếu đó là chuyện có lợi, - hắn nói, vừa nhún bộ vét bắt mắt, hy vọng cô sẽ mời uống thứ gì đó.
Hắn là một con người ham xác thịt, cô thấy vậy, mà cái thú nhục dục làm cô lo lắng, tuy hắn không nhận thấy. Chắc là hắn cũng ngu đần trong nhiều chuyện, nếu không phải trong mọi chuyện. Điều mà cô ngại nhất là hắn, như cô hơi nghi, là một người anh trai trung thực, vì cô biết hắn là một người bất lương.
- Dẫu sao, - cô nói, thoáng mỉm cười và ngồi xuống, - anh cũng có ở đây.
- Còn hơn thế nữa kia, - hắn nói ồm ồm, vẻ cợt nhả. - Thế anh chàng luật sư mà anh chưa hề gặp bao giờ thì về?
- Còn tùy, - cô nói. - Các chuyên gia làm việc không theo đồng hồ.
- Anh có thể chờ được. - Ray Parker nói.
Nếu cái phòng tăm tối này không giết hắn. Mọi người làm gì trong những căn phòng yên tĩnh thiếu vắng những con ruồi vo ve?
- Bởi vì anh muốn gặp anh ta.
- Em thấy hai người chẳng có điểm nào chung cả, - Thelma Forsdyke cười vang, không cân nhắc các khả năng.
- Em chẳng hiểu đâu, - Ray Parker nói. - Anh quen nhiều gã trên xe lửa và trên thùng các xe tải. Chắc em ngạc nhiên lắm.
- Dudley, - Thelma nói, - chắc là chẳng bao giờ lao vào những chuyến đi nguy hiểm như thế.
- Anh ta có ẻo lả không?
Thelma không trả lời.
- Chỉ cần ngồi trong phòng này anh cũng tìm hiểu em được.
Cô không trả lời.
- Em gầy lắm. Gầy quá thể.
Mồ hôi bắt đầu toát ra ở hai bên thái dương cô, dưới mái tóc vừa mới làm ngày hôm kia. Hắn tiếp tục:
- Anh không thể chịu được sự gầy gò. Lẽ ra anh phải làm được một cái gì to tát, nhưng chẳng bao giờ tìm ra được cách làm, anh đành hài lòng với việc thiến một con ngựa hay phá một cái tủ két. Ồ, em không phải lo, Thelma ạ. Bây giờ thì anh lương thiện rồi. Tức là, anh đang buôn bán làm ăn. Anh buôn ô tô. Anh đã tiếp rượu một số người sang trọng nhất đấy. Nhưng mọi thứ đều tốn kém. Và anh đã cạn túi rồi. Hôm nay sở dĩ anh đến đây, mong em hiểu cho, là để phiền em hai chục đồng. Thứ Ba tới anh sẽ cưới một cô tên là Elsie Tarbutt.
- Cô ta có ý thức được điều mình đang làm không? - Bà Forsdyke hỏi, đi đến chỗ cái tủ con mà cô đã trả rất nhiều tiền để mua với cảm nghĩ thứ đồ đáng yêu đó đúng là đồ cổ chính cống.
- Có, - Ray Parker nói. - Cô ta sẽ cải tạo anh đấy. Cô ta là người theo hội Giám lý.
- À. - Người em gái nói.
Cô viết một ngân phiếu, ký một chữ duyên dáng mà nay cô không cần phải tập nữa.
- Em phân vân không biết có nên gặp cô ta không. - Cô mỉm cười nói, khi đưa tiền để tống khứ ông anh đi.
Cô lại nghĩ thầm: “Ray khó mà làm nên đại sự. Quả là món tiền ít ỏi.”
- Gặp Elsie ư? - Hắn nói, đưa mắt nhìn con số cô vừa viết. - Đừng. Không hay đâu. Trong gia đình có một tên vô lại là đủ rồi.
Thế là họ đứng đấy căm ghét nhau, mà không hiểu được vì sao.
Rồi trong gian phòng im lặng mà hai người trao đổi tâm tư, họ bỗng cảm thấy xúc động vì nhau. Có những lúc người đàn ông đần độn và ghê tởm này bỗng dưng run lên, người đàn bà nhận thấy vậy. Liệu anh có bình tâm lại nếu ta hôn anh ấy, mặc cho mùi rượu và thuốc lá nồng nặc hay hàm răng cải mả, hôn anh ấy thắm thiết, như ta vẫn ngại không dám hôn một người nào, hay anh lại cộng cái bí mật này vào những điều mà anh đã khắc cốt ghi tâm? Vì thế người đàn bà tiếp tục xoắn vặn những chiếc nhẫn của mình. Và người đàn ông thương hại cô, nhớ lại mình đã run bắn như thế nào trên một chiếc tàu hỏa chở hàng xình xịch chạy về phương Bắc trong đêm tối, biết rõ ở đây chẳng có gì cả.
- Anh đi đây, - Ray Parker nói, nhặt chiếc mũ diêm dúa lên. - Thế này tạm ổn.
- Tạm biệt, Ray. - Cô nói.
Cô để mặc cho hắn tự tìm lấy lối ra, sau khi đã suy nghĩ kỹ, nhất quyết rằng việc đó đơn giản thôi và chả có gì hắn có thể thó được.
Hắn vừa đi khỏi, cô vội ngồi xuống ghế.
Cơ thể cô lặng yên, nhưng bên trong cô đang lao về phía mình, như thể cô là một cái tủ, để lôi các đức tính ra khỏi ngăn kéo, và tìm một cái gì tốt đẹp. Nhiều người hàm ơn cô, những người tốt, thấp kém đã nói rằng cô là người tốt, vậy thì cô phải là người tốt. Con mắt người đời nhìn rõ hơn mắt của bản thân, hay mắt của anh trai mình. Chẳng qua đó là điều bỗng dưng nhảy vào đầu anh ấy, cô tự nhủ, và chỉ nói để tỏ ra thông minh. Nhưng một mùi vị kim loại đã tràn vào mồm cô. Cô chỉ muốn nhổ cái lưỡi ra, cái lưỡi bằng kim loại mỏng và đắng. Thế rồi cô bị đau đầu. Cô cảm thấy mình hâm hấp sốt. Cô uống một viên aspirin. Cô lấy một vài cuốn sách.
- Thưa bà, tôi mang trà lên, - người hầu đứng tuổi nói. Bà ta đặt khay trà lên chiếc bàn con.
Những thói quen Thelma Forsdyke đã chọn lựa hết sức cẩn thận không có tác dụng bao nhiêu. Có một tội ác nào đó mình đã quên, cô cảm thấy như vậy, trong khi cô tìm kiếm giữa những dòng chữ, vì cô thường liếc mắt vào sách khi dùng trà, tay phủi khỏi trang sách những mẩu bánh và bơ rất bé. Hoảng lên - cô tự nhủ - bởi một tên ngu dốt và thô lậu, thật vô lý. Cô đọc vài ba chữ. Song cô hoàn toàn thất bại. Vậy bên trong cô có gì? Cô tự hỏi. Mấy ngón tay thon dài của cô run lên. Những đợt sóng hoài nghi rúng động tâm hồn cô khi cô đọc một cuốn thơ mua bừa trong một cửa hiệu, cô hài lòng về sự lĩnh hội của mình:
“Kìa, như một trận gió qua rừng cuồng loạn,
Thổi ào ào cơn bão của đời;…”
Đó là một bài thơ lạnh giá. Những lời thơ như thổi mạnh qua chiếc áo mềm mại của cô, quét lên tâm trí cô, để lại một cảm giác tê dại, nhưng cũng là một sự sáng tỏ kỳ lạ. Cô đọc với sự mê hoặc ảm đạm.
“Cây người đó chẳng hề yên tĩnh
Xưa là người La Mã, nay tôi”.
Có lẽ, cô cảm thấy, phải trí thức, chứ không phải aspirin hay ephedrine[5] mới mang lại sự khuây khỏa. Vì thế cô đọc tiếp qua kẽ răng:
“Cơn bão lốc thổi cây non gập lại
Thôi điên cuồng, nhưng sẽ chóng nguôi tan:
Người La Mã với nỗi đau quằn quại
Dưới Uricon còn lại nắm tro tàn[6].”
Đọc xong bài thơ cô vẫn ngồi lại. Chẳng có gì để cô có thể gọi điện và yêu cầu. Chưa cảm thức được hết bài thơ, cô cay đắng oán trách cha mẹ đã đặt cô vào cái tình cảnh hiện nay. Cô cũng oán trách Chúa đang lừa dối cô.
Cuối cùng chồng cô bước vào với tờ báo buổi chiều. Ông nói:
- Tối nay nom em xanh xao quá, Thelma ạ.
Tay sửa lại vị trí của một bản tranh khắc treo trên tường, ông hỏi:
- Em thấy khó ở phải không?
Tay sờ vào bản tranh khắc. Vợ chồng Forsdyke mua nó bởi vì họ chẳng dám chọn một bức họa.
- Gió mùa đông bắc đấy thôi.
Đúng là có một đợt gió khó chịu. Những lớp sóng nhỏ xám xịt tô điểm cho làn nước trong vịnh. Cát cào vào các khung cửa sổ.
- Ray vừa ở đây, - cô nói. - Ray, anh trai em ấy mà.
- Anh ta cần gì? - Viên luật sư hỏi, ưỡn cái bụng lên, vẻ bực tức.
- Chẳng có gì cả. - Cô nói.
Bây giờ mà luyện tập trò lương thiện thì quá muộn rồi, cô quyết định, biết làm sao đây.
- Chúng em trao đổi vài chuyện, - cô nói. - Anh ấy sắp lấy vợ.
- Thế hai người bàn những gì? - Dudley Forsdyke hỏi. Anh ta quên bẵng tờ báo buổi chiều.
- À, chuyện gia đình ấy mà. - Cô nói.
- Thế tại sao em lại bối rối vậy, em thân yêu?
- Ray bao giờ cũng nhiễu sự. Anh ấy tác động tới em. Anh ấy xung khắc với em. Kiểu như thế. - Thelma Forsdyke nói.
Viên luật sư đặt tờ báo vẫn còn nóng trên tay xuống. Anh đi đi lại lại, vừa xoa tay. Anh rất mong muốn gặp người anh vợ của mình. Bất cứ ai chưa từng xâm phạm hay bị xâm phạm, cũng giống nhau, đều có lúc tò mò. Dudley Forsdyke là một người khô khan, nhưng chân chính. Vì thế ông run sợ cho những mảnh sự thật, để xé chỉ một lần thôi, hay bị xé.
- Anh tiếc là không được gặp anh ấy.
Ray Parker chắc chắn phải nổi một đường gân trên trán.
- Anh ấy thực là một con người thô bạo. - Thelma nói.
- Dẫu sao, anh ấy cũng là anh rể.
Hai anh em, em rể và anh vợ, sẽ trao đổi những kinh nghiệm thân mật gì với nhau khi đi xuống bậc thềm đá? Viên luật sư đã đoán được qua một vài nhận xét của vợ rằng Ray Parker là một người béo tốt.
Anh cảm thấy như có một bàn tay đặt vào hông.
- Dẫu sao, em cũng mừng là anh không gặp anh ấy. - Người vợ nói.
Cô cảm thấy mệt lả.
- Em đi nằm đây. - Cô nói. - Em không bận tâm về bữa tối đâu.
Anh hôn cô, như họ vẫn làm vào những khoảng thời gian trống, và đi vào phòng ăn món cá. Trong sự im lặng của người hầu đứng tuổi, tên là Dorothy, anh không còn bị sự tự hủy hoại ám ảnh nữa. Sự thận trọng trở lại, còn cao hơn sự thận trọng của người đàn bà cứng nhắc đang cúi xuống và thở trên người anh, cho đến khi hai tính thận trọng sinh đôi gặp nhau, quyện vào nhau trong sự thán phục lẫn nhau. Bằng cách đó viên luật sư được đưa trở lại bề mặt mà anh vẫn quen nổi trên đó.
Sau đó ít lâu, bà Forsdyke thấy cần thiết phải đi thăm mẹ một lần nữa. Tuy có những lúc cô oán trách mẹ vì đã sinh ra mình, song cô vẫn khát khao được trở về lòng mẹ. Thế là cô lái xe về nhà, và hai mẹ con lại trò chuyện với nhau trên hiên nhà, nơi gặp gỡ quen thuộc của hai người.
- Mẹ rất tiếc là con đã không đến dự đám cưới. - Bà mẹ nói, bắt đầu thích chuyện trò, thắt chặt thêm quan hệ, trong đó ngay cả những vết rạn cũng trở thành thú vị.
- Con không được mời, - cô con gái nói, băn khoăn không rõ mình có hơi bị xúc phạm không.
- Mẹ vẫn nghĩ rằng mọi bất đồng đều được bỏ qua để chuẩn bị cho đám cưới. - Bà lão nói. - Song mọi người vẫn giữ ý kiến của mình. Ray đã làm lại cuộc đời.
Người mẹ đã quyết định điều này. Bà vốn không hiểu rõ bản thân mình nên cũng chẳng nghi ngờ gì. Hoặc giả bà cụp mí mắt xuống mỗi khi nghi ngờ, cụp xuống trên chính cuộc đời mình, do đó vẻ mặt bà nom thật thà. Khi đăm đăm nhìn ra bên ngoài, bà quyết tâm nhìn tất cả những gì mang đến cho bà niềm hy vọng. Bà nói:
- Đám cưới vui lắm. Ông Tarbutt là một người bán tạp phẩm ở Leichardt. Có nhiều tặng phẩm đẹp. Có người tặng cả một hộp dao dĩa bằng bạc. Dĩ nhiên Ray phấn khởi ra mặt. Mọi người rất thích Ray. Nó còn hát nữa. Con có biết là Ray biết hát không? Hình như bây giờ nó khấm khá lắm.
Thelma Forsdyke lúc đó đã ngồi xuống rìa hành lang, giờ cô tự tin làm những cử chỉ kém trang nhã; nét mặt cô lộ rõ vẻ hoài nghi mà ánh nắng chiều đông thường mang lại. Ánh nắng, cô phát hiện ra với lòng biết ơn, là một kho báu không hề bị thời gian làm giảm giá trị.
Mẹ cô nói tiếp:
- Có cả một khúc giăm bông to tướng, thái thành lát mỏng để mọi người tự đến lấy ăn.
- Thế còn Elsie? - Thelma hỏi.
- Elsie không xinh đẹp, - bà Parker nói. - Nhưng con bé đúng là người Ray muốn. Nó sẽ là một bà vợ cừ.
- Chị ấy là người theo Hội Giám lý. - Thelma nói.
- Con cũng biết à?
- Và mẹ không thích chị ấy.
- Điều đó thì con không hiểu rồi, bởi vì nó không đúng. - Amy Parker nói, xoay người trong chiếc ghế khiến nó kêu cót két. Bà xem xét chiếc gậy như để lần đầu mối. - Hoặc giả điều đó là đúng thì chẳng mấy chốc mẹ sẽ làm cho nó không còn như thế nữa. Elsie quả là một cô gái tuyệt vời.
Những người khác cuối cùng đã thắng thế. Amy Parker đã dự các đám cưới, đám cưới con trai bà, và đám cưới của những thanh niên khác. Bà dõi nhìn những người đang khiêu vũ. Bà ăn bánh kem màu hồng, nghe nó lạo xạo trong mồm. Một vài chiếc có cát. Bà đi dự đám cưới nhưng không thích lắm, mặc dù những đám cưới đó rất vui và đẹp. Mấy dịp ấy, những động tác khiêu vũ và những cuộc đàm thoại diễn ra phức tạp, đã tách quá xa khỏi bức tranh khảm yên tĩnh hiện tại của bà. Chính bà đã ghép bức tranh khảm đó. Bà không tin vào cái mình không tạo nên, như bánh ngọt hay tập quán.
Bởi vậy bà dõi theo Elsie. Dưới cánh hoa cam, ở hai bên thái dương, những lỗ chân lông