Thanh Nam dưới đất trời Tây Bắc
Thành phố Seattle, thủ phủ của tiểu bang Washington, có những chuyến bus từ tinh sương đã chở những người da đen đi làm từ những vùng ngoại vi xa vào trung tâm thành phố.
Khởi từ con đường Hồng, trên lưng chừng một sườn đồi cao đối diện với ngọn Rainier uy nghi bốn mùa trắng tuyết, những chuyến bus Tây Bắc chậm chậm lượn vòng giữa những cánh rừng thông bạt ngàn xanh thảm một màu xanh vĩnh viễn, rồi đột ngột chuyển hướng, đổ dốc, vùn vụt lao vào thung lũng Rainier.
Băng qua những xưởng cây bỏ hoang, những kho hàng phế thải là cái hình ảnh đổ vỡ lăn lóc đặc biệt thường thấy phơi bầy riêng ở một phía Nam những thành phố Mỹ, bus chạy tới đâu hốt lên tới đó những cụm đen những chùm đen im lìm nhẫn nại đứng đợi chờ cạnh những cột đèn. Bus chạy tiếp, vượt qua ở nửa lộ trình, con đường Othello vắng hoe nơi có ngôi nhà gỗ lùi khuất của Thanh Nam Túy Hồng, chạy tiếp nữa, qua khu Phố Tàu đầu 1983 có lưu huyết chấn động đẫm máu ở một sòng bạc dưới hầm 13 mạng chết tốt, rồi chậm đà lại giữa những dẫy nhà chọc trời của trung tâm Seattle soi nghiêng trên lòng vịnh.
Một mình một cõi dưới trời Tây Bắc, tựa lưng vào Tây Nam Gia Nã Đại yên bình trầm lặng, nơi Thái Bình Dương là một luồng thủy đạo ôn đới không bao giờ giông bão, nơi có những du thuyền tráng lệ trôi diễm ảo trên trong vắt hồ vịnh Victoria danh lam thế giới, dưới một trần mây vĩ đại quanh năm bao phủ trên đầu, trong tấm áo xám tháng ngày lặng lặng giữa đại thụ nghìn đời điệp điệp, Seattle là một thành phố hiền. Chậm và hiền.
Thủ phủ, một phía nằm thoải mái bên bờ đại dương, một phía đứng ung dung giữa thông giữa núi. Nó êm đềm ở trên cao, dịu dàng ở dưới thấp, quân bình ở cả những cheo leo, hòa đối ở cả những ngất ngưởng. Những con dốc dựng đứng nhất cũng không độc không gắt bằng đèo dốc San Francisco, những chiều dài sắp mất tích lại uốn lượn thành bán kính óng ả, những chiều cao vừa tầm không chóng mặt, những lắng đọng thu về những quẫy động, những khoảng trũng nhiều hơn những khoảng trần, những chiều nghiêng không choáng váng, những chiều sâu không đau tim, không ai chạy ở Seattle nhàn nhã. Những chiếc xe hơi mang bảng số Wa, thường có một hàng chữ: “Chúng tôi chối từ nếp sống gấp của
Los Angeles”. Xe miền Nam lên, vùn vụt, là Seattle thò đầu la mắng: “Hãy mang ngay cái 90 cây số giờ tự tử của mày về California”.
Seattle như thế. Vùng trời an nhàn mơ tưởng lúc cuối đời của cao niên toàn thể Mỹ. Seattle như vậy, ngọn Mount St. Helen có ngất trời phun lửa, cái chết của ông già Truman trong phún thạch vẫn là một cái chết rất dịu dàng. Bình nguyên không bão cát Oklahoma, bãi bờ không lũ mùa Mississippi, Seattle có những bầy hải âu lượn cánh không trọng lượng trên mặt vịnh hiền triết, tàu sớm ở đảo về không rẽ sóng, tàu chiều ra khơi không rú còi, sự im lặng là vàng, ngày nắng nào cũng là cái nắng lả lả của mùa Thu, và những đàn chim câu Tây Bắc hiền lành để mặc cho đám lãng tử say ngủ trẻ thơ trên những ghế đá công viên trong khu Đường Một.
Đôi khi, Seattle cũng mịt mùng trong cái cảnh sắc riêng tây và Tây Bắc của nó. Đó là những ngày thủ phủ thức động trở lại với cái linh hồn một đất trời quan ải, cái cảnh thổ một thị trấn địa đầu. Đó là lúc không trung Seattle không nắng mà chói gắt căng cứng, cái trần mây vĩ đại trĩu nặng và thấp xuống, ép không khí thành gió cuồng và sét nhoáng, chớp giật, trùng trùng ngàn thông lả lay quẫy đập, tất cả, hồ vịnh, núi đồi cùng dạt dào trắng xóa dưới mưa bay.
Đó là những ngày một triệu người Seattle cùng một triệu đôi ủng, một triệu cây dù, một triệu lướt thướt. Đó là những chiều lòng vịnh cùng xa khơi với nghìn trùng, đông kín những hàng hiên, suối chảy ở trong nhà, tầm tả những đường phố.
Nhưng rồi lại mây quang lại mưa ngớt, sự ráo sạch mau chóng, những rừng thông lại uy nghi trầm lặng một màu xanh vĩnh viễn, những chuyến tàu lại khoan thai ra đảo, những đôi ủng những cây dù cất đi. Và trên những ghế đá công viên Đường Một, những lãng tử say lại ngủ vùi dưới nắng.
Tôi đã ở Tây Bắc với Thanh Nam hai năm. Càng nghĩ, càng thấy bạn, từ cảnh tượng đời đến thân thể người có nhiều điểm giống và cùng với Seattle vô tả. Seattle gió gió mưa mưa, quan ải, địa đầu. Trên đại thể, thân thế Thanh Nam, tự vào đời cũng là như vậy. Một ấu thơ xám. Một thiếu thời lạnh. Một cánh đồng sương. Một con đê cao. Một bờ gió lộng. Đứa nhỏ bỏ gia đình ra phường phố sớm. Đi trên con đường Nguyễn Bính đã đi. Ở trong hồi ký Nguyên Hồng đã viết. Đứa nhỏ lớn thành gã con trai yêu mê văn chương giữa năm cửa ô Hà Nội. Gã trai ấy ngồi bán sách cũ ở Cửa Nam, đêm đêm mơ thấy làm khăn gói, (đã tả trong hồi ký đăng trên Văn). Một chiều ném mình vào phiêu lưu, trên chuyến tàu xuyên Việt đi suốt chiều dài đất nước vào Nam, với cái tâm trạng Xuân Thu, không ngựa xe không qua cầu trở lại. Vẫn gã trai ấy, trăng chưa tới tuần, nước chưa tới vận, đã ngụp lặn một thời trong đọa lạc, cuối cùng đã sống lại bằng văn chương, trở thành cùng tiểu thuyết. Vẫn gã trai ấy, bây giờ đã có sự nghiệp, có mái ấm, có bằng hữu, có hạnh phúc, có một lòng vịnh cho tháng ngày mình cũng lặng lặng như lòng vịnh Seattle, một bình nguyên cho sớm chiều mình như bình nguyên Seattle êm đềm giữa đồi núi bình yên và thông rừng xanh ngắt.
Nhưng ngày nắng Seattle dẫu thật rực rỡ tới xế tà vẫn một chút mù sương. Phố phường Tây Bắc dẫu thật náo nhiệt, ở một khúc quanh vẫn một chút hoang vu, ở một ngã rẽ vẫn một phảng phất hắt hiu linh hồn biên giới. Hiu hắt đó nơi Thanh Nam bây giờ đã yên định vẫn có.
Thấp thoáng. Đâu đó. Trong tâm thể. Trong dáng vẻ. Trong thơ. Trong viết. Trong truyện ngắn. Trong hồi ký. Trong cái lối ngồi trước một chai bia lạnh trước trời chiều Seattle. Trong cái lúc thức giấc lúc nửa đêm. Trong cái lối đẩy xe đi chợ ở Safeway. Như đâu đó, vô hình và sau bao nhiêu năm, vẫn có một bờ tre dĩ vãng gió lộng, những ngày tháng thiếu thời trơ trọi, bóng tối trên Hồng Hà, căn gác trọ Hà Nội, cái ga nhỏ giữa đồng, tiếng còi tàu trong đêm.
Nhưng Seattle mùa nắng cũng áo len, mùa đông không tuyết phủ, những tuần lễ dài thỏa thuận với gió mưa mà chưa từng bao giờ phải quyết liệt đối phó với mưa với gió. Và cuộc đời Thanh Nam, phải nhìn toàn bộ đừng nhìn riêng lẻ, cũng vậy. Thỏa thuận là một thái độ sống. Cái chịu, cái thua, cái thiệt, nhìn xấu, có thể là từ bản chất yếu nhược. Mà Mai Thảo thấy được cái hay lại là biết điều, biết mình. Thanh Nam không giáo gươm đi vào cuộc đời. Ngoại giới và đời sống cũng trả lại cho Thanh Nam như vậy, không giáo gươm. Những giấc mộng Thanh Nam không là những giấc mộng lớn, kể cả hoài bão nơi người nhà văn, ngay từ tuổi trẻ, cũng êm đềm, cũng khiêm nhường rất mực. Cái tôi nơi Thanh Nam không viết hoa. Bản ngã không phóng lớn thành “Ta là con chim đến từ núi lạ”, sự tự thấy mình là thấy ở trong cái toàn thể, không vòi vọi không tách thoát thành: “hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển” “đứng một mình như núi đứng riêng tây”.
Văn là người. Câu đó vẫn thật đúng, với Thanh Nam. Cõi ngôn ngữ ấy vĩnh viễn kiếm tìm cho nó sự hòa đồng. Cho nên thân thế cũng là một trường thiên hòa đồng, không khốc liệt, không thập tử nhất sinh, cho dầu Thanh Nam cũng đã sinh tử từng hồi và vừa thoát khỏi đại nạn.
Mọi chuyện, nơi Thanh Nam, làm thể phách tan hoang, rối bời thần trí, tưởng tuyệt vọng đã gặp, tưởng vực thẳm đã là, rồi cũng qua, cũng yên. Bao nhiêu bất hạnh, bao nhiêu biến cố đã chứng tỏ ở Thanh Nam và cho Thanh Nam điều đó. Một vào đời không song loan. Một tuổi trẻ tưởng hư hoại. Một cảnh ngộ tưởng đầu đường, những kinh qua tưởng tan nát. Tưởng là sự chấm dứt của Lê Văn Trương. Tưởng là sự khốn cùng của Nguyễn Đình Thiều. Tưởng là sự vong thân của Nguyễn Ngọc Tú.
Vậy mà thiếu lắm vũ khí và tự vệ, thiếu lắm đối phó và đương đầu, thiếu lắm vật lộn và bản lĩnh, Thanh Nam cứ theo dòng mà chảy thế mà lại chảy lại trôi. Chinh chiến. Thời gian nhập ngũ. Anh Trung sĩ hạng bét. Tái ngũ. Vẫn anh Trung sĩ tối thẳm. Một căn phòng khách sạn, quá nửa đời độc thân. Quốc nạn 75. Lếch thếch bầu đoàn thê tử yếu đau trên Phú Quốc tan vỡ. Mùa đông New Jersey tuyết ngập tới đầu gối, vác nặng ở ngoài trời. Đứa con gặp tai nạn, một tháng bên giường bệnh. Rồi trọng bệnh của chính mình, tưởng lòng huyệt đã mở. Vậy mà cũng xong, cũng qua, cũng yên, vẫn sống. Vẫn cứ làm thơ, viết hồi ký, vừa ra Đất Khách.
◦Cho nên viết về thân thế bạn – với Thanh Nam, đúng nhất là dùng cái danh từ thân thế – tôi vẫn chỉ muốn lồng chân dung bạn vào chân dung Tây Bắc, vào cái yên bình, cái trầm lặng của Seattle, bến đậu xem chừng là thuận hợp nhất của Thanh Nam và gia đình từ bảy năm nay.
Seattle, nơi Thanh Nam vẫn gọi là đất khách, nhưng với thời gian, không đến nỗi quê người. Seattle, mái tóc biên thùy, vầng trán quan ải, nhưng tấm lòng bình nguyên. Seattle của những chuyến bus lăn bánh từ đường Hồng. Của ngôi nhà Othello lùi khuất, cái cổng thấp, lối đi nhỏ, chai bia lạnh, cỏ mọc cao tầm chiều trong vườn. Seattle, nhẹ, thoáng, êm đềm, trên đầu cánh của bầy hải âu không trọng lượng, của thị trấn soi nghiêng trên lòng vịnh, của đồi thông điệp điệp trùng trùng xanh ngắt một mầu xanh vĩnh viễn, của những người say rượu ngủ ngày trong khu Đường Một, của thương khẩu cây cầu treo đỏ in hình lên vòm trời bao la, của Thanh Nam, đã tới, đã ở, đã làm thơ chào mừng ngày mới tới:
Tới đây, mùa đã xuân hồng
Cây vui trở lá, nụ mừng đơm hoa
Xin chào bằng hữu gần xa
Dẫu chưa quen biết đã là anh em
Đất lành chào mộng bình yên
Tình Đông nghĩa Bắc càng thêm mặn nồng
Sống ở Tây Bắc với Thanh Nam hai năm rồi bỏ về miền Nam, người khách của những chuyến bus đường Hồng là tôi nhớ mãi cái buổi chiều đầu tiên tới Seattle, bấy giờ chưa địa chỉ Othello, Thanh Nam và Túy Hồng còn ở ngôi nhà của một người bạn địa phương là Trần Thiện Hiệp để lại. Ngôi nhà trống, để mặc, bừa bãi, có ngay cái không khí thân mật bình dị như ngôi nhà trong ngõ ở đường Lý Thái Tổ của Thanh Nam ngày trước ở Sài Gòn.
Buổi chiều. Mùa Thu. Sương từ thung lũng dấy lên. Một vài cuốn sách Túy Hồng trên giá. Ngồi hút thuốc cạnh bếp một lát rồi Thanh Nam dẫn tôi ra ngoài, đi vòng về phía sau. Rừng cây liền sát. Cành thấp ngang đầu. Tôi tựa lưng vào một thân cây, hai thằng đứng nói chuyện thật lâu dưới lá. Những chuyện cũ. Nơi này chốn kia. Bằng hữu. Cùng nhìn xuống thung lũng, buổi chiều đã thẳm, những ánh lửa đầu của Seattle xa mờ lung linh.
Rồi Thanh Nam nhìn lên cành tối, ngắt xuống một trái lê núi. Trở vào nhà, ngồi bên cửa sổ, trái lê bổ làm đôi, hai thằng cùng cầm ăn. Giây phút đó là một giây phút êm ả lạ thường. Như chẳng bao giờ, tôi bỏ nước ra đi, Thanh Nam cũng vậy. Như đời sống cuối cùng vẫn giản dị, bình thường như cái đời sống, trong thân mật và đã mấy chục năm của bọn viết chữ chúng tôi. Giản dị, bình thường, nơi bầy nhỏ đang coi ti vi. Nơi Túy Hồng đang yên lặng làm bếp. Nơi trái lê núi vừa hái ở ngoài vườn vào, hai thằng chia đôi, cùng ăn. Mùi vị của trái lê núi thoạt đầu đạm đạm, nhạt loãng.
Rồi ngẫm nghĩ mới thấy là tinh khiết và đậm đà vô tả.