Nguyễn Đình Toàn nơi thành phố mất tên
Chiếc Honda xập xệ, khói bốc khét lẹt, rời khỏi cái quán cà phê vỉa hè đối diện với tòa Lãnh sự Pháp, chạy ngược con đường Phan Đình Phùng. Hai người đàn ông ngồi trên xe. Người ngồi trước, quần áo nhầu nát, mái tóc rối bời trên vầng trán rộng, cặp kính trắng dày cộm trước hai vũng mắt sâu trũng vì nhiều đêm không ngủ, phóng chiếc xe lao đi với tất cả vẻ nóng nảy vội vàng. Chiếc xe tới ngã tư Đoàn Thị Điểm, mặc dầu có bảng cấm rẽ trái, vì là đường một chiều, vẫn cứ bướng bỉnh rẽ trái giai và băng băng chạy vào con đường này. Bỗng một tiếng còi rú lanh lãnh tiếp theo là một tiếng quát lớn đầy giận dữ: “Ngừng lại!” Cùng với tiếng quát, một tên an ninh áo vàng cộng sản, loắt choắt, từ một gốc cây chạy ra và chỉa thẳng cây súng vào chiếc xe bắt buộc phải ngừng khựng lại. Người đàn ông lái xe buông một tiếng chửi thề và tắt máy.
Tên an ninh đi tới. Nhìn hai ng đàn ông từ đầu đến chân, hất hàm:
– Đường cấm. Biết không?
– Chúng tôi biết.
– Đã biết sao còn chạy vào?
– Chúng tôi đang có việc gấp phải sang ngay đường Hồng Thập Tự Anh bỏ qua cho chúng tôi đi.
Tiếng quát lớn hơn:
– Không được. Xuống xe.
Trước họng súng vẫn chĩa thẳng vào ngực, hai người đàn ông đành tuân theo. Hai bên đường, một đám người tò mò từ từ đứng lại trước cái cảnh tượng ngăn chặn hằn học, thù nghịch và quê mùa đầy rẫy trên phố xá Sài Gòn từ lúc thành phố đâu đâu cũng có những cái áo vàng và những đôi dép Bình Trị Thiên của công an miền Bắc. Hai tờ giấy cư trú tạm thời, một ở làng Báo Chí Thủ Đức một ở đường Phan Đình Phùng được đưa ra. Tên an ninh chỉ liếc qua không thèm đọc. Lại lớn tiếng quát tháo:
– Có mang khí giới không?
Hai người đàn ông chạy ngược con đường Đoàn Thị Điểm buổi sáng Sai Gòn hôm ấy, bị an ninh áo vàng chặn lại, lúc ấy miền Nam đã mất vào tay kẻ thù mấy tháng rồi, người lái xe là nhà văn Nguyễn Đình Toàn và người ngồi ở yên sau là tôi. Sáng đó, chúng tôi vội thật. Có một cái hẹn khá quan trọng tận trong Chợ Lớn. Tôi chỉ buồn cười về chuyện gặp an ninh. Nhưng Nguyễn Đình Toàn thì mất vui thật sự. Hủy bỏ cái hẹn, ông lái xe đưa tôi trở về, rồi về ngay nhà ông ở làng Báo Chí Thủ Đức.
Như phần lớn những nhà văn Việt Nam của ba thập niên 1950, 1960 và 1970, thành danh ở nơi tài viết đã tỏ hiện ở ngay tác phẩm đầu, tác phẩm đầu tay ấy thường là một tập truyện ngắn (như Võ Phiến với tập Chữ Tình. Túy Hồng với tập Thở Dài, Trùng Dương với tập Mưa Không Ướt đất), tài văn Nguyễn Đình Toàn cũng được nhìn thấy ngay từ cuốn sách thứ nhất. Đó là tập truyện ngắn Chị Em Hải, cơ sở Tự Do xuất bản. Tập truyện vừa ra mắt đã được nhiều nhà phê bình không tiếc lời khen ngợi và được in lại lần thứ hai. Mọi người tưởng rằng với thành công thứ nhất Nguyễn Đình Toàn được đà sẽ có ngay nhiều tác phẩm khác. Sự thật lại không phải như vậy sau Chị em Hải, là một thời gian im lặng khá lâu dài. Nguyên nhân có thể là tình trạng sức khỏe bết bát của Nguyễn Đình Toàn.
◦Giống nòi những người làm văn học nghệ thuật Việt Nam từ quá khứ tới giờ, và như chúng ta đã biết, phần lớn đều không có được cho mình một thể lực cường tráng, một sức khỏe sung mãn. Thanh bạch, nghèo túng mở rộng nhưng ngã đường khốc liệt đưa tới bệnh tật. Và bệnh tật hiểm nghèo đốn ngã, rút ngắn những đời sống đã lấy mất đi của chúng ta biết bao nhiều tài năng trác tuyệt, khi những tài năng này đang giữa tuổi đời, mới chỉ đi một khúc ngắn của con đường lẽ ra phải được kéo dài nhiều hơn nữa. Dòng văn chương tiền chiến, Thạch Lam, Vũ Trọng
Phụng 27 tuổi đã mất. Leiba, Hoàng Đạo, Đinh Hùng, Nguyễn Nhược Pháp, Hàn Mặc Tử, Nam Cao, Nguyễn Bính, đều từ trần rất sớm, nấm mồ đã xanh cỏ khi tuổi đời mới ở giữa trung niên. Thế hệ những nhà thơ, nhà văn sau và tới bây giờ cũng vậy. Vẫn cái vòng tối xám ấy. Vẫn đời sống cơ cực đưa tới bệnh tật, tới bệnh viện, tới bờ huyệt, Quách Thoại cũng 27 tuổi đã từ trần. Gần với chúng ta bây giờ là Xuân Hiền, Thành Nam, cây bút đã sớm rời khỏi người, đánh dấu cho hai sự nghiệp văn chương mới nửa chừng, còn bỏ dở.
Tuy chưa mất nhưng Nguyễn Đình Toàn từ lâu đã nằm trong trường hợp những nhà văn lúc nào cũng như đã có một cái vé cho chuyến tàu suốt đi vào tịch mịch, lúc nào cũng như đã sẵn sàng để thần chết tới đưa đi, đau tim, đau phổi trầm trọng, hàng chục chứng bệnh nữa trong cái thân thể còm cõi gầy yếu, tưởng chừng gió thổi cũng ngã, đó là Nguyễn Đình Toàn trong trí nhớ tôi. Đó là Nguyễn Đình Toàn đau, và cái thời gian ngừng viết nhiều năm, chỉ còn là người công chức mà đau yếu đã làm già cằn trước tuổi, người ta nhìn thấy như một hình bóng lắt lay, lủi thủi ở một góc bàn biên tập của Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Toàn làm tôi nhớ lắm đến Quách Thoại, những ngày cuối cùng của Quách Thoại, và mấy câu thơ đi thăm bạn đợi chết ở bệnh viện của Thanh Tâm Tuyền
Mây đục đậu trên thành cửa sổ
Người nằm ôm chân mảng nhớ đời
Bệnh viện thành công viên khuất nẻo
Người ngủ một mình đợi chúng tôi
Quách Thoại. Người ngủ một mình đợi chúng tôi, sự rũ liệt bải hoải. Hố mắt sâu trũng, hơi thở nhọc nhằn. Quách Thoại. Những bước lết đi trên hè phố và bộ ngực mỏng như một tờ giấy.
Thể chất Nguyễn Đình Toàn cũng yếu nhược và sức khỏe Nguyễn Đình Toàn cùng mong manh như thế. Nhớ một buổi chiều, chúng tôi cùng quây quần chung quanh một bàn ăn của nhà hàng Hải Biên trước chợ Bến Thành, nhà hàng này nổi tiếng nhờ ba phương trượng của nhóm Quan Điểm là Vũ Khắc Khoan. Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ thưởng xuyên có mặt. Nguyễn Đình Toàn tới. Vẫn một Nguyễn Đình Toàn còm cõi trong chiếc áo sơ-mi quá rộng, cánh tay khẳng khiu và cặp mắt cận thị sâu trũng. Ngồi một lát rối ông kêu khó chịu trong người và nói phải lập tức về nhà uống thuốc. Nhưng chưa ra tới cửa ông đã đưa tay lên ôm lấy ngực, lảo đảo và quỵ xuống, gần như ngất đi. Tối đó, chúng tôi phải vực ông ra xe, đưa về tận nhà và gọi ngay một bác sĩ tới. Căn nhà nữa, căn nhà phía sau Đài Phát Thanh Sài Gòn nơi Nguyễn Đình Toàn ở cho đến khi dọn về làng Báo Chí Thủ Đức, cũng thường xuyên một không khí xanh yếu và bệnh tật như người. Mấy đứa nhỏ quặt quẹo, quấy khóc. Những lọ thuốc la liệt, cùng khắp. Những cửa sổ sợ gió đóng kín. Và giữa vùng u uất thiếu ánh sáng này là một Nguyễn Đình Toàn không thể hàng ngày tới trước bàn viết, bởi đang đau hết bệnh này tới bệnh kia. Thành ra ngay ở thời kỳ khởi đầu và trẻ trung nhất của ông với tập truyện ngắn đầu tay Chị Em Hải, nghĩ tới Nguyễn Đình Toàn là chúng tôi nghĩ ngay tới Thạch Lam, tới Quách Thoại. Tới một đoạn đường ngắn cụt. Tới một sự nghiệp đứt đoạn. Tới một cáo phó thấp thoáng một chia buồn không xa.
Điều gì giúp cho Nguyễn Đình Toàn sống được tới bây giờ, viết thêm được ngót hai chục tác phẩm khác sau Chị Em Hải, không thuốc thang đầy đủ mà đánh thắng được đau tim đau phởi hiểm nghèo, tôi không biết được. Đích thực đây là một trường hợp thật đặc biệt. Và nếu nhất định phải có một giải thích thì là đời sống văn mạnh hơn hết thảy, đời sống mạnh hơn nghìn lần bệnh tật, cái chết, và trong một Nguyễn Đình Toàn nhợt nhạt lại ẩn dấu một sức sống tinh thần mãnh liệt, và cái tinh thần cường tráng đã cứu sống được cái thể chất mong manh. Cuối cùng là Nguyễn Đình Toàn lại có thêm những đất trời văn chương mới, sau Chị Em Hải. Sự có thêm này rất đáng ghi nhận. Mặc đầu nó vừa là một thành tựu vừa là một thất bại trong vận động và đi tới của văn chương Nguyễn Đình Toàn.
Thập niên 60 đánh dấu sự hình thành từ Pháp một trào lưu mới của văn chương tiểu thuyết, tiếng Pháp gọi là Nouveau Roman, tức Tiểu Thuyết Mới, còn được gọi là Anti Roman qua cái nghĩa Tiểu Thuyết Mới chống nghịch lại hết thảy mọi khái niệm về văn chương tiểu thuyết cổ điển trước nó, đưa ra những khái niệm tiểu thuyết mới lạ hoàn toàn. Trình bầy về trường phái Tân Tiểu Thuyết này, còn được gọi là Trưởng Phái Của Cái Nhìn (Ecole Du Regard) phải cả ngàn trang sách, vì cuộc vận động rất bác học, rất trí tuệ, rất cách mạng văn học.
Nhưng mấy đặc thù chính yêu tiểu thuyết của nhóm Tân Tiểu Thuyết thì là: nhà văn cắt bỏ hoàn toàn những nhận thức chủ quan, những nhận thức ấy theo lý giải của Trường Phái Cái Nhìn chỉ làm biến tướng biến hình sự vật, chứ không thể hiện được chân tướng uyên nguyên của sự việc. Như danh từ cái nhìn đã trở thành danh từ trường phái, nhà văn chỉ có nhiệm vụ của một đôi mắt, một ống kính nhiếp ảnh. Đôi mắt ấy nhìn thấy thôi, không phê phán, không tư duy. Ống kính nhiếp ảnh ấy chụp hình thôi, chụp từ thật nhiều phía càng hay, từ viễn ảnh tới cận ảnh, tơ tóc, tinh vi, nhưng chụp thôi, tuyệt đối chỉ chụp, một cách lạnh lùng gần như vô tri, nghĩa là sự vật và đời sống nhìn thấy thế nào thì miêu tả khách quan, chứ không gửi gắm vào miêu tả nhận thức hoặc tâm trạng chủ quan của người viết.
Với những người đại diện có tài năng văn chương đích thực như Alan Robble Grellet, Claude Simon, Nathalie Sarrante (người thứ ba, một nhà văn nữ, là tác giả cuốn tiểu luận Kỷ Nguyên Của Ngờ Vực về trường phái Tân Tiểu Thuyết rất nổi tiếng) nhóm trường phái Cái Nhìn đã đem lại một cuộc cách mạng đích thực cho văn chương tiểu thuyết thế kỷ. Từ lập luận cách mạng, bút pháp, câu văn, lối viết của nhóm Tân Tiểu Thuyết cũng là những phá vỡ, những làm mới hết sức táo bạo. Chẳng hạn như một truyện ngắn của Simon, của Grillet dài ba, bốn chục trang chỉ để tả đi tả lại, tả tới tả lui một cục tẩy. Như tả đi tả lại, tả tới tả lui, từ trước tới sau, từ phải sang trái, một người đi đường, lúc đi, lúc ngưng, lúc hút thuốc lá, lúc bật cơn ho, không thiếu một chi tiết nào kể cả những chi tiết tưởng chừng dư thừa và vô nghĩa. Câu văn mang hình ảnh của nghệ thuật miêu tả triền miền năm bảy chục trang không có một xuống dòng, cả truyện từ đầu đến cuối có khi chỉ là một câu văn, không một dấu phẩy, một dấu chấm.
Hình thành ở Âu Châu, được tiếp nhận như một khám phá tân kỳ vào văn chương Việt Nam thập niên 60, trường phái Tân Tiểu Thuyết đã có ở Nguyễn Đình Toàn người tín đồ nhiệt liệt nhất. Ông bỏ hắn lối viết cũ. Để viết truyện và dựng truyện trên khái niệm về văn chương tiểu thuyết của trường phái Cái Nhìn. Ông kéo theo một số bạn đường khác là Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Đặng Phùng Quán nữa (nhưng không hoàn toàn) và tạo thành, nếu không đủ để gọi là một trường phái thì cũng là một khuynh hướng Tân Tiểu Thuyết ở miền Nam.
Ở trên, tôi có nói vận động văn chương này của Nguyễn Đình Toàn và các bạn ông vừa là một thành tựu vừa là một thất bại. Như trào lưu Tân Tiểu Thuyết cũng vậy cũng vừa là một thành tựu vừa là một thất bại. Thành tựu nơi Tân Tiểu Thuyết đã đem lại cho văn chương tiểu thuyết một chân trời, một khả hữu mới. Về ngôn ngữ, về kỹ thuật. Thất bại là Tân Tiểu Thuyết đã không thuyết phục được người đọc tiểu thuyết, trước sau vẫn chỉ muốn nhìn tiểu thuyết một hình thái văn chương phổ biến, tiểu thuyết giản dị xã hội và đời sống thuật lại thành truyện kể, qua tâm hồn, ý thức và rung động của nhà văn. Tác phẩm của Nathalie Sarrante, Alan Robble Grillet, Claude Simon do đó, trên chiều hướng phá vỡ nền tảng tiểu thuyết cổ điền thì tuyệt hay, lý luận cảm rất khoa học tân kỳ, nhưng trên mặt thực hiện lại thất bại, vì công trinh không còn là tiểu thuyết nữa. Trường Phái Cái Nhìn cuối cùng chỉ gây chấn động được một thời kỳ rồi mờ nhạt dần trên một đường lề, chỉ được kiếm tìm bởi một số người đọc càng ngày càng giảm thiểu. Có điều là Nguyễn Đình Toàn không hề quan tâm tới thành công hay thất bại trước người đọc về cõi văn Tân Tiểu Thuyết sau này của tiểu thuyết ông. Ông viết hoàn toàn theo ý thích và niềm tin của chính mình. Tôi cho đó là một thái độ rất nhà văn, rất trí thức của Nguyễn Đình Toàn. Thái độ văn chương này, Nguyễn Đình Toàn giữ vững cho ông tới quốc nạn 1975. Thái độ này đã tạo được cho Nguyễn Đình
Đình Toàn trong văn chương tiểu thuyết ta, một địa vị riêng mà những đồng hành với ông như Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ không có được.
◦Ban Mê Thuột thất thủ. Giữa một Saigon nhốn nháo xôn sao vì chiến tranh đã đe dọa từ rừng núi xuống gần, gia đình Nguyễn Đình Toàn được một người chú bên vợ giao cho một biệt thư nhỏ khu Tân Định trước khi người chú rời Việt Nam sang Pháp. Buổi sáng tôi và Nguyễn Đình Toàn chạy xe Honda ngược đường bị an ninh áo vàng chặn lại đã kể ở trên là tuần lễ ông từ làng Báo Chí Thủ Đức về Saigon để thông báo về đổi chỗ ở với phường quận và tiếp thu biệt thị bỏ lại ấy. Ông bàn với tôi sẽ đặt biệt thự thành nơi lui tới hàng ngày của bạn thân. Và để mưu sinh, mặt tiền biệt thư sẽ thu dọn thành một quán hàng bán thuốc lá cà phê và điểm tâm, tất cả trong phạm vi thân mật gia đình và vợ con coi sóc, Biệt thư ấy, Nguyễn Đình Toàn chỉ tới ở được đúng 48 tiếng đồng hồ. Mặc dầu đầy đủ giấy tờ thị thực san nhượng của người chú vợ để lại, ông đã bị phường khóm tới làm khó dễ và buộc ông phải trở về chỗ ở cũ, điều mà Nguyễn Đình Toàn đã phải làm theo.
Và tôi, mỗi lần muốn gặp tác giả Chị Em Hải lại phải lóc cóc đạp xe đạp lên làng báo chí Thủ Đức.
◦Tin tức từ quê nhà đưa sang cho hay Nguyễn Đình Toàn may mắn không có tên trong danh sách những nhà văn, nhà báo miền Nam bị bắt giữ trong đợt đàn áp khủng bố năm 1976 và trong những đợt đàn áp kế tiếp. Văn chương Tân Tiểu Thuyết được chế độ mới đánh giá là tuy thoái trào, là sản phẩm của văn chương tư sản, nhưng sạch sẽ, không chống cộng, không đồi trụy nên Nguyễn Đình Toàn được yên thân. Chỉ bị cấm viết lại như mọi người. Tin nhà cho biết thêm Nguyễn Đình Toàn sống cơ cực, âm thầm ở làng Báo Chí, hàng ngày vác cần đi câu, làm ông Lã Vọng của thời đại mới, mảnh đất phía sau nhà dọn thành chuồng nuôi thỏ nuôi gà. Rồi lại có tin Nguyễn Đình Toàn bị bắt. Vì vượt biên bại lộ. Bị giam ở khám Chí Hòa ba năm, từ 1977 tới 1980. Không biết thế nào. Đời sống lắt lay của Nguyễn Đình Toàn bây giờ đã xa vời, nghìn dặm, tôi không kiểm chứng được.
Chỉ nhớ mãi cái lần cuối cùng gặp Nguyễn Đình Toàn, trước khi tôi dứt rời hoàn toàn với ông trong hai năm ẩn lánh. Hôm đó, tôi đạp xe lên làng Báo Chí một mình. Ngôi làng, ngày trước có những công dân của văn chương, nghệ thuật là Du Tử Lê, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Cao Lĩnh và hàng chục gia đình nhà văn, ký giả khác, là một vùng sinh hoạt rất sinh động, rất tươi vui. Chúng tôi thường mỗi cuối tuần từ Saigon kéo nhau lên, bầy cuộc ăn nhậu vui chơi rồi ngủ lại tới hôm sau mới trở về.
Lần cuối cùng tới làng Báo Chí, như tới một nghĩa trang, một đất chết. Du Tử Lê, Trần Cao Lĩnh đã bỏ đi. Những người còn lại hoặc bị bắt hoặc bị dồn về những vùng kinh tế mới. Ngôi làng, cỏ mọc um tùm, không khí thê lương, những dãy nhà bỏ trống, tịch mịch như những nấm mồ, và không gặp ai khác, tưởng như chỉ còn độc Nguyễn Đình Toàn ở đó. Như một có mặt mồ côi. Như một hiện hữu trơ trọi. Vợ con ông đi vắng hết, ngôi nhà trống không, buồn thảm. Lãnh tụ Tân Tiểu Thuyết đón tôi vào. Vẫn gầy guộc, vẫn nhợt nhạt, vẫn rất Nguyễn Đình Toàn. Lẳng lặng dọn một xị đế và hai cái ly trên mặt sàn. Cười, nửa vui, nửa buồn:
– Tao không bết như ngày trước nữa đâu. Giờ nhậu một cây. Như chúng mày rồi.
Đoạn vào bếp. Tôi theo sau. Món Nguyễn Đình Toàn chính tay làm và đãi tôi hôm đó là món mì xào thịt bò. Tự khoe, trước cái chảo gang nóng rẫy:
– Ăn rồi coi. Tao xào còn ngon hơn La-Cai, Chợ Lớn.
Chiều Thủ Đức lần ấy, tôi đã đối ẩm với Nguyễn Đình Toàn lúc Làng Báo Chí chung quanh tối thẳm. Đạp xe trong đêm trở và Saigon, tôi nghĩ chắc còn lâu mới lại lên làng Báo Chí, gặp lại bạn. Lâu thật. Không ngờ lâu đến thế. Đã mười năm rồi. Và chắc cũng chẳng bao giờ nữa.