← Quay lại trang sách

Những buổi trưa ở Chinatown của Võ Phiến

Mỗi lỗi lần có một người bạn từ xa tới vùng Vạn Hồ Minnesota, những mùa đông dài trời biếc lộng lẫy nắng múa rực rỡ mà nhà cửa, cỏ cây, hồ bãi thì chôn vùi cóng buốt dưới hàng thước tuyết, nhà văn Vũ Khắc Khoan thường đốt một lò sưởi lớn. Đãi bạn món vịt hầm tiêu kiểu Pháp nhà làm đã được cho vào sổ vàng ẩm thực bang chúng văn nghệ. Và trước lửa, đêm mùa đông thét gió gào mưa ở bên ngoài, trong những sự và người kỳ thú của Vạn Hồ, kể cho bạn nghe một giai thoại vui về Võ Phiến.

Võ Phiến, bạn bè đọc lái lại là Phó Viễn. Võ Phiến, người viết văn lỗi lạc của Bình Định dữ dội. Võ Phiến, cùng quê với Nguyễn Huệ, ông kiếm cung hiển hách một thời, tôi bút giấy một thời vang động. Võ Phiến, tên phản bội bị cộng sản khu 5 kết án tử hình khi bỏ khu về thành, bản án tử hình còn nguyên vẹn hiệu lực khôngxóa bỏ sau quốc nạn 1975.

.

Võ Phiến, thức trắng đêm với cái máy chữ nhà thờ thổ tả cho những số Văn Học Nghệ Thuật, tới sáng cùng Lâm Triết xuống bãi biển Santa Monica danh tiếng, câu cá quên đời với những người da đen thất nghiệp, cái cần ném đi vướng lung tung vào tóc tai người đứng cạnh, khiến câu cá bình minh của Mỹ thấy Bình Định tới là ôm thùng đồ câu lảng tránh thật xa. Võ Phiến, tác giả Nguyên Vẹn, Jim Banerian đã dịch sang Anh ngữ, Võ Phiến tử một đêm Phú Quốc đen đặc, Buôn Mê Thuột mất rồi, Bình Định cũng sắp, cùng với Thanh Nam, Viên Linh, Lê Tất Điều theo đoàn nghệ sĩ và chuyên viên vô tuyến ra Hạm Đội Thứ Bảy. Võ Phiến, mỗi trưa hè Los Angeles, trong con đường Baltimore cổ cũ, nằm đong đưa trên chiếc võng cói mắc giữa hai đầu cành sinh tử, như lời một câu thơ Thanh Tâm Tuyền. Võ Phiến, công chức vào ngạch của sở Thuế Los Angeles. Võ Phiến đã thôi làm báo, đã nghỉ viết văn và cười hề hề:

– Năm năm nữa tôi về hưu, tôi vĩnh biệt với những con số thuế, tôi viết lại mấy hồi ông ơi!

Giai thoại kể lại theo bút pháp lộng ngôn của Vũ Khắc Khoan kể rằng cái hồi đầu vào Mỹ, sở dĩ Võ Phiền viết nhiều, viết ác về những lề thói ăn ở kỳ cục tức cười của xã hội Mỹ, do nơi bản tính tinh nghịch của người Bình Định một phần, một phần vì mới chân ướt chân ráo nhập nội, cái xã hội của những cơ quan thiện nguyện làm trùm đã chơi nhà văn tỵ nạn chính trị một cú nhớ đời. Như thế này. Tới Guam, rồi vào trại Pendleton, Võ Phiến được bảo lãnh dụ khị sao đó, đã hãm hở rời trại tới Minnesota sớm nhất. Lúc hai bờ thượng lưu man rợ của giòng trường giang Mississippi chưa soi bóng một Việt Nam tỵ nạn nào. Tới vào cái lúc sơ khởi của định cư, Việt Nam từng người dấn thân đi vào các tiểu bang Mỹ lạ hoắc không một ý niệm về địa dư và lãnh thổ, cũng phiêu lưu, mù lòa và hãi hùng như thầy trò Tam Tạng thỉnh kinh thuở trước. Đó là cái lúc ở trại vui hơn, từ chối định cư, những áo dài và những bà ba của cái xứ sở thất quốc vượt biển có Bình Định gió cát chỉ mới biết có một mẻ biển Thái Bình ấm áp, và California đất tiền đất bạc gần nhất mà thôi.

Võ Phiến tách ra, ngược đường, mang cái thân thể văn chương lưu đầy về một hướng khác. Sao vậy? Có phải vì cái tư tưởng xa đời, xa người thầm kín nơi một nhà văn một đời như núi đứng riêng tây, một cõi một mình, một mình một cõi, ta bất xuất ta, người bất nhập người? Hoặc vất bỏ hết thảy, từ một giác ngộ thình lình, làm anh chàng Henry Việt Nam của Le Fil Du Rasoir (hạnh phúc khó ghê gớm như đi trên một lưỡi dao cạo) tự xóa bỏ trước nhân quần xã hội, làm một công dân vô danh trong cái thế giới ẩn tích? Hoặc tưởng rằng trên mười ngàn mặt hồ tịch lặng, bàn viết được đặt hơn là đặt giữa phồn hoa? Hoặc là. Chẳng rõ nữa. Giai thoại không đào sâu vào phân tích. Chị Võ Phiến còn nói với tôi một lần, nói rồi chảy nước mắt, anh Phiến hồi đầu một hai chỉ đòi tự tử, bây giờ khá lắm rồi đấy anh.

Điều mọi người biết là cấu thành trong gió nắng

Bình Định ngụt lửa tử thuở nhỏ, người thổ dân nhiệt đới toàn phần ở Võ Phiến đã rơi thẳng vào đất lạ Minnesota trúng giữa trọng điểm hàn băng của một mùa đông dài thẳm. Đêm, trong Đỉnh Gió Hú. Ngày, trong bác sĩ Jivago. 30, 40 dưới không độ. Tuyết phủ kín đất trời. Tuyết mãn thiên hoa vũ. Mặc đến năm cái áo len nhà thờ, tác giả Thư Nhà cũng cứ lạnh từ xương tủy lạnh ra.

Trong cái sự thể lập cập đó, nhà văn xứ nóng ngồi tiếp chuyện bảo lãnh ngập ngừng mãi rồi đành nói sự thật về nghề viết chữ ở mình ngày trước. Ủa, vậy thì Minnesota hiếu khách và trân trọng văn học đã có ngay một việc làm thích hợp cho bút giấy và trí tuệ nhà văn. Nói rồi bảo lãnh đứng lên, chở liền xe đi, dưới tuyết đổ trùng trùng.

Giai thoại kể tiếp: Võ Phiến mừng rỡ, mặt mũi tươi rói. Sắp được trở lại bàn viết rồi đây. Như ở Trí Đăng. Như ở Bách Khoa. Sắp được gặp lại văn chương rồi đây. Như ở Văn Học, như ở Sáng Tạo.

Chưa có một ngộ nhận Việt Mỹ nào lớn lao hơn thế. Bảo lãnh đưa Võ Phiến tới một xưởng giấy. Thứ xưởng kích thước Mỹ, liên hành tinh, liên lục địa, sâu tối, bát ngát, với những núi giấy cao ngất người đứng cạnh nhỏ như con kiến, những xe đẩy giấy lớn như những tòa nhà. Và công việc của Võ Phiến là đánh vật với những núi giấy. Trèo lên. Leo xuống. Khuân ra. Vác vào. Một ngày tám tiếng.

Vạn Hồ thật độc. Nó bôi xóa đi cái biên thùy của lao động trí thức với lao động chân tay. Nó đại thắng mùa đông. Nó Việt cộng nằm vùng. Và Võ Phiến lại vượt tuyến một lần nữa. Giả từ hồ vịnh, tuyết ơi, chào mi, mũ lông hoàn lại Nhà Thờ, áo lạnh gửi trả bảo lãnh, hệt như đêm nào trên bãi biển Phú Quốc, Võ Phiến chết cóng hối hả tháo chạy khỏi Minnesota. Tôi cười mãi về cái giai thoại Vạn Hồ, lần đầu từ trại đảo sang tới thăm Võ Phiến, cùng Nghiêm Xuân Hồng ở lại một đêm trong căn phòng Santa Monica còn là cái tòa soạn tại gia, cái trị sự garage của một tạp chí văn học lưu vong tôi kinh ngạc nhìn thấy lần đầu ở Mỹ. Lúc đó tờ Văn Học Nghệ Thuật đã mệt lả. Võ Phiến cũng vậy. Nỗ lực chưa từng thấy của một nhà văn Việt Nam lưu đày trong tạo dựng đơn độc một diễn đàn ngoài nước, tôi nhìn thấy lần đầu và trọn vẹn sự thật ở đó.

Một mặt thảm trần trụi, không sao cho phép nhìn thành một diện tích màu mỡ cho mùa màng văn chương và tươi xanh văn học. Một góc phòng, một máy chữ tiền sử, loại quà tặng điển hình của bác ái nhà thờ, đáng lẽ đã phải mồ yên mả đẹp từ lâu trong phế thải. Góc đối diện, một máy điện thoại phục vụ cho văn chương phổ biến xa rộng mà lại có một mẫu giáo lệnh dán cạnh, chủ nhiệm đích thân viết tay: “Hạn chế tối đa long distance”. Kia, lăn lóc một tiểu luận Đào Đăng Vỹ. Nọ, lả tả những tờ rời Nguyễn Thị Ngọc Liên. Tất cả, thiêm thiếp trong buổi trưa Santa Monica đứng gió. Đó là chỉ có thể, cái thế giới làm báo tước lược, chay tịnh đến cùng cực của Võ Phiến. Cái thế giới hý hoáy, cặm cụi, nhũn nhặn, một mình, của chữ nghĩa khổ hạnh không tiếng, của ngồi xổm đọc bản thảo, của cởi trần ngồi gõ máy, của “mẫu bánh mì, ly nước lạnh”, tôi mượn thêm một ý thơ Thanh Tâm Tuyền, của ưu tư văn chương lẫn lẫn với lo nghĩ tiền phòng, của trưa đem báo đi trong nắng lửa dữ dội, của chiều chở báo về xe chết giữa xa lộ, phản ánh tận cùng cho những năm tháng khởi đầu nơi quê người, văn chương ra đi là một đọa đầy với ngoại giới xa lạ, còn là một đọa đầy với chính nó, bởi văn chương, nhà văn, văn chương y và diễn đàn y dựng nên chính là hiện thân của đọa đầy bi thảm phơi bày dưới hết thảy mọi khía cạnh, không thể là gì hơn, không thể là gì khác.

Dựng lên tờ Văn Học Nghệ Thuật, gọi đó là một chặng đường mới nơi người lữ hành Võ Phiến thời gian còn thiết tha chân cứng đá mềm với đại thể, cũng được. Gọi đó là những lá thư vẫn phải viết mỗi ngày của Thư Nhà Toàn Tập, cũng được. Gọi đó là phản diện của định mệnh văn học điêu đứng ngộ nạn mà một nhà văn kích thước như Võ Phiến phải sống sau cái chính diện thảnh thơi, thuận dòng, không sấp ngửa, không gió bão mà Võ Phiến là một trong ít người may mắn có được suốt bao năm ngày trước ở quê nhà, cũng được nữa. Nhưng đúng hơn cả, đó là chấp nhận quả cảm đi vào thực tế văn học, ngoài nước, một thực tế còn nghìn lần điêu linh hơn cho người nhà văn ở Võ Phiến là cái thực tế thời tiết, cái thực tế bão tuyết mùa đông đầu của người tị nạn Võ Phiến ở Vạn Hồ.

Vấn đề là phải đi vào. Đồng hóa bản thân vào thực tế. Với tờ Văn Học Nghệ Thuật, – không ai quên được lời từ tạ xin lỗi của Võ Phiến trong lá thư cáo biệt bạn đọc, đóng cửa diễn đàn – Võ Phiến đã thực hiện được cái công việc văn chương rất đáng ghi nhận ấy. Cho chính ông và cho văn chương ta. Bên cạnh những tác phẩm đã xây cất cho tác giả một sự nghiệp bề thế, tờ Văn Học Nghệ Thuật có thể chỉ là một phụ lục thôi.

Nhưng theo ý tôi, không có tờ Văn Học Nghệ Thuật, sự nghiệp văn chương Võ Phiến nửa chừng. Inachevé. Tờ báo chính là một chặng đường phải có, một hoàn tất tốt đẹp cho cuộc đời, và thân thế của Võ Phiến nhà văn. Sự vật lộn ấy, tính chất lao động đích thực ấy, thời gian ấy của một báo quán trong phòng ngủ, một tòa soạn trên mặt thảm chính là một trang vàng của văn học Việt Nam lưu vong, mà hình thành tốt đẹp nào, vẫn theo ý tôi, nhất thiết phải là một hình thành trong đơn độc khổ cực. Từ một hầm tối, một địa đạo văn học. Từ một ly nước lạnh. Vũ Trọng Phụng còn không có giấy để viết. Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Đình Lạp chụm đầu trên căn gác xếp Hàn Thuyên mờ khói. Đinh Hùng chỉ có một mảnh chăn đơn. Tản Đà cũng vậy. Những tài năng lớn ấy đã là những đọa đày lớn, những khổ cực lớn trên chính đất nước của mình. Thì văn học lưu đày cũng phải vậy. Còn phải hơn thế. Võ Phiến đã vậy, đã như thế.

Hóa nên, thời gian Văn Học Nghệ Thuật nếu là chật vật, khổ cực, có lẽ cũng là thời gian ấm áp nhất của Võ Phiến tị nạn. Một Võ Phiến không ảo tưởng. Trước những cánh của đóng kín.

Tôi nhớ mãi lần gặp lại ấy. Trọn một buổi sáng nhàn nhã tản bộ trên con đường Đại Dương chạy dọc theo bãi biển Santa Monica, tác giả Thư Nhà, đề cập tới một triển vọng văn học xa nước, bằng những dẫn chứng cụ thể, đã gần như làm xong với kẻ mới đến là tôi, một thuyết trình đầy đủ về những cánh cửa bằn bặt đóng kín. Của xứ sở này. Trên phương diện nghệ thuật. Trên phương diện văn chương. Đối với lưu vong Đông Phương. Đối với Á Châu tị nạn. Ta với ta thôi, với họ, vô phương, mọi con đường đều chặn lấp, mọi cánh cửa đóng chặt. Võ Phiến nói. Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa tới đây đã mấy đời, còn đứng bên ngoài lề, làm gì có tiếp nhận và chỗ đứng nào cho Việt Nam mới tới. Chúng, Bình Định kêu Mỹ bằng chúng, giữ đất thật kỹ. Họa hoằn chỉ một vài thiên tài lưu vong lỗi lạc của Âu Châu lọt được vào và tạo được danh vọng được tên tuổi. Da vàng tuyệt đối không, dù bậc thầy, dù thiên tài. Như vậy cho hết thảy mọi ngành, từ văn chương tới hội họa, từ sân khấu tới âm nhạc.

Nhận thức sáng suốt mà ở ngoài mọi ảo tưởng này, Võ Phiến đã có được và thật sớm. Trước chúng ta. Bởi cái hiệu năng quan sát sắc nhọn ta đã thấy như những chùm lân tinh lập lánh cùng khắp trong những tác phẩm ông. Còn bởi một tri thức tự thành, mà đợt lĩnh hội mới, thật chính xác (đã một phần được viết ra trong những Thư Nhà) là những yếu tính, những đặc thù và những quy luật làm nên đời sống, xã hội, và văn minh văn hóa Hoa Kỳ. Thảy đều xác quyết và cực kỳ tàn bạo.

Hoa Kỳ rộng rãi tiếp nhận tị nạn thế giới vào xứ sở mình. Đồng ý. Nhưng “nó” có tiếp nhận, mở đường, trải chiếu hoa, dâng đất đứng cho văn học nghệ thuật tị nạn hay không, đó lại là chuyện khác. Võ Phiến hiểu được rất rõ điều đó. Câu trả lời của ông là không. Cho những người làm văn học nghệ thuật ta tới đây, chưa tạo dựng nổi một tầm vóc với thiểu số mình đã vọng động vọng tưởng cho mình một tầm vóc quốc tế hư ngụy lố bịch, những người đang hoài công xô đẩy gào gọi những cánh của hội nhập đóng kín, nhận thức Võ Phiến là một chiếu sáng vàng ngọc. Về sự ông đã biết, rất nhiều chưa. Là yếu tính của văn minh văn hóa Hoa Kỳ đã đặt định, bành trướng, tất cả được thi hành như một quốc sách Mỹ trước toàn cầu và trước mọi dòng văn hóa khác, in tuồng một sách lược chính trị, một kế hoạch kinh tế, vắn tắt một thế lực chinh phục. Chính sách ấy đã được tỏ hiện và khẳng định không che giấu, ngay từ lập quốc Mỹ. Bằng tinh thần nội dung bản Hiến Pháp Mỹ. Bằng tuyên cáo Jefferson. Bằng lập thuyết Roosevelt, bằng chủ thuyết Monroe. Bằng “lối sống” Mỹ, giá trị Mỹ trước sau được rao giảng truyền bá như mẫu mực như cứu cánh của loài người đang tiến chiếm thế giới như một ngọn triều ào ạt.

Tờ Văn Học Nghệ Thuật cho tới ngày đình bản cũng đã được Võ Phiến thực hiện từ nhận thức vừa nói.

Những ai bây giờ tới thăm Võ Phiến ở ngôi nhà êm đềm nằm giữa con đường Baltimore là một vùng ngoại vi yên tĩnh của Los Angeles thấy ngay rằng Võ Phiến, công chức vào ngạch của sở thuế Los, đã dứt khoát đình chỉ cho mình, ít nhất cũng một thời kỳ, mọi hoạt động văn chương. Trên cái máy chữ nhà thờ, trên mẫu bánh mì và ly nước lạnh, một tấm rèm đã dịu dàng thả xuống. Căn phòng khách không còn một dấu vết nào của tài liệu, sách vở bề bộn như trên cái mặt thảm Santa Monica mấy năm về trước. Chỉ còn, trên một kệ gỗ nhỏ, mấy cuốn Tam Quốc, một tập Đông Chu, đôi khi Võ Phiến đem ra vườn sau, nằm dài trên võng, đọc lại một khúc Chiến Quốc, một đoạn Xuân Thu dưới trời chiều thẫm thẫm.

Vậy thôi. Thật yên. Rồi sáng mai đi làm. Như người đàn ông của cảnh ngộ và thời thế trong Tú Xương.

Bây giờ bút đổi lông ra sắt

Cách kiếm ăn đời có nhọn không?

Hỏi Võ Phiến cách kiếm ăn đời có nhọn không.

Kẻ bị cộng sản liên khu 5 kết án tử hình, cười gật đầu. Nhọn. Và mệt lả. Nhưng cười. Nụ cười ấy, tiếng cười ấy, làm cho trẻ trung vĩnh viễn một khuôn mặt ở đó là những sợi tóc thi sỹ trên vầng trán rộng, là một cặp mắt vẫn lấp lánh ánh lửa Bình Định tinh nghịch. Nụ cười ấy, tiếng cười ấy vẫn trưa trưa thong dong đi cùng với Võ Phiến trên những vỉa hè chói nắng và sặc sỡ của Chinatown Los Angeles.

Ông Phú và bà Phú cùng làm một sở. Giờ nghỉ đi ăn trưa, chàng và nàng sánh vai vượt qua cây cầu ngăn cách thị trấn Los với khu thương mại người Tàu, lộ trình ngắn hơn là từ Sài Gòn đi vào Chợ Lớn. Cuộc đi dạo lè phè, ung dung. Ngưng lại ở một tiệm trà. Mua một lạng Thiết Quan Âm. Nghỉ chân trên một ghế đá công viên. Cho cái bụng nặng được nghỉ. Nhiều trưa chàng phải về trước, nàng về sau một mình. Chàng chỉ cho người bạn cùng đi cây cầu biên giới, nói đùa:

– Trưa trưa nơi quê người nàng vẫn thân gái dặm trường, một thân một mình qua cầu như thế.

Nói đùa, rồi cười. Và vẫn tiếng cười đó, tiếng cười Võ Phiến, tiếng cười phải biết có để thấy, phải biết còn để sống, tiếng cười ta đã nghe, thân thuộc và yêu mến, từ bao nhiêu năm cất lên trong cõi văn xuôi lạc quan yêu đời của Võ Phiến. Tiếng cười ấy, những buổi trưa Chinatown bây giờ, tưởng như là đã ở ngoài văn chương, mà vẫn là ở mãi với văn chương.