← Quay lại trang sách

Tôi còn nhớ… Hai năm trước-Paris-21 tháng Mười một 2011

Bến tàu điện ngầm Solferino, quận 7.

Tôi khó nhọc leo những bậc thang của bến tàu điện ngầm với hol thở đứt quãng. Lên đến bậc trên cùng, một con cuồng phong ẩm ướt tạt thẳng vào giữa mặt tôi. Tôi giương chiếc ô ra trước hướng gió để nó khỏi bị lật. Tôi hiện mang bầu bảy tháng rưỡi và đang trên đường tới phòng khám gặp Rose-May, bác sĩ sản sẽ đỡ đẻ cho tôi.

Tháng Mười một chỉ là một đường hầm dài tăm tối và mưa tầm tã. Đầu giờ chiều nay không ngoại lệ. Tôi rảo bước. Những mặt tiền màu trắng của con phố Bellechasse sáng lấp lánh dưới trận mưa rào.

Hai chân tôi sưng phù, lưng như muốn sụm xuống, các khóp đau tê tái. Tôi thấy khó mà thích nghi với việc tăng cân khi mang thai. Tôi đã trở nên to béo đến mức phải nhờ Paul giúp mỗi khi buộc dây giày! Những chiếc quần âu cứa vào bụng dưới nên tôi suốt ngày phải mặc váy. Đêm nào cũng khó ngủ và mỗi lần muốn ra khỏi giường, tôi buộc phải lăn sang bên trước khi đặt được hai chân xuống sàn. Như thể vẫn chưa đủ, từ vài ngày nay, những con buồn nôn lại xuất hiện và bất cứ lúc nào tôi cũng có thể cảm thấy mệt mỏi.

Thật may, phố Las Cases chỉ cách lối ra của bến tàu điện ngầm hai trăm mét. Vậy nên chưa đầy năm phút sau, tôi đã tới phòng khám. Tôi đẩy cửa, tới quầy lễ tân đăng ký rồi tự thưởng cho mình một cốc cà phê tại máy tự động trong phòng chờ trước ánh mắt bất bình của những bệnh nhân khác.

Tôi đang mệt rã rời. Bụng tôi nhấp nhô, như thể những bong bóng to đùng đang vỡ, như thể những con sóng nhỏ đang dồn dập vỗ từ bên trong. Paul rất thích thú với chuyện này mỗi khi được chứng kiến tại nhà.

Về phần tôi thì phức tạp hơn. Mang thai là một trạng thái lạ thường, thần diệu, nhưng tôi không thể thư giãn trong trạng thái đó được. Sự phấn khích của tôi luôn bị kìm hãm bởi một nỗi lo âm thầm, một linh cảm không lành và những câu hỏi nhức nhối: tôi không biết liệu mình có phải là một người mẹ tốt không, tôi sợ đứa con mình sinh ra sẽ không khỏe mạnh, tôi sợ không biết cách chăm con…

Từ một tuần nay, về mặt lý thuyết thì tôi đang trong kỳ nghỉ thai sản. Paul đã hoàn thành phần việc của mình bằng cách kê dọn đâu vào đó phòng em bé và lắp đặt nôi di động trong xe ô tô. Còn tôi, trước đó tôi đã dự định làm đủ thứ “mua quần áo sơ sinh, xe đẩy, chậu tắm, các sản phẩm chăm sóc và vệ sinh - nhưng lại không ngừng trì hoãn những kế hoạch đó.

Sự thật là tôi chưa bao giờ thực sự ngừng công việc điều tra. Cuộc điều tra của tôi: cuộc điều tra về bốn người phụ nữ bị siết cổ trong khu vực phía Tây Paris. Chính nhóm của tôi phụ trách giải quyết vụ sát hại đầu tiên nhưng chúng tôi đã thất bại. Kể từ đó, vụ việc đã trở nên quá mức nghiêm trọng và vuột khỏi tay chúng tôi. Tuy đã bị loại khỏi cuộc điều tra nhưng tôi vẫn đau đáu với những gương mặt sững lại trong nỗi khiếp sợ kia. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến chúng. Một nỗi ám ảnh đã khiến cho thai kỳ của tôi không được thanh thản và ngăn không cho tôi hướng tới ngày mai. Tôi vẫn lật đi lật lại cùng những hình ảnh đó, nhắc đi nhắc lại cùng những giả thiết đó, đắm chìm trong những phỏng đoán, xâu chuỗi lại các vụ án không chút mệt mỏi.

* * *

Xâu chuỗi…

Tìm ra mối liên hệ vô hình giữa Clara Maturin, Nathalie Roussel, Maud Morel và Virginie André. Ngay cả khi còn chưa ai phát hiện ra nó thì mối liên hệ ấy nhất định vẫn tồn tại. Bốn nguôi phụ nữ này có điều gì đó chung nhưng ngay lúc này thì tất cả các điều tra viên đều chưa thể nắm bắt được.

Ngay cả tôi.

Nhất là tôi.

Tôi biết một lẽ hiển nhiên đang lẩn khuất trước mắt mình và điều tin chắc ấy đang phá hỏng cuộc đời tôi. Nếu không bị bắt giữ, gã đàn ông đó sẽ tiếp tục ra tay giết chóc. Một lần, hai lần, mười lần… Hắn cẩn trọng, vô hình, không thể tóm gọn. Hắn không để lại bất cứ dấu vết nào, không cả dấu vân tay lẫn ADN. Không ai giải thích được tại sao cả bốn nạn nhân đều đã mở cửa cho hắn không chút nghi ngờ, vào tầm giờ tối muộn. Chúng tôi chẳng có gì trong tay ngoại trừ một lời chứng mơ hồ nhắc tới một gã đội mũ bảo hiểm màu đen và chạy trốn trên chiếc xe tay ga ba bánh giống như hàng nghìn đối tượng có thể gặp trên đất Paris.

Lại một cốc cà phê khác từ máy tự động. Trời lạnh và nổi gió. Hai bàn tay tôi vòng quanh chiếc cốc giấy hòng tìm chút hơi ấm. Mắt nhìn xa xăm, tôi ôn lại lần thứ một nghìn đoạn phim về các sự kiện, thuật lại cho tôi liên kết giữa chúng như một chân ngôn.

Bốn nạn nhân: bốn phụ nữ sống một mình. Ba người độc thân và một bà mẹ đã ly hôn. Cùng một phạm vi địa lý. Cùng một cách thức tiến hành.

Trong khoảng thời gian dài, báo chí đã đặt biệt danh cho thủ phạm những vụ giết người này là “tên sát nhân kiêm trộm điện thoại”. Thậm chí ban đầu cảnh sát còn nghĩ hắn đã lột luôn điện thoại di động của các nạn nhân hòng xóa một vài dấu vết có thể cho phép lần ra hắn: những cuộc gọi, những đoạn phim, những bức ảnh… Nhưng giả thiết này không có cơ sở. Dĩ nhiên, những chiếc smartphone của nạn nhân thứ hai và thứ ba lâu nay vẫn chưa thể tìm ra. Nhưng trái ngược với những gì báo chí đăng tải, điện thoại di động của nạn nhân thứ nhất và nạn nhân cuối cùng đều đã được tìm ra. Và nếu như điện thoại của nữ tiếp viên hàng không chưa bao giờ được xác định vị trí thì chiếc điện thoại nữ y tá sử dụng lại đơn giản bị bỏ quên trên một chiếc taxi.

* * *

Tôi nhìn điện thoại của mình. Tôi đã tải xuống máy hàng trăm bức ảnh của cả bốn nạn nhân. Không phải những bức ảnh ghê rợn chụp tại hiện trường vụ án mà là những bức chụp họ trong cuộc sống đòi thường lấy từ máy tính cá nhân của họ.

Tôi xem lướt các bức ảnh để rồi lần nào cũng quay về với các bức ảnh của Clara Maturin. Nạn nhân đầu tiên, nữ giáo viên mầm non: nạn nhân có lẽ tôi cảm thấy gần gũi nhất. Một trong những bức ảnh khiến tôi đặc biệt cảm động: đó là một bức ảnh truyền thống của lớp học được chụp hồi tháng Mười năm 2010, chụp trong sân trường. Tất cả các học sinh lớp mẫu giáo lớn của trường Joliot-Curie tập họp xung quanh cô giáo. Hình ảnh tràn đầy sức sống. Gương mặt bọn trẻ khiến tôi mê mẩn. Một vài đứa trông hết sức nghiêm túc trong khi những đứa khác lại rất hài hước: đang cười ngặt nghẽo, tay đang ngoáy mũi, giả làm tai lừa… Đứng giữa đám nhóc học sinh là Clara Maturin với nụ cười sảng khoái. Đó là một cô gái dáng điệu kín đáo, mái tóc vàng nhạt cắt theo kiểu đầu vuông. Cô mặc chiếc áo gió màu nâu nhạt mở cúc, bên trong là bộ quần áo may đo khá thanh lịch và thắt chiếc khăn lụa vuông hiệu Burberry có thể nhận ra nhờ họa tiết in đặc trưng của hãng. Một bộ trang phục mà cô hẳn phải đặc biệt ưa thích vì nó xuất hiện trên nhiều bức ảnh khác: trong đám cưới của một cô bạn hồi tháng Năm năm 2010 tại Bretagne, trong kỳ nghỉ tại London hồi tháng Tám cùng năm và thậm chí trên bức ảnh cuối cùng, chụp bởi một camera giám sát đặt trên phố Faisanderie chỉ vài giờ trước khi cô bị sát hại. Tôi xem lần lượt từng bức ảnh một để rồi lần nào cũng gặp đúng bộ trang phục được chủ nhân hết sức ưa thích ấy: áo gió, bộ quần áo may đo phong cách working girl, chiếc khăn hiệu Burberry thắt hờ. Trong khi tôi dừng lại lâu hơn ở bức ảnh cuối cùng, một chi tiết lần đầu tiên đập vào mắt tôi: chiếc khăn xuất hiện trên bức ảnh này không phải cùng chiếc khăn đó nữa. Tôi dùng ba ngón tay phóng to màn hình cảm ứng để xác nhận lại. Độ phân giải của camera giám sát có không tốt chăng nữa cũng chẳng hề gì, tôi hầu như chắc chắn họa tiết chiếc khăn đă khác.

Đúng vào ngày bị sát hại, Clara không đeo chiếc khăn ưa thích.

Tôi cảm thấy một cơn rùng mình chạy qua người.

Một chi tiết vô thưởng vô phạt chăng?

Tuy thế, trí óc tôi vẫn hoạt động, cố gắng hợp lý hóa câu chuyện. Tại sao Clara Maturin lại đổi khăn vào đúng ngày hôm đó? Có lẽ cô đã cho một người bạn gái mượn khăn chăng? Có lẽ cô đã gửi chiếc khăn lại hiệu giặt là? Có lẽ cô đã đánh mất nó?

Có lẽ cô đã đánh mất nó…

Maud Morel, nạn nhân thứ hai, cũng đã đánh mất thứ gì đó: chiếc điện thoại di động, cuối cùng người ta đã tìm thấy điện thoại di động của cô trèn một chiếc taxi. Còn điện thoại di động của Nathalie Roussel - mà người ta cứ ngỡ đã bị đánh cắp - biết đâu cô ấy cũng đã làm mất nó thì sao?

Đánh mất.

Hai chiếc điện thoại di động, một chiếc khăn quàng…

Thế còn Virginie André? Cô ấy đã đánh mất thứ gì nhỉ?

Mạng sống.

Nhưng còn gì nữa đây? Tôi thoát khỏi ứng dụng album ảnh trên điện thoại để chuyển sang chế độ cuộc gọi và bấm số của Seymour.

“Chào, là tôi đây. Liên quan đến vụ sát hại Virginie André, cậu có biết liệu, đâu đó trong quá trình điều tra, có nhắc tới một đồ vật nào đó mà nạn nhân làm thất lạc mới đây không?”

“Alice à! Chị đang trong kỳ nghỉ đấy, khỉ thật! Chị lo chuẩn bị đón em bé của mình đi chứ!”

Tôi phớt lờ những lời trách móc.

“Cậu còn nhớ hay không nào?”

“Không, tôi không biết gì về chuyện đó hết, Alice ạ. Đội chúng ta đâu còn điều tra vụ đó nữa.”

“Cậu có thể tìm số liên lạc với chồng cũ của nạn nhân đó được không? Rồi gửi vào điện thoại cho tôi nhé. Tôi sẽ đích thân hỏi anh ta câu hỏi vừa rồi.”

“Nhất trí,” cậu ta thở dài.

“Cảm ơn cậu.”

Ba phút sau khi ngắt máy, một tin nhắn từ Seymour hiển thị trên màn hình điện thoại của tôi. Tôi lập tức gọi cho Jean-Marc André rồi để lại một tin nhắn trên máy trả lời tự động của anh ta, yêu cầu anh ta liên lạc lại với tôi càng sớm càng tốt.

* * *

“Schäfer! Cô vẫn còn đi bộ được sao?” Rose-May vừa gọi tên tôi vừa trợn tròn mắt nhìn tôi.

Đó là một phụ nữ dân đảo Reunion tròn lẳn, giọng đặc âm sắc địa phương, mỗi lần gặp tôi bà đều xạc cho một trận như thể tôi là một bé gái.

“Nào, không phải đâu!” Tôi thốt lên trong lúc đi theo bà vào một trong những căn phòng thuộc tầng bốn nơi bà thường dạy những khóa học tiền sản.

Bà yêu cầu tôi nằm dài ra, rồi thăm khám cho tôi cẩn thận, đảm bảo với tôi rằng cổ tử cung vẫn đóng, không hề có nguy cơ sinh non. Bà hài lòng khi thấy em bé đã quay đầu xuống chứ không còn ở vị trí ngôi ngược nữa.

“Đầu bé đã quay xuống đúng vị trí và lưng bé đang ở bên sườn trái. Đây chính là tư thế lý tưởng đó! Thậm chí bụng cô đã bắt đầu tụt xuống một chút rồi.

Bà dùng hai sợi dây đai để cố định hai bộ phận cảm biến hên bụng tôi rồi cắm điện máy monitor để ghi lại nhịp tim của em bé và những con co dạ con.

Tôi nghe thấy nhịp tim của con trai mình.

Tôi cảm động, mắt tôi mờ đi, nhưng cùng lúc một con rùng mình lo lắng thít chặt lồng ngực tôi. Rồi Rose-May giải thích với tôi các bước cần tuân thủ khi nào tôi bắt đầu cảm nhận được các cơn co, bình thường sẽ vào khoảng bốn đến năm tuần nữa.

“Nếu các cơn co diễn ra mười phút một, hãy uống Spasfon và chờ nửa tiếng. Nếu cảm giác đau biến mất thì các con co đó chỉ là báo động giả. Nếu vẫn còn cảm giác đau và…”

Tôi cảm thấy điện thoại di động của mình đang rung lên trong túi áo khoác để không xa chỗ tôi là mấy. Tôi ngắt lời bác sĩ, ngồi dậy và cúi xuống lấy điện thoại.

“Jean-Marc André đây,” giọng nói ở đầu dây bên kia thông báo. “Nghe máy trả lồi tự động rồi tôi mới…”

“Cảm ơn anh đã liên lạc lại. Tôi là đại úy Schäfer, một trong những sĩ quan cảnh sát phụ trách điều tra vụ sát hại vợ cũ của anh. Anh có còn nhớ liệu trong những ngày trước khi chết, cố ấy có đánh mất thứ gì không?”

“Đánh mất thứ gì?”

“Tôi không biết đích xác. Một món quần áo? Một món trang sức? Một chiếc ví?”

“Có liên quan gì tới việc cô ấy bị sát hại?”

“Có lẽ là không liên quan gì, nhưng vẫn cần khai thác mọi hướng điều tra. Anh không nhớ gì về một đồ vật nào đó bị thất lạc sao?”

Anh ta suy nghĩ một lát, rồi:

“À mà có đấy…”

Anh ta ngưng lại giữa chừng. Tôi cảm thấy giọng anh ta nghẹn lại vì xúc động, nhưng anh ta trấn tĩnh lại được và giải thích:

“Vả lại, đó chính là một trong những lý do khiến chúng tôi cãi cọ lần cuối cùng khi cô ấy gửi thằng bé cho tôi trông nom. Tôi đã trách cô ấy vì đánh mất con gấu bông Gaspard, một món đồ chơi mà nếu không có trong tay, thằng bé sẽ không ngủ được. Virginie cho rằng đã làm mất món đồ chơi đó trong công viên Monceau. Cô ấy đã nhắc đến văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc, nhưng…”

Đồ thất lạc…

Tôi cảm thấy tim mình đập gấp gáp trong lồng ngực. Thứ adrenalin thuần túy.

“Đợi đã, anh André,” tôi muốn chắc là mình đã hiểu đúng: “Virginie đã đích thân tìm đến văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc hay chỉ dự định sẽ tới đó?”

“Cô ấy nói với tôi là đã tới đó và điền một tờ phiếu để người ta báo tín nếu tìm ra con gấu bông.”

Tôi không dám tin vào tai mình.

“Được rồi, cảm ơn anh. Tôi sẽ gọi lại nếu có tin tức gì mới.”

Tôi gỡ hai mảnh điện cực ra, đứng dậy rồi vội vã mặc lại quần áo.

“Cho tôi xin lỗi nhé Rose-May, nhưng tôi phải đi đây.”

“Không! Chuyện này không nghiêm túc chút nào, cô Schäfer. Trong tình trạng này cô không nên…”

Tôi đẩy cánh cửa ra vào rồi bước vào thang máy. Tồi mở điện thoại để gọi một chiếc taxi. Tôi đi đi lại lại trong sảnh chờ xe đến.

Đây là cuộc điều tra của mình.

Lòng kiêu hãnh của tôi nổi lên. Tôi nghĩ đến hàng chục cảnh sát thuộc đội Hình sự đã rà soát kỹ lưỡng thời gian biểu của tất cả các nạn nhân và có thể đã bỏ qua một điều gì đó quan trọng.

Điều gì đó mà chính tôi vừa mới tìm ra…

* * *

36 phố Morillons, quận 15,

ngay sau công viên Georges-Brassens

Chiếc taxi thả tôi xuống trước trụ sở Văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc: một tòa nhà xinh xắn được xây dựng từ những năm 1920 bằng gạch màu hồng và đá màu trắng. Ngay cả khi văn phòng này trực thuộc Cảnh sát thành phố Paris, thì đây vẫn là một cơ cấu hành chính trong đó không hề có cảnh sát nào làm việc, và tôi cũng chưa bao giờ đặt chân tới đây.

Tôi trình thẻ ngành tại quầy lễ tân rồi yêu cầu được gặp người phụ trách. Trong khi chờ đợi, tôi liếc nhìn xung quanh. Đằng sau các quầy là khoảng chục nhân viên đang thờ ơ tiếp đón những người tới giao nộp đồ vật họ tìm thấy trên đường công cộng và những người tới nhận lại tài sản hoặc tới trình báo đồ thất lạc.

“Stéphane Dalmasso, hân hạnh được tiếp đón cô.”

Tôi ngẩng lên. Hàng ria rậm, đôi gò má chảy xệ, cặp kính tròn gọn nhỏ bằng nhựa nhiều màu: ông chủ của phố Morillons có gương mặt dễ mến và âm sắc đặc Marseille.

“Alice Schäfer, đội Hình sự.”

“Hân hạnh làm quen. Cô sắp sinh chưa?” Ông ta hỏi khi nhìn thấy bụng tôi.

“Còn một tháng rưỡi nữa, mà cũng có thể sớm hơn.”

“Một đứa trẻ sẽ giúp cô thành người trưởng thành!” Ông ta nói rồi mời tôi theo vào văn phòng.

Tôi bước vào một căn phòng rộng rãi được bố trí như một viện bảo tàng nhỏ nơi trưng bày những đồ vật lạ thường nhất mà văn phòng thu gom được: một Huân chương Bắc đẩu Bội tinh, một chiếc chân giả, một cái sọ người, một mảnh kim loại đến từ World Trade Center, một chiếc bình đựng tro mèo, một thanh kiếm yakusa và thậm chí có cả… một chiếc váy cưới.

“Cách đây vài năm một tài xế taxi đã mang nó tới chỗ chúng tôi. Anh ta đã chở một đôi trai gái vừa trao nhẫn cho nhau. Hai người này đã nảy sinh tranh cãi và hủy hôn ngay trên đường đi, Stéphane Dalmasso giải thích.”

“Ông đang cai quản một cái hang Ali Baba thực sự đấy…”

“Đa phần người ta mang tới chỗ chúng tôi chủ yếu là ví, kính, chìa khóa, điện thoại và ô.”

“Ấn tượng đấy chứ,” tôi vừa nói vừa liếc nhìn đồng hồ đeo tay.

“Tôi có hàng đống giai thoại ấy chứ, nhưng tôi nghĩ cô đang vội, ông ta vừa đoán vừa mời tôi ngồi. Vậy thì sao nhỉ? Tại sao đội Hình sự lại tìm tới tôi?”

“Tôi đang điều tra một vụ giết người hàng loạt. Tôi muốn biết liệu có phải dạo gần đây có một người phụ nữ tên Virginie André đã tìm tới chỗ các ông hay không.”

“Để yêu cầu chúng tôi chuyện gì đây?”

“Để hỏi xem liệu các ông có tìm thấy một con gấu bông của con trai cô ta bị thất lạc tại công viên Monceau hay không.”

Ngồi trên một chiếc ghế xoay, Dalmasso nhích lại gần bàn làm việc rồi nhấn một nút trên bàn phún để kích hoạt máy tính.

“Cô vừa nói là Virginie André nhỉ?” Ông ta vừa hỏi vừa vân vê ria mép.

Tôi gật đầu xác nhận. Ông ta tiến hành tìm kiếm trong phần mềm quản lý.

“Không, tồi lấy làm tiếc, trong tháng vừa qua chúng tôi không hề nhận được yêu cầu nào dưới tên này.”

“Có lẽ cô ta đã điền tờ khai về đồ thất lạc theo mẫu trên mạng hoặc qua điện thoại.”

“Nếu vậy thì hẳn tôi phải tìm ra cô ta rồi. Tất cả những yêu cầu dạng này đều buộc phải lưu lại trên cơ sở dữ liệu của chứng tôi. Các nhân viên của chúng tôi điền các mẫu đơn này trực tiếp trên máy tính kia mà.”

“Lạ thật, chồng cô ta vừa khẳng định với tôi là Virginie André đã tới chỗ các ông trình báo. Ông có thể xác minh thêm ba người nữa không?”

Tôi viết những cái tên lên tập giấy Filofax gáy lò xo đặt trên bàn làm việc rồi quay cuốn sổ lịch lại.

Dalmasso giải mã chữ viết của tôi rồi nhập lần lượt ba dữ liệu cần tìm: ‘Clara Maturin’, ‘Nathalie Roussel’, ‘Maud Morel’.

“Không, cả ba cái tên đều không cho ra kết quả nào.”

Tôi cảm thấy thất vọng vô bờ bến. Nhiều giây sau tôi mới có thể chấp nhận sai lầm của mình.

“Được rồi, đành vậy. Cảm ơn ông đã giúp đỡ.”

Trong khi đứng dậy để rời khỏi văn phòng, tôi cảm thấy nhoi nhói nên vội áp tay lên bụng. Đứa bé vẫn liên tục cử động. Nó đạp mạnh vào bụng tôi như thể muốn kéo căng bụng tôi ra. Trừ phi đó chính là những con co…

“Cô ổn chứ?” Dalmasso lo lắng hỏi. “Cô có muốn tôi gọi cho cô một chiếc taxi không?”

“Làm ơn,” tôi vừa nói vừa ngồi lại xuống ghế.

“Claudette!” Ông gọi cô thư ký. “Gọi giúp tôi một chiếc xe cho cô Schäfer đây.”

Hai phút sau, một phụ nữ thấp bé với mái tóc nhuộm màu đỏ hung kinh dị, vẻ mặt bất mãn và khắc nghiệt xuất hiện trong văn phòng, tay cầm chiếc tách nghi ngút khói.

“Taxi sẽ tới ngay thôi,” chị ta cam đoan. “Cô muốn uống một chút trà ngọt không?”

Tôi nhận lấy món đồ uống rồi dần dần hồi tính. Tôi không biết tại sao nhưng người phụ nữ thấp bé kia vẫn nhìn tôi với vẻ quàu quạu. Bỗng nhiên một câu hỏi lướt qua tâm trí tôi.

“Ông Dalmasso này, tôi quên mất không hỏi ông một việc: có ai trong số các nhân viên của ông sở hữu một chiếc xe tay ga ba bánh không?”

“Theo tôi biết thì không. Đó đúng ra là một thứ đồ dùng của đàn ông phải không? Mà như cô thấy đấy, phần lớn nhân viên ở đây đều là nữ.”

“Erik chẳng đi làm với một chiếc xe kiểu đó đấy thôi,” nữ thư ký xen ngang cuộc trò chuyện giữa chúng tôi.

Tôi nhìn thẳng vào mắt Dalmasso.

“Erik là ai vậy?”

“Erik Vaughn là một nhân viên thay thế tạm thời. Anh ta làm việc cho văn phòng chúng tôi trong các dịp nghỉ lễ, trong các kỳ cao điểm và khi một trong những nhân viên của chúng tôi nghỉ chữa bệnh trong khoảng thời gian dài.”

“Hôm nay anh ta có đi làm không?”

“Không, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ lại nhận anh ta vào làm dịp lễ Giáng sinh.”

Qua tấm vách kính khía rãnh của văn phòng, tôi thoáng thấy chiếc taxi đang chờ mình dưới mưa.

“Ông có địa chỉ của anh ta không?”

“Chúng tôi sẽ tìm cho cô,” ông ta cam đoan rồi chìa một tờ giấy nhắn còn trắng cho cô thư ký.

Chi tiết mới này nhen nhóm lại nhiệt tình trong tôi. Tôi không muốn lãng phí thời gian. Tôi vội vã ghi số điện thoại và email của mình lên cuốn sổ lịch của Dalmasso.

“Làm ơn thống kê lại những khoảng thời gian Vaughn đã từng làm việc tại văn phòng này trong vòng hai năm trở lại đây rồi gửi cho tôi vào điện thoại hoặc hòm thư điện tử nhé.”

Tôi cầm tờ giấy dính ‘Claudette’ đang chìa cho tôi, đóng sập cửa sau lưng rồi chui vào taxi.

* * *

Bên trong chiếc taxi nồng nặc mùi mồ hôi. Chiếc radio bật âm lượng to hết cỡ và đồng hồ tính tiền đã hiển thị số tiền cần thanh toán là 10 euro. Tôi đưa địa chỉ cho tài xế “một tòa nhà nằm trên phố Parent-de-Rosan thuộc quận 16 “rồi kiên quyết đề nghị anh ta giảm âm lượng radio. Anh ta còn tỏ ra trịch thượng cho tới khi tôi chìa thẻ ngành ra.

Tôi bồn chồn, run rẩy không yên, người nóng bừng bừng.

Tôi cần trấn tĩnh lại. Tôi thầm nhẩm lại một kịch bản được xây dựng dựa trên những giả thiết không chắc đã xảy ra nhưng tôi lại muốn tin vào. Erik Vaughn, một nhân viên của văn phòng trả đồ thất lạc, tận dụng vị trí làm việc của mình để tìm ra những nạn nhân tiếp theo. Cả bốn người Clara Maturin, Nathalie Roussel, Maud Morel và Virginie André đều đã gặp hắn, nhưng hắn không bao giờ nhập phiếu thông tín của họ vào phần mềm của văn phòng. Chính vì thế mà tên của họ không hiển thị trên phần mềm. Hắn đã khiến họ tin tưởng, trò chuyện với họ, thu thập tối đa thông tín: hắn biết địa chỉ nhà họ, hắn biết họ sống một mình. Sau cuộc gặp đầu tiên này, hắn để vài ngày trôi qua rồi tìm tới nhà con mồi, viện cớ mang trả lại họ món đồ thất lạc. Thật không may, cả bốn phụ nữ này lại thấy việc mời hắn vào nhà là chuyện bình thường. Người ta không bao giờ dè chừng người mang tới tin vui. Người ta nhẹ nhõm vì tìm lại được chiếc khăn mình yêu thích, chiếc điện thoại di động hoặc món đồ chơi gấu bông của con trai mình. Thế nên người ta mở rộng cửa, ngay cả khi đã quá chín giờ tối.

Không, mình đang nghĩ vẩn vơ rồi. Cơ may nào để giả thiết này có cơ sở? Một trên một nghìn chăng? Tuy nhiên…

Quãng đường khá ngắn. Sau khi ngược lên đại lộ Victor-Hugo, chiếc xe đi ngang qua trước bệnh viện Georges-Pompidou rồi băng qua sông Seme, không xa cửa ô Saint-Cloud.

Đừng hành động đơn độc…

Tôi biết hon ai hết rằng giải pháp cho một cuộc điều tra hình sự không phải là một công việc cá nhân. Đó là một trình tự ăn khớp với nhau và hết sức quy tắc hóa, kết quả của một công việc tập thể lâu dài. Chính vì thế mà tôi rất muốn gọi cho Seymour và chia sẻ với cậu ấy về những gì mình phát hiện được. Tôi lưỡng lự, rồi quyết định chờ cho tới lúc nhận được những mốc ngày tháng Erik Vaughn từng làm việc cho Văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc.

Điện thoại của tôi rung lên. Tôi kiểm tra hòm thư điện tử. Dalmasso đã gửi cho tôi thời gian biểu của Vaughn dưới dạng bảng Excel. Tôi chạm vào màn hình, nhưng tệp đính kèm không chịu mở ra.

Định dạng không tương thích.

Khỉ thật…

“Đến nơi rồi.”

Gã tài xế tính tình khó chịu thả tôi ngay giữa con đường nhỏ một chiều kẹt giữa phố Boileau và đại lộ Mozart. Mưa vẫn nặng hạt. Nước chảy ngoằn ngoèo trên cổ tôi. Tôi cảm thấy sức nặng của đứa bé trong bụng, rất thấp và rất nặng, cảm nhận rõ đến nỗi càng lúc tôi càng khó bước đi.

Quay lại thôi.

Giữa những ngôi nhà phố và những tòa nhà nhỏ, tôi nhận ra một tòa nhà màu xám nhạt mang số nhà như cô thư ký đã ghi ra giấy. Một tòa kiến trúc đặc trưng cho những năm 1970: một thang bê tông gớm ghiếc chạy suốt chiều dọc làm biến dạng con phố.

Tôi đọc thấy cái tên ‘Vaughn’ bên trên nút chuông bèn nhấn chuông.

Không có ai nhấc điện thoại nội bộ.

Trong phố, trên chỗ đỗ dành cho xe hai bánh có một chiếc mô tô, một chiếc Chappy Yamaha cũ kỹ và một chiếc xe tay ga ba bánh.

Tôi vẫn nhấn chuông thêm một lúc nữa rồi nhấn lên mọi nút chuông cho tới khi một người sống trong tòa nhà mở cửa cho tôi.

Tôi ghi lại tầng nhà nơi Vaughn sống rồi từ tốn leo cầu thang bộ. Tôi lại bắt đầu cảm thấy những cú thúc trong bụng. Những cú đạp cảnh báo.

Tôi biết mình đang làm một việc ngu ngốc, nhưng điều gì đó thôi thúc tôi tiếp tục dấn bước. Cuộc điều tra của tôi. Tôi không bật đèn. Tôi leo từng bậc cầu thang một trong bóng tối.

Tầng 7.

Cánh cửa ra vào căn hộ của Vaughn khép hờ.

Tôi vừa lấy khẩu súng từ túi xách ra vừa mừng thầm là đã có linh cảm trước để mang theo súng. Hai tay tôi siết chặt báng súng.

Tôi cảm thấy mồ hôi pha lẫn nước mưa đang chảy ròng ròng trên lưng xuống tận xương sống.

Tôi hét to:

“Erik Vaughn phải không? Cảnh sát đây. Tôi sẽ vào bên trong.”

Tôi đẩy cửa, hai bàn tay vẫn siết chặt báng súng. Tôi tiến bước trong hành lang. Tôi gạt cầu dao, nhưng điện đã bị ngắt. Bên ngoài, mưa gõ nhịp trên mái.

Căn hộ gần như trống trải. Không đèn đuốc, không đồ đạc, hên sàn phòng khách có vỏn vẹn vài chiếc thùng các tông. Rõ ràng là đối tượng đã biến mất.

Nỗi lo của tôi giảm xuống phần nào. Bàn tay phải của tôi rời khẩu súng để lôi điện thoại ra. Đang bấm gọi cho Seymour, tôi cảm thấy ai đó xuất hiện đằng sau mình. Tôi buông điện thoại rồi quay ngoắt lại thì thấy một gã đàn ông với gương mặt khuất sau chiếc mũ bảo hiểm.

Tôi mở miệng toan hét lên, nhưng trước khi bất cứ tiếng kêu nào kịp cất lên, tôi cảm thấy một lưỡi dao cắm ngập vào da thịt mình.

Lưỡi dao ấy đang giết chết con trai tôi.

Vaughn vẫn tiếp tục đâm vào bụng tôi.

Hai chân tôi bủn rủn và tôi ngã lăn ra đất.

Tôi lờ mờ nhận ra hắn đang cởi tất da chân của tôi. Rồi tôi cảm thấy mình đang rời đi, bị cuốn theo một dòng sông máu và thù hận. Ý nghĩ sau cùng của tôi hướng về bố. Chính xác hon là hướng về câu nói ông đã cho xăm lên cẳng tay:

Mưu mẹo xảo quyệt nhất của quỷ dữ là khiến bạn tin rằng nó không tồn tại.