Nhã Ca giữa cơn hồng thủy
Con đường, xanh ngắt bóng cây và danh tiếng nhất mọi con đường Sài Gòn, ngày trước là đường Tự Do, sau đổi đời, cộng sản đặt tên lại là đường Đồng Khởi. Căn phố lầu, cùng dẫy với tòa nhà Quốc hội cũ, đối diện với tiệm sách Xuân Thu, trước còn có tên Pháp Le Portail và nhà hàng La Pagode, những người văn nghệ trước 1975 hàng ngày tới đó gọi thân mật là Quán Cái Chùa, với đổi đời cũng được đổi tên thành quán Hương Lan, bán thêm đồ ăn quốc doanh và buổi tối cuối tuần có ca nhạc.
Mười hai giờ đêm. Giới nghiêm. Từ Vương Cung Thánh Đường nhìn xuống, Đồng Khởi thê thảm hiu quạnh dưới ánh điện đường vàng vọt, không còn một sự sống, không còn một bóng người. Quán Hương Lan đã buông kín lưới sắt, tối thẳm. Nhà sách Xuân Thu cũng vậy. Cũng vậy, mọi căn nhà mọi cửa tiệm chung quanh. Giữa vùng tối thẳm bốn bề của thành phố ba triệu người chết lặng trong giới nghiêm cộng sản, duy chỉ căn phố lầu là ở tầng trên đèn còn bật sáng. Dòng ánh sáng khuya khoắt từ hai khung cửa sổ trên căn lầu đổ xuống, in thành hai khung vuông ánh sáng bất động trên mặt đường im phắc, như một cặp mắt đăm đăm mở lớn của một niềm đợi chờ sắt son, đời đời thủy chung, sơn cùng thủy tận.
Quả vậy, tầng lầu đã nhiều năm là của một đợi chờ chung thủy. Đợi chờ. Kể từ đại hoa, đại họa còn dằng dặc. Đợi chờ, kể từ ngày người thương yêu bị đày ải đi xa, sau bao năm vẫn chưa được trở về. Đợi chờ. Kể từ địa ngục, từ hồng thủy. Đợi chờ kể từ một biển người phải bỏ nước ra đi. Tử một đất nước chỉ còn là một nhà tù vĩ đại.
Nhưng đêm nay, ánh đèn sáng cô đơn trên từng lầu không phải là một ánh đèn chờ đợi. Chờ đợi tạm gác. Còn cả nghìn đêm khác. Ánh đèn đêm nay là của một đêm sửa soạn. Cho lên đường buổi sáng ngày mai.
◦Tầng lầu có hai căn phòng. Người đàn bà thức một mình ở căn phòng lớn, căn kia nhỏ hơn, bày con năm đứa của nàng đã ôm nhau ngủ kỹ. Căn phòng trần trụi, không một dấu vết đồ đạc, như hình ảnh cuộc sống lầm than của người đàn bà bây giờ cũng là như vậy. Ngồi xổm trên mặt sàn, trước một cái túi vải lớn, miệng túi mở rộng, người đàn bà cầm trên một tờ giấy, tờ giấy là một bản danh sách dài thòng, chữ viết trên tờ giấy là chữ viết của nàng. Nàng đọc thầm một dòng, đoạn buông tờ giấy xuống, nhặt một gói nhỏ, bỏ cái gói vào trong cái túi. Cầm tờ giấy lên, nàng đọc tiếp một dòng khác, nhặt một gói khác, bỏ tiếp vào miệng túi. Cứ như thế, bằng một cử chỉ đều đặn và lập đi lập lại nhiều lần, nàng nhặt dần và bỏ vào túi vải mấy chục gói đồ to nhỏ đủ cỡ để bề bộn ở chung quanh.
Đêm khuya dần. Cái túi vải đầy dần. Khi người đàn bà ngừng tay, ngồi bệt xuống mặt sàn, nhắm mắt lại, thở một hơi dài mỏi mệt, cái túi vải đã đầy tới miệng, mặt sàn không còn một bịch gói nào, và lạnh buốt, đêm giới nghiêm đã nghiêng dần về sáng.
Một lát. Thật lâu. Rồi người đàn bà mở mắt và chống tay ngồi dậy. Nàng vào phòng tắm. Vốc nước lạnh lên mặt. Chải đầu trước gương. Đoạn, nàng trở ra, đi sang phòng bên. Đánh thức đứa con gái lớn. Nói nàng đi thăm nuôi chừng năm ngày, một tuần. Nói nó ở nhà trông nhà. Rồi, không dùng dằng, như che giấu một cảm xúc không muốn tỏ lộ, nàng đi ra căn phòng lớn, mạnh mẽ đeo cái túi xách nặng trĩu lên vai và đi xuống cầu thang.
Bên đó, khi nhà văn nữ Nhã Ca ra khỏi ngôi nhà của bà ở đường Tự Do để đi Tây Nguyên thăm nuôi chồng bà nhà thơ Trần Dạ Từ, buổi sáng còn nhợt nhạt trên mặt đường Đồng Khởi và giờ giới nghiêm cũng vừa chấm dứt.
Đoạn tả trên đây, về một đêm sửa soạn hành trang đi thăm nuôi chồng của nhà văn nữ Nhã Ca, người nhà văn lẫy lừng đã có 40 tác phẩm được in ra, tôi viết theo sự kể lại của một người bạn ở gần Nhã Ca thời gian đó. Bị truy nã, phải đi vào ẩn lánh cho tới ngày vượt biển, tôi không gặp lại Nhã Ca một lần nào. Kể từ ngày Nhã Ca và Trần Dạ Từ cùng bị bắt giữ với nhiều anh em văn nghệ khác, bị giam ở trại Phan Đăng Lưu, rồi Nhã Ca cùng với Hoàng Anh Tuấn, Dương Nghiễm Mậu được tha về một năm sau, Trần Dạ Từ thì bị đày lên trại tập trung KI ở Pleiku và theo tin tức quê nhà tới giờ vẫn còn bị giam cầm ở đó.
Hãy nghe người bạn tôi kể tiếp về Nhã Ca, một lần bà đi thăm nuôi, lần đó có người bạn tôi đi cùng để khuân vác giúp bà một số hành lý bà không sao một mình mang nổi. Chuyến đi cho nhìn thấy tất cả những vất vả dọc đường. Cho nhìn thấy cuộc sống điêu đứng hiện giờ của Nhã Ca ở Sài Gòn sau đại nạn 1975. Cho nhìn thấy sự can trường lạ lùng của bà, một mình giữa cơn hồng thủy
Mọi người đi thăm nuôi cùng đưa tiền đến cho Nhã Ca. Để chị “đăng ký” mướn một chuyến xe riêng đi Pleiku. Cùng đi chuyến đó có chị Trịnh Viết Thành, chị Nguyễn Sĩ Tế, con gái nhà văn Mặc Thu, con gái nhà văn Doãn Quốc Sỹ, và một số vợ con nhà văn nhà thơ khác cùng bị lưu đày lên Pleiku. Phải chờ một tuần mới có xe. Một chiếc xe nhỏ ọp ẹp, khởi hành lúc 5 giờ sáng ở bến xe Petrus Ký. Đồ thăm nuôi chất đầy. Mọi người ngồi chen chúc, ngộp thở. Ai nấy đều mỏi mệt, ủ rủ, riêng chị Nhã là người mạnh mẽ nhất. Chị đùa cợt cho vui dọc đường, săn sóc tất cả mọi người. Xe tới rừng lá Phan Thiết đã bể bánh. Phải ngưng lại một đêm. Mọi người xuống xe, nằm ngủ ngay bên vệ đường với đêm rừng lạnh buốt. Riêng Nhã Ca thức, bó gối ngồi tới sáng. Chiều hôm sau mới tới Nha Trang. Lại một màn gối đất nằm sương ở bến xe, khiến mọi người mệt lả cơ hồ không chịu đựng nổi nữa.
Lượt đi tưởng độ hai ngày kéo dài tới bốn ngày ở dọc đường. Ngày hôm sau ra Qui Nhơn, từ Qui Nhơn đi Pleiku, xe lại hư máy nữa ở chân đèo Cả. Tài xế dở chứng đòi quay về Sài Gòn, chị Nhã phải năn nỉ mãi. Chị hô mọi người cùng đẩy xe lên con đèo cao ngất. Đẩy năm bảy cây số tới ngang trại giam trên đường 19, đã xế chiều. Mọi người cùng phải khiêng vác nặng, đi lê lết qua ba cây số đường rừng mới tới trại. Thời gian cho gặp thân nhân chỉ có nửa giờ. Thấy chồng, chị Nhã xúc động ôm lấy và bị bọn cán bộ la lối chửi mắng là đã có cử chỉ sàm sỡ đồi trụy. Chị nín thinh, chịu đựng, ra khỏi trại mới chảy nước mắt.
Lượt về, phải lên Pleiku chờ xe đăng ký lại. Mọi người vào một ngôi chùa xin ngủ nhờ.
Khi về tới Sài Gòn, chuyến thăm nuôi diệu vợi cực khổ kéo dài đúng mười ngày. Chị Nhã không còn một đồng một cắc nào. Có bao nhiêu đã tiêu hết cho thăm nuôi. Lần đi thăm nuôi nào cũng vậy. Nhưng can đảm, không bao giờ chị kêu than một lời nào và lại vay mượn, dành dụm cho lần thăm nuôi tới.
◦Từ chỗ ẩn lánh của mình, nghe chuyện về Nhã Ca, Nhã Ca trong đổi đời, trong giông bão, về những ngày tù đày của Nhã Ca ở Phan Đăng Lưu, về những chuyến thăm nuôi Trần Dạ Từ, tấm lòng sắt son chung thủy, tôi không sao kìm giữ được xúc động. Trước 1975, đời sống Nhã Ca khác, đâu nắng mưa dầu dãi đến vậy.
Người nhà văn nữ phái sinh trưởng ở Huế này đã chia tay với Huế khi còn rất trẻ, mới quen biết với Trần Dạ Từ là chồng bà sau này, và vào sống ở Sài Gòn khi thơ bà được biết tới, người khám phá ra tài thơ Trần Thị Thu Vân, tên thực của Nhã Ca, là nhà thơ Nguyên Sa.
Lập gia đình, cùng Trần Dạ Từ đi hẳn vào làm báo viết văn, những năm tháng đầu của người thiếu phụ trẻ tuổi đi khỏi vùng trời ấu thơ của mình là những tháng năm khổ cực. Người viết chưa thành danh. Nghề chưa nuôi nổi người. Thêm thời gian Trần Dạ Từ bị bắt. Nhưng cũng là thời kỳ trưởng thành và đích thực vào đời của Nhã Ca, thời kỳ tài thơ của Nhã Ca vụt chói lòa, rực rỡ, từ một trí tuệ và một ngôn ngữ đã óng ánh trở thành nhờ được tôi luyện trong những thăng trầm của cuộc đời muôn mặt. Sự tôi luyện ấy đưa tới già dặn. Tới người đàn bà xã hội mạnh mẽ ở Nhã Ca, sau người con gái Huế mơ mộng lãng mạn, và là nền tảng khởi đầu cho người viết tiểu thuyết tâm lý và tiểu thuyết thời thế lừng danh những thời gian sau đó.
Mấy năm cuối của thập niên 60, sau khi đoạt giải thưởng thi ca toàn quốc với tập Nhã Ca Mới, Nhã Ca đã là một kiện tướng phái nữ trên trường văn, trận bút không ai là không biết tới. Đời sống vật chất do đó cũng thay đổi. Mau chóng khả quan hơn. Những năm tháng thiếu thốn, mẹ con nhếch nhác, bữa đói bữa no ở căn phòng Bùi Viện tăm tối, uống nước lã dở bữa làm tờ Ngàn Khơi chết lên chết xuống không còn nữa. Thơ hay vẫn không nuôi nổi người. Nhưng tiểu thuyết dẫn đầu về số bán, hết cuốn này đến cuốn khác, đã đưa hẳn được con nhỏ thoát ly Huế ngày nào tới một đời sống rực rỡ hơn. Được đà, Nhã Ca Trần Dạ Từ dựng nhà xuất bản riêng, nhà xuất bản Trăng Mười Sáu. Làm được tạp chí riêng, tạp chí Nhà Văn. Và mua được ngôi biệt thự rất đẹp ở đường Hoàng Hoa Thám, hai vợ chồng và bầy con cùng dọn về ở đó.
Mấy năm cuối của thập niên 60, cho tới đại nạn 1975, là thời gian Nhã Ca gần tôi nhiều nhất. Trong mọi việc viết sách, in sách, xuất bản, phát hành, gần như cùng song song một nhịp. Do đó cũng là thời kỳ có những kỷ niệm về sinh hoạt với Nhã Ca Trần Dạ Từ nhiều nhất.
Đời sống của cặp vợ chồng nhà văn nhà thơ này rất mực sống động, nếu không muốn nói là một thao túng, một quẫy đảo không ngừng. Họ sang viết bài ở Văn trên đường Phạm Ngũ Lão. Tôi sang viết truyện đã nhận viết cho Trăng Mười Sáu ở tòa soạn và nhà in Nhà Văn ở đường Bùi Chu. Gần như sáng nào cũng có sự đi đi về về giữa hai địa chỉ nói trên như vậy.
Viết truyện, tôi đã nhìn thấy những nhà văn viết thật nhanh, thật khỏe, như Doãn Quốc Sĩ, Duyên Anh. Ở một mức bình thường kém hơn, như Nguyễn Thụy Long, Lệ Hằng, Nguyễn Đình Toàn. Nhưng nhanh khỏe, ngon lành, dễ dàng, gió táp mưa sa nhất không ai bằng được Nhã Ca. Bữa ăn sáng ở ngõ hẻm Casino. Ở Phở Tàu Bay. Rồi Nhã Ca tươi tắn, thoăn thoát về ngay chỗ viết và ngồi ngay vào bàn viết. Trái với Nguyễn Thị Hoàng, Thụy Vũ, Lệ Hằng chỉ một mặt nào, thế giới tiểu thuyết của Nhã Ca rất phức tạp rộng lớn. Bà không chỉ viết về tình yêu về tuổi trẻ, như nhiều người tưởng vậy. Mã còn về xã hội, về thời thế, về đất nước, về cuộc chiến. Riêng vụ Tết Mậu Thân ở Huế, với mấy tác phẩm Giải Khăn Sô Cho Huế, Đêm Nghe Tiếng Đại Bác về thảm kịch chiến tranh và bạo động tàn sát là một bằng chứng. Có điều là cảnh tượng nào, đề tài nào, tình sử nào, thảm họa nào từ ngòi bút Nhã Ca cũng được viết ra một cách cực kỳ dễ dàng và mau chóng.
Phải nói là hai ngòi bút. Và cái cảnh tượng viết ở Nhã Ca, mỗi buổi sáng ngồi viết là một cảnh tượng chóng mặt tôi chưa từng thấy ở một nhà văn nào.
Bà ngồi, thật thẳng, trước cái máy chữ, mỗi tay cầm một cây bút chì, hai cây bút cũng thẳng như dáng ngồi. Và cứ như thế, tưởng như chẳng cần phải suy nghĩ gì, hai cây bút vùn vụt gõ đều xuống mặt chữ bằng một nhịp nhanh mau không thể nào tả được. Tôi viết không chậm. Duyên Anh thì tuyệt nhanh. Nhưng ngồi viết chung với Nhã Ca là thua, thua đậm. Điều thần sầu nữa ở Nhã Ca là bà vẫn có thể vừa trò truyện vừa viết, miệng nói mà hai cây bút vẫn không ngừng nhịp đập thần tốc. Có những con người có một năng khiếu đặc biệt. Hơn hết hẳn mọi người về tốc lực. Nhã Ca là một trong những người đó, thượng thừa ở cái tốc lực viết không ai bì kịp.
Nhớ một ngày, tôi đến phòng viết Trăng Mười Sáu khi Nhã Ca đang mang thai đứa con gái út. Bụng chửa vượt mặt rồi, cái áo blouse rộng thùng thình, tác giả Lăn Về Phía Mặt Trời ngồi chễm chệ với hai cái bút chì gió táp mưa sa trên máy. Tôi kinh ngạc:
– Vào Saint Paul đến nơi rồi mà vẫn đánh bài sao? Nhã Ca cười:
– Bộ anh tính trả tiền phòng cho hả?
Chính vì sắp phải nằm một tuần nên gắng đánh cho xong cái truyện dài, lấy tiền nhuận bút trả cho Saint Paul.
Nhã Ca trả hết tiền nằm, tiền phòng bằng tác quyền một truyện dài viết tới phút cuối cùng trước “vỡ đê” thật. Và còn tủm tìm cười thú vị mãi về chuyện đó.
Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ có máu cái bang giang hồ từ ngày có xe hơi và ngôi biệt thự đường Hoàng Hoa Thám, thường xuyên tổ chức những họp mặt tiếp bạn. Thường vào những cuối tuần, mọi công việc nhà báo, nhà xuất bản ngưng hết sang ngày thứ hai. Họp mặt nhỏ, vài bạn thân, bàn ăn ngoài hiên, nhậu xong là Trần Dạ Từ hô đóng cổng sắt, giữ mọi người đánh bài tới sáng.
Những họp mặt trọng thể, đèn xanh đỏ giăng kín cây cành của cánh vườn rộng lớn, một con trừu nguyên con quay trên thảm cỏ, bằng hữu ngồi la liệt cùng khách, rồi vào hết phòng dương cầm, cùng đàn hát tới khuya.
Họp mặt nào tôi nhớ cũng có vợ chồng nhạc sĩ Cung Tiến, Từ và Nhã đều hết sức quý trọng. Nguyên Sa, Viên Linh, Nguyễn Khắc Nhân, Cha Thiên Hổ, chủ nhiệm báo Hòa Bình nữa. Những họp mặt thật vui, đánh dấu cho những ngày tháng êm đềm hạnh phúc nhất của Nhã Ca, trước khi thời thế thình lình lật sấp, đẩy Nhã Ca trở lại những tháng ngày khổ cực. Tình huống này làm tôi nhớ đến hai câu thơ một bài thơ nổi tiếng của Nhã Ca. Bài thơ nói về tiếng chuông Thiên Mụ. Về bỏ Huế ra đi. Về Vĩ Dạ, Đông Ba, về cây cầu Bạch Hổ:
Tôi ra đời bên giòng sông Hương
Con sông chẻ đời thành hai miền thương nhớ
Bài thơ nói về hai miền cuộc đời, một bên thanh, một bên đục. Về hai phương nhân thế, một phương thần tiên là thiếu thời là tuổi nhỏ, một phương là giông bão là lớn khôn là vào đời. Nhưng “đời đã chẻ đôi hai nhánh” mà bao giờ cũng chỉ là không cùng là văng vẳng tiếng chuông xưa. Huế. Cuối cùng vẫn chỉ là Huế. Huế trong thơ, trong truyện. Huế khi bỏ đi, Nhã Ca tưởng tức khắc xóa nhòa được trong trí nhớ. Huế khi đã thành danh, nhà văn nữ trở về mang mấy trăm ngàn đồng là tiền lời tác phẩm Giải Khăn Sô Cho Huế tặng hết cho ngôi trường tuổi nhỏ của mình. Đó là tất cả Nhã Ca. Vừa quẫy đảo phá phách, vừa lãng mạn tình cảm. Đã là mẹ, là vợ vẫn là người đàn bà của thời đại bây giờ, một tâm hồn độc lập và một thế giới riêng tư. Một Nhã Ca nhà văn, tiểu thuyết gia, khởi đầu đi vào văn chương bằng thơ, thơ như một vào đời, giã từ tuổi nhỏ.
Qua những thư từ bạn bè viết sang từ quê nhà, tôi được biết thêm về Nhã Ca những năm tháng gần đây, như sau.
Ngôi biệt thự đường Hoàng Hoa Thám, ngay sau ngày Nhã Ca bị bắt, người em gái ký với một tổ hợp sản xuất một hợp đồng cho thuê ngắn hạn, khi Nhã Ca ở tù về tỏ ý muốn lấy lại, đã không lấy lại được nữa. Thâm tâm, bà cũng không muốn trở về sống ở đó. Ngôi biệt thự có quá nhiều kỷ niệm của những ngày vui xưa và bây giờ cũng chỉ còn là một vùng thềm dậu hoang tàn đổ nát. Đem đàn con xuống căn nhà đường Tự Do một người bạn gái tốt bụng nhường lại, Nhã Ca xin được hộ khẩu, ở hẳn đó, mưu sinh qua ngày.
Thời gian một năm ở tù Phan Đăng Lưu, Nhã Ca chững chạc đàng hoàng không khiếp sợ, rất được mọi người cùng tù quí trọng. Căn phố đường Tự Do, trên lầu mấy mẹ con ở, tầng dưới mở thành cửa tiệm lúc bán đồ bách hóa, lúc biến thành quán cà phê. Lối sống tới đâu hay đó, qua tháng qua ngày.
Một thời kỳ tin đồn từ bên nhà đưa sang nói cửa tiệm thất bại vì thuế má quá nặng, bà phải ra dãi dầu mưa nắng ở những chợ trời Chợ Lớn Sài Gòn. Nhận món hàng này, giao món hàng kia ngược ngược xuôi xuôi buôn đi bán lại. Phải khuya sớm vất vả để nuôi nấng đàn con năm đứa, còn để có tiền đi thăm nuôi chồng ở Pleiku, hai tháng một lần. Mỗi lần thăm nuôi như vậy là nợ, là túng thiếu, là sạch nhẵn không còn một đồng một cắc. Nhưng tấm lòng đầy đặn thủy chung bà không bỏ một lần thăm nuôi nào dù gian nan khổ cực mà cho đó là ưu tư lớn nhất, việc làm quan trọng nhất.
Mỗi lần đi thăm nuôi một lần chảy nước mắt. Nhưng đi. Tinh sương ra khỏi nhà. Năm bảy ngày dọc đường. Trèo đèo lội suối để chỉ được gặp mặt chồng vài chục phút. Đứa con gái lớn bị bắt, mấy con nhỏ đau, không tiền không thuốc. Tin đồn nói tinh thần Nhã Ca đã xuống lắm. Rằng can đảm nào cũng chỉ có giới hạn, chịu đựng nào cũng ở một mức nào. Rằng cửa tiệm xoay sở đủ kiểu, cuối cùng đã phải đóng cửa. Rằng bị kiểm soát không còn mưu sinh gì được, Nhã Ca buồn, tìm quên trong men rượu, trong những bữa nhậu với bằng hữu, bây giờ không thua một tửu đồ nam phái nào.
Thư xa. Tin đồn. Việt Nam nghìn trùng. Không còn biết hư thực thế nào. Nhã Ca bây giờ hiện hình trên một nền trời hồng thủy hắt hiu nhầu nát, đương đầu với cảnh ngộ, nổi trôi với vận nước, từ xa nhìn về, và bằng tất cả lòng quý mến, tôi chỉ muốn thấy là hiện hình hùng tráng của một định mệnh lẫm liệt. Như con người ngoài đời của Nhã Ca tôi đã gần, thời kỳ vàng son nhất đến thời kỳ điêu đứng nhất. Như những nhân vật tiểu thuyết hoang đường nhưng lồng đựng bản ngã và tỏa chiếu cá tính con người Nhã Ca trong chúng.
Người đàn bà trở về Huế giữa cuộc tàn sát Mậu Thân, nằm cả một tuần lễ dưới hầm trong Giải Khăn Sô Cho Huế. Người đàn bà đi ngược đường cuộc chiến khổ đau lâu dài trong Đêm Nghe Tiếng Đại Bác. Người đàn bà quả cảm trong Vi Ơi Bước Tới. Đó là những người đàn bà Việt Nam hiền hậu nhưng gặp cảnh ngộ bỗng có một sức mạnh nội tâm không bờ không bến. Biết đội gai đi trên đường khổ hình, biết can trường và cảm tử sống. Dù thế nào. Dù thế nào mặc lòng. Đó là những nhân vật của Nhã. Đó là Nhã Ca giữa cơn hồng thủy.
Cuối cùng là một hình ảnh đẹp hơn mọi hình ảnh, tôi quí mến vô ngần. Đêm khuya, đêm giới nghiêm. Đèn sáng trên tầng lầu của con đường tên mới là con đường Đồng Khởi. Người nhà văn nữ phái lẫy lừng, ngồi một mình. Nàng đương đầu với đêm dài. Nàng chính là đêm dài của một niềm sắt son đợi chờ nhật nguyệt không mờ, sơn cùng thủy tận. Gói niềm đợi chờ vào một gói đồ này. Gói niềm thủy chung vào một gói đồ khác. Như thế suốt đêm. Đúng hai tháng một lần. Để buổi sáng lên đường đi thăm nuôi người thương yêu bị kẻ thù lưu đày mười năm chưa thấy về.
Nhà văn Nhã Ca/