CHƯƠNG 17 MƯU MA CHƯỚC QUỶ
Số phận theo đuổi chúng ta như một kẻ điên mang theo dao cạo.
• Andrei TARKOVSKI
Chiếc Shelby rời khỏi đường quốc lộ, vòng theo một bùng binh rồi đi theo lối ra đầu tiên dẫn vào thành phố.
Nằm tại ranh giới giữa hai bang Massachusetts và New Hampshire, Greenfield là một thị trấn nhỏ ngưng đọng trong thời gian. Trải dài hai cây số, phố Main tập trung tòa thị chinh, bưu điện, tòa án và nhà thờ lớn màu trắng với tháp chuông ngọn hoắt. Ở đó cũng xuất hiện thư viện thành phố, rạp chiếu phim cũ kỹ có tấm biển hiệu gắn vô số những bóng đèn tròn, những tiệm cà phê, những nhà hàng và những tiệm kinh doanh truyền thống nhỏ lẻ. Tòa nhà nào cũng phấp phới cờ Mỹ chi chít sao. Những Stars and Stripes hãnh diện bay phần phật trong nắng chiều.
Dừng lại đây cho tôi, Alice yêu cầu trong lúc chỉnh lại dây đeo của bao súng.
“Ở đây sao? Nhưng Barbie bảo chúng ta là ga ra của anh họ cô ấy nằm ở lối ra thành phố kia mà.”
“Tôi cần mua thứ này, Keyne ạ.”
Anh thở dài.
“Tôi cứ nghĩ chúng ta thôi cái thói làm ra vẻ bí mật rồi cơ đấy…”
“Tôi sẽ không ngồi khoanh tay trong lúc chờ người ta sửa xe cho chúng ta đâu! Tôi định ghé một quán cà phê có mạng Internet. Tôi cần xác minh chuyện này.”
“Chuyện gì thế?” Anh ngờ vực.
“Tôi muốn tra cứu những bài báo cũ viết về Vaughn. Tôi sẽ giải thích với anh sau…”
Chiếc xe dừng lại ở đèn đỏ. Gabriel rút bao thuốc vừa mua ra.
“Ở xứ khỉ ho cò gáy này không có quán cà phê Internet nào đâu.”
“Tôi sẽ tìm ra, Keyne ạ.”
Anh cân nhắc vài giây.
“OK, tôi thả cô ở đây, nhưng cô phải để lại súng trong xe.”
Viễn cảnh này không hề khiến cô gái thích thú, nhưng cô không có thời gian bàn cãi dài dòng. Đèn chuyển sang xanh. Cô mở hộc đựng đồ trên xe rồi nhét khẩu Glock vẫn nằm nguyên trong bao vào đó.
“Hẹn gặp anh ở ga-ra,” cô vừa nói vừa mở cửa xe bước ra ngoài.
Cô băng qua lòng đường sang vỉa hè đối diện và cuốc bộ tới tận City Hall. Trước tòa nhà, cô nhìn thấy một tấm bản đồ thành phố dán trên tủ hốc tường bên trên có mái che bằng gỗ. Cô chăm chú quan sát bản đồ và thấy thứ đang tìm: địa chỉ một trung tâm y tế trên phố Second.
Điều thuận tiện ở các thành phố nhỏ là tất cả các công trình hạ tầng xã hội đều tập trung trong cùng một khu vực. Alice chỉ việc đi thêm vài trăm mét nữa là tới trước một tòa nhà mới xây với mặt tiền hết sức hiện đại. Một con sóng nhấp nhô theo chiều thẳng đứng, màu xanh kim loại, lạc lõng trong kiến trúc cổ điển của thành phố.
Cô bước qua cánh cửa trượt tự động để vào đến đại sảnh của tòa nhà nơi có treo một loạt những tấm biển chỉ dẫn. Đọc lướt qua, cô nhận thấy Medical Center là một tòa kiến trúc đa năng với phạm vi thăm khám bệnh khá rộng: bác sĩ đa khoa, chuyên khoa, phòng thí nghiệm phân tích, chẩn đoán hình ảnh…
Alice tới trước quầy lễ tân, khẳng định cô tới để chụp X quang lồng ngực. Người ta yêu cầu xuất trình giấy xác nhận cuộc hẹn, đon thuốc và số bảo hiểm xã hội. Vì không có bất cứ thứ gì trong số đó, cô bịa bừa ra một câu chuyện, tự nhận mình là một du khách Pháp vốn mắc chứng suy tim đang muốn chụp X quang theo dõi thông thường. Cô thư ký liếc nhìn cô vẻ hoài nghi, rồi tra thời gian biểu và đề nghị cô quay trở lại vào ngày mai.
“Chuyện này khá gấp,” Alice cố nài. “Tôi rất mong được gặp bác sĩ chụp X quang để giải thích trường hợp của mình. Dĩ nhiên là tôi sẽ trả toàn bộ chi phí.”
“Để tôi xem nào,” cô thư ký vừa nói vừa nhấc điện thoại lên.
Cô ta đàm phán khoảng hai phút với một đồng nghiệp rồi gác máy trước khi thông báo:
“Tôi vừa nói chuyện với thư ký của bác sĩ Mitchell. Bác sĩ sẽ tranh thủ gặp chị giữa hai lượt khám bệnh theo hẹn. Chị đưa tôi thẻ căn cước được không?”
“Chết thật, tôi lại để túi xách trong xe rồi. Nhưng chồng tôi sẽ quay lại đón và anh ấy…”
“Được rồi, chị mau lên gác đi. Phòng chờ chụp X quang nằm ở tầng năm nhé.”
Cô ta bấm nút mở một cánh cửa an toàn nhỏ chất liệu Plexiglas dẫn lên các tầng trên.
Thang máy. Một quầy lễ tân nữa. Hành lang. Phòng chờ.
Căn phòng được son bằng những màu sắc sáng sủa và dịu mắt. Tường màu trắng, phủ PVC xuống tận nền nhà, những băng ghế và ghê ngồi sưởi mặt vải khung gỗ sồi rừng. Một bà cụ, lưng còng gập dưới sức nặng tuổi tác, kiên nhẫn lật giở một tờ tạp chí đại chúng trong lúc chờ đợi. Phía trước bà, chiếm phần lớn diện tích chiếc ghế dài là một chàng thanh niên lực lưỡng như hộ pháp, chân bó bột và mắt sưng húp, đang chơi máy tính bảng.
Alice ngồi xuống bên cạnh anh chàng và bắt chuyện:
“Tai nạn xe hơi hả?”
“Bóng bầu dục, cậu sinh viên đáp, ngước mắt lên khỏi màn hình máy tính bảng. Thứ Bảy tuần rồi bọn Albany đã không tặng quà cho tôi.”
Gương mặt điển trai, nụ cười trắng sáng, ánh mắt lấp lánh đã quá đủ để quyến rũ các cô gái. Và một vài chàng trai.
“Máy tính bảng của cậu kết nối với Internet chứ?”
“Chính xác.”
Alice không buồn vòng vo thêm.
“Cậu muốn kiếm năm mươi đô dễ như trở bàn tay không?”
Cậu ta nhướng mày.
“Chị thử nói xem.”
Cô lấy từ túi áo ra một tờ tiền.
“Cậu cho tôi mượn máy năm phút và đút túi chỗ tiền này. Dễ ợt…”
“Tôi nhận lời với giá một trăm đô.”
“Cậu xéo đi cho.”
“OK, đừng tức giận thế chứ!” Cậu ta đầu hàng, chìa chiếc iPad ra.
Nữ cảnh sát cầm lấy chiếc máy tính bảng, đóng ứng dụng hiện hành rồi mở trang truy cập để kết nối lần lượt với các trang mạng của tờ La Liberation, Le Monde và Le Figaro. Chuyện này có vẻ quá sức kỳ lạ, nhưng Alice không biết mặt Vaughn. Khi tấn công cô, tên sát nhân đội mũ bảo hiểm. Chính hình ảnh sau cùng này mà cô còn giữ được đã khắc sâu vào tâm trí cô. Một chiếc mũ bảo hiểm màu đen có hình con chim săn mồi với đường nét sắc sảo và màu sắc sống động; một tấm kính che sơn màu ánh kim loại, một màng thông khí và một dải đỡ cằm không cản gió, trông giống một nụ cười khủng khiếp.
Sau này, trong quá trình điều trị, Alice đã nhất trí với nữ bác sĩ tâm lý theo dõi cô rằng cứ xoáy mãi lưỡi dao vào vết thương bằng cách tìm đọc nhũng bài báo nói về vụ việc cũng chẳng ích gì. Nhung điều mà bác sĩ tâm lý không hề hay biết, đó là vào quãng thời gian ấy, Alice tin chắc rằng Vaughn đã chết.
Hôm nay thì không còn như vậy nữa.
Cô tiến hành tìm kiếm và tìm ra nhiều bức ảnh chụp tên sát nhân được báo chí đăng tải trong nhũng tuần tiếp sau vụ việc. Khoảng một chục bức ảnh khác nhau trên đó Erik Vaughn xuất hiện ít nhiều rõ nét. Một gã đàn ông ba mươi lăm tuổi, tóc nâu, ngoại hình đúng ra là dễ nhìn, nhưng cũng dễ lẫn với người khác.
Điều khiến người ta bối rối nhất là nỗi khó khăn khi phải đưa ra một chân dung cuối cùng về Vaughn, tổng họp từ các bức ảnh khác nhau đó. Alice nghĩ đến những diễn viên chẳng khác nào loài tắc kè hoa mà đôi khi cô vẫn lẫn lộn từ vai diễn này sang vai diễn khác, từ bộ phim này sang bộ phim khác, vì họ có khả năng biến hóa: Hugh Jackman, Christian Bale, Kevin Spacey, John Cusak…
Cô rút từ trong túi ra bản fax có ảnh chụp Caleb Dunn và so sánh với những hình ảnh hiển thị trên màn hình iPad. Vaughn và Dunn phải chăng là cùng một người? Điều này không rõ đến mức đập vào mắt, nhưng người ta vẫn không thể loại trừ khả năng này.
Alice biết rằng, ngày nay, với công nghệ phẫu thuật thẩm mỹ, các khả năng biến đổi một khuôn mặt đã gần mở ra tới vô hạn. Một vài đồng nghiệp của cô gần đây đã đối diện với những tên tội phạm nhờ cậy đến các công nghệ biến đổi vẻ bề ngoài này: thủ thuật tạo hình mũi, luồn chỉ răng cưa vào lớp da chân bì để tạo dáng ô van cho khuôn mặt, thủ thuật tạo hình tai để sửa những đôi tai biến dạng, tiêm axít hyaluronic để nâng gò má, phẫu thuật răng để mua lấy một nụ cười mới…
Đang trả lại chiếc máy tính bảng cho chủ nhân của nó thì cô cảm thấy điện thoại rung lên trong túi.
Seymour.
Người có thể kết thúc con ác mộng.
* * *
“Cậu đến nhà máy chưa?” Cô hỏi không rào trước đón sau.
“Chưa, tôi vừa rời Sarreguemines, rời khỏi Paris đúng là địa ngục, và Castelli đã mất bao nhiêu thời gian mới xác định được vị trí mà trước kia là nhà máy đường ấy.”
“Nó nằm ở đâu vậy?”
“Một nơi được biết đến với cái tên ngõ cụt Kästelsheim. Tôi đã nhập địa chỉ vào GPS, nhưng không có kết quả nào hết; hệ thống định vị không dò ra được địa chỉ đó. Chị đừng lo, rồi tôi sẽ tìm ra thôi. Vấn đề là cơn mưa khốn kiếp này. Nào mưa gió bão bùng nào rét mướt, và tôi không thể nhìn xa quá ba mét.”
Alice nghe thấy văng vẳng qua điện thoại tiếng cần gạt nước hoạt động hết công suất và tiếng nhạc réo rắt phát ra từ radio ô tô: ‘Tin tức tổng hợp về giải Liên đoàn 1, chỉ có trên RTL!’
“Tôi gọi cho chị về chuyện khác kia,” Seymour nói tiếp. “Tôi phải cho Savignon và Castelli biết vài thông tin rồi. Tôi không thể yêu cầu họ làm việc ngoài giờ mà không nói cho họ biết sự thật được. Họ đang thức trắng đêm ở văn phòng để làm sáng tỏ những hướng điều tra có thể giúp ích cho chúng ta.”
“Cậu cảm ơn họ giúp tôi nhé.”
“Vừa đúng lúc, Savignon vừa gọi cho tôi nói về chuyện số xê ri của khẩu Glock 22 mà sáng nay chị đọc cho tôi.”
Cô nuốt nước bọt. Cô đã quên khuấy mất hướng điều tra đó.
“Phải rồi, khẩu súng tôi tìm thấy trong áo khoác mặc trên người. Thế nào rồi?”
“Bấy giờ tôi đã lập tức tra lại hồ sơ về các vũ khí bị đánh cắp, nhưng không tim ra khẩu Glock. Bù lại, khi tôi nhắc đến Vaughn với Savignon, anh ấy đã ngay lập tức hiểu ra vấn đề. Cách đây hai năm, sau khi chị bị tấn công, khi khám xét căn hộ của tên sát nhân, chúng ta đã tìm ra một khẩu súng.”
“Và?”
“Savignon đã kiểm tra các giấy tờ biên nhận: đó là một khẩu Glock 22 và số xê ri trùng khớp.”
“Khoan đã, không thể có chuyện ấy được. Khẩu súng ấy đã được niêm phong và…”
“Savignon đã mất một giờ đồng hồ trong phòng tang vật được niêm phong. Khẩu súng đã biến mất.”
Khỉ thật…
Con ác mộng vẫn tiếp diễn.
“Chị phải nói cho tôi biết sự thật nhé, Alice: có phải chính chị đã lấy khẩu súng đó không?”
“Seymour! Làm sao cậu có thể đặt cho tôi câu hỏi đó chứ?”
“Bởi vì đến đây thì chúng ta thực sự đang gặp rắc rối rồi đấy.”
“Dẫu sao thì đây cũng không phải lần đầu tiên chúng ta gặp rắc rối với vấn đề bảo quản tang vật kia mà! Cậu nhớ lại đi, cách đây một năm có vụ nhân viên canh gác làm việc trong phòng này đã tuồn ra ngoài ma túy cùng vũ khí ấy? Có lẽ chính gã đã thực hiện vụ này cũng nên.”
“Cũng có thể…”
“Và ngay cả khi tôi đã đánh cắp khẩu súng này chăng nữa, làm thế nào tôi có thể đem nó vào đất Mỹ, qua cổng kiểm soát an ninh và nhập cảnh nhỉ?”
Cô nghe thấy anh chàng đồng sự thở dài.
“Tôi chỉ cần tin chị thôi, Alice ạ, nhưng thực sự phải làm sáng tỏ chuyện này.”
Cô cảm thấy cậu ta vẫn chưa nói với cô mọi chuyện.
“Cậu còn tin gì khác không?”
“Có đây, và chị sẽ không muốn nghe đâu. Tin liên quan đến chiếc xe của chị. »
“Cậu đã tìm thấy nó rồi hả?”
“Đứng vậy, ở kho tang vật tại Charléty. Savignon đã tìm hiểu thông tin: đêm qua các nhân viên của tòa thị chính đã kéo nó về từ đảo Cité.”
“Chính xác là ở đâu?”
Seymour hít một hơi dài.
“Người ta đã tìm thấy chiếc Audi của chị vào lúc 4 giờ sáng nay, giữa cầu Archevêché. Chính xác tại nơi Paul đã gặp tai nạn.”
Thiếu chút nữa Alice làm rơi điện thoại vì kinh ngạc.
Đúng lúc đó, cửa phòng chờ bật mở và một người đàn ông cao lớn mặc áo blu trắng ló đầu qua khe cửa.
“Bà Alice Schäfer?” Anh ta hỏi trống không.