← Quay lại trang sách

Đường gươm Lê Tất Điều

Một lần nào đó không thể nhớ, bởi không chỉ một mà đã rất nhiều lần, người nhà văn lưu vong đã có cái tên Lê Tất Điều lẫy lừng có thêm hai bút hiệu Cao Tần và Kiều Phong lừng lẫy của chúng ta, đang lao động vinh quang lại bị chủ Mỹ thình lình cho nghỉ việc.

Diễn tiến lần ngồi chơi sau y hệt lần xơi nước trước. Vịnh biển San Diego lòa nắng. Công xưởng đóng tàu nằm trên lòng vịnh ngó xuống những khối sắt thép vĩ đại bất động là những chiến hạm Hoa Kỳ về thả neo trong căn cứ sau những hải hành và thao dượt trên Thái Bình Dương mênh mông. Văn chương lữ thứ Việt Nam, hệ lụy trong mưu sinh tạp nhạp đất người, ngày ngày đã tới đây từ 5 giờ sáng. Nền văn chương mất đất ấy, thay vì cầm lấy cây bút, đã anh dũng cầm lấy cây búa. Thay vì tới trước bàn viết, đã chui vào nằm ngửa trong các thùng sắt. Và cái sự lao động vinh quang của Lê Tất Điều từ tám năm tới Mỹ, là trong cái thế nằm bất ổn ấy, phóng búa liên hồi ngược lên thành sắt cho những rỉ sét tới tấp rụng xuống, phủ lên cái hình hài của trí tuệ Việt thất thế thành rào rào một trận mưa hoa.

Một ngày dằng dặc nằm ngửa phóng búa, phóng như điên như khùng, trong thùng sắt nóng bỏng, tới mụ mẫm hồn phách, riết rồi có cái hay ông ạ, Lê Tất Điều một lần nói với tôi như vậy, là chẳng phải nghĩ ngợi đến cái mẹ gì hết. Chắc vậy, nhưng là trong cái cụ thể của nghĩ mà thôi. Còn tôi thì lại thấy rằng, chính ở những lúc đó, tiếng búa tan tành, suối lửa chói chang, mồ hôi nhễ nhại, là chính những lúc có thơ nở hoa, là chính những lúc có thơ Cao Tần hay nhất. Thử đọc một vài câu thơ Cao Tần mà coi “Mai mốt tao về có thằng túm hỏi” “Những số nhà chớp mắt đã tang thương”. Hoặc “Chiều lưu lạc chơi thương từ giấy cũ” “Hình chụp ngay đó rất mực cù lần”.

Thấy thơ Cao Tần biển dâu, thời thế. Nhưng cái điều thấy riêng tôi thích nhất, là câu thơ Cao Tần nào cũng thấp thoáng, veo veo, cũng vùn vụt cũng nhanh mau vô tả. Cái hay ở từ, ở chữ, nhưng ta đọc mà thấy cực kỳ sảng khoái chính là ở cái nhịp, cái nhịp vô chen, cái nhịp vỡ bờ. Nhịp thơ ấy làm sao có được nối với trà dư tửu hậu, với gác chân chữ ngũ, với bàn viết ung dung. Mà chính là từ cái nhịp búa gõ, cái nhịp rào rào rỉ sét tới tấp mưa hoa, cái nhịp ở trong thùng sắt mà ra, phóng búa mà thành.

Trở lại sự mất việc. Đang phóng búa inh inh, chợt thấy chủ cho gọi, cái trí tuệ mà bạn bè thường khen là óng ánh lân tinh, lấp lánh kim nhũ hiểu liền. Biết liền. Búa bèn buông. Việc bèn ngưng. Bèn lăn khỏi thùng. Bèn đứng thẳng lên. Và ngay lúc đó, lần nào cũng vậy, trong ngưng bặt của tiếng búa mất job, tâm thái người thảnh thơi vô tả, đã lại thấy mở ngay ra, những chân trời, những dặm biếc, những gió nắng của một chuyến đi thăm một bằng hữu nào đó ở xa. Lần mất việc tôi vừa thuật lại, Lê Tất Điều cao hứng đã đi thật xa. Từ cuối đáy San Diego tuốt luốt lên tận địa đầu Tây Bắc, với hồ vịnh Seattle. Với thông rừng Tacoma. Với tôi bấy giờ còn ở đó, và

Xuân Hiến chưa mất.

Hắn tới ngày hôm trước. Chưa thấy người đã thấy tiếng cười lớn: lại được đi thăm bạn, lại mất mẹ nó việc rồi ông ạ. Sáng hôm sau, chúng tôi cùng toàn gia Xuân Hiến, chồng chất trên hai chiếc xe hơi, ồn ào kéo nhau đi pic-nic ở rừng. Ba năm qua rồi. Nấm mồ Xuân Hiến đã xanh cỏ. Tôi vẫn cứ còn nhớ mãi cái lần pic-nic đó. Tại vì hôm đó, tôi đã thấy Lê Tất Điều, còn thấy cả Kiều Phong, cả Cao Tần, và thật rõ. Hay vì đó là lần đi chơi cuối cùng với Xuân Hiến đôn hậu, hiền lành mà chúng tôi còn mãi mãi nhớ thương? Có thể là cả hai.

Địa điểm pic-nic cách chỗ Xuân Hiến 80 dặm, xe chạy theo một dòng suối núi, là một cánh rừng thưa, ở giữa là một hồ nước nhân tạo. Bầu đoàn Xuân Hiến, phụ nữ, trẻ nhỏ một bầy, cộng với San Diego nghỉ việc, lúc đi đã là một náo động lãnh thổ Hoa Kỳ tịch lặng, khi tới còn cồng kềnh, còn lĩnh kỉnh, còn náo nhiệt gấp mười lần hơn. Riêng chỉ cái việc bếp núc Việt Nam đổ xuống, phụ nữ đất Việt khởi sự nhen lửa cho đun nấu kềnh càng đã làm cho chim rừng bay hết, hàng chục gia đình Mỹ hốt hoảng dỡ lều di tản sang những phần rừng khác. Rồi khói xanh um. Rồi lửa đỏ rực. Rồi trẻ con Việt bì bõm dưới hồ. Rồi xoong chảo, bát đũa, nước chấm tùm lum tà la. Pic-nic mà tôi nhức đầu lên. Thế này là khiêng nguyên cái chợ Bến Thành tới rồi. Xuân Hiến trầm lặng cũng ngồi xa một góc. Riêng Lê Tất Điều thoăn thoắt. Riêng Cao Tần như Tết. Riêng Kiều Phong băng băng. Ngon lành một số nhân, ba trong một, một trong ba, ngoài đời hệt như ở văn chương ba bút hiệu, Lê Tất Điều chạy tới chạy lui, tươi cười, săn sóc, nhúng tay vào hết thảy, ở cạnh hết thảy mọi người. Làm Trần Cao Lĩnh thợ hình. Tách, tách. Cái máy hình buông, đã tay trái không, tay phải dọn. Đuổi bắt về con chó chạy rông cho bầy nhỏ rồi cùng chơi những trò chơi của chúng. Thổi lửa phù phù, phụ bếp, dọn bàn. Thoắt mất biến là đi thăm thú cánh rừng. Thoắt trở về là đã có tường trình đầy đủ đâu là góc hồ thơ, đâu là chỗ nằm tốt, kinh nghiệm cho lần pic-nic sau. Này, ông Thảo thấy ở đây là thế này không. Này ông Hiến, ở đây là thế đó. Chỉ thiếu một cái thước bảng, hắn đã là ông giáo mở cho chúng tôi một lớp thảo mộc học ngoài trời. Chỉ thiếu một cái còi, hắn đã là một huynh trưởng hướng đạo và chúng tôi là sói con.

Mọi chuyện đã yên, bữa ăn đã xong, chiều rừng đã ngả, chúng tôi mới dời tới một góc đại thụ, trải một cái chiếu xuống cỏ, bầy ra một khay trà. Và đàm đạo văn chương thanh nhã bắt đầu với Xuân Hiến và tôi nằm dài trên chiếu. Riêng Lê Tất Điều ngồi, cười nói, tươi tắn, như buổi sáng ra đi, không một thoáng mỏi mệt.

Nhà văn Hàn Lâm Viện Pháp François Nourissier trước đây đã có một bài viết phân tích rất hay về một trạng thái văn chương đặc biệt: trạng thái dùng nhiều bút hiệu ở một nhà văn. Theo Nourissier một nhà văn sử dụng nhiều bút hiệu thường đem lại nhiều bất ngờ lý thú hơn là một bút hiệu duy nhất. Còn nguyên nhân thì Nourisser giải thích là vì nhu cầu viết, nhu cầu diễn đàn, cái khả năng phong phú nhiều mặt ở nhà văn, khả năng ấy muốn được triển khai trên nhiều địa hạt. Vẫn theo Nourissier và bằng những dẫn chứng cụ thể trong đó có cả những ghi nhận về một đặc thù của văn chương thế kỷ là văn chương càng ngày càng có mặt nhiều hơn trong lãnh vực báo chí, sử dụng nhiều bút hiệu và sử dụng thành công thường thấy không chỉ ở cái biệt tài nhiều mặt mà còn ở cá tính của nhà văn, hồi muốn nghiêm trang, lúc muốn trào lộng. Và cuối cùng là nhà văn xuất sắc dưới mọi bút hiệu mình thiết yếu phải từ một thể lực viết và sống vừa dễ dàng vừa sung mãn.

Bút hiệu như một trò chơi chữ nghĩa đầy hứng thú. Một thể lực sung mãn. Tôi hoàn toàn đồng ý với mấy phân tích sau cùng của Nourissier. Thấy thật là đúng ở văn chương ta, qua những nhà văn dùng nhiều bút hiệu, và xuất sắc hay không ở sử dụng này. Thấy ở Thế Lữ còn là Lê Ta, Lê Tây. Thấy ở Hồ Dzếnh còn là Lưu Thị Hạnh. Thấy ở Thanh Tâm Tuyền còn là Thạch, còn là Đỗ Thạch Liên. Thấy ở Võ Phiến cùng với Tràng Thiên. Thấy ở Đinh Hùng còn là Hoài Điệp. Cái lúc nhà văn hiển lộng dưới nhiều bút hiệu và thảy đều rất sinh động xuất sắc, ta đã thấy cái lấp lánh ở đó, là lúc nhà văn tạo được nhiều bất ngờ vui thú nhất, cũng là lúc của cái ngọn, cái đỉnh về thể lực viết và sống tràn đầy và sung mãn nhất ở nhà văn.

Tôi đã thấy, vẫn còn đang thấy rõ nhất, và hơn ai hết những điều trên ở Lê Tất Điều. Thời kỳ còn ở quê nhà, trong bộ quân phục có ngọn lửa đỏ của ngành tâm lý chiến, cõi văn, ngòi bút Lê Tất Điều đã có cái hết sức lấp lánh hứng thú ở cái hai mặt, ở cái số thành nhà văn Lê Tất Điều với nhà báo Kiều Phong. Tới Hoa Kỳ, và đây mới là điểm lấp lánh vui thú: đã hai nhánh bút hiệu quê nhà còn mọc thêm một nhánh bút hiệu lữ thứ, cạnh dòng sông văn nước tuôn còn chảy thêm một dòng sông thơ sóng đập, cái cõi thơ sang sảng đang được cả một lớp người trẻ tuổi thích thú, cái cõi thơ như ở trên tôi đã nói, sảng khoái nhất ở cái nhịp thơ nhanh mau vô tả, cái cõi thơ bay múa của Cao Tần.

Lại cứ phải đồng ý hoàn toàn và thêm một lần nữa với phân tích François Nourissier: người viết chữ khi vẫn làm chỉ một thể lực sung mãn, thành tựu ở hắn không đứng lại, sở trường ở hắn tăng trưởng, cái số thành là một số nhân lên, một bút hiệu mới cho vùng đất mới.

Kiều Phong. Lê Tất Điều. Việt Nam, Sài Gòn. Cao Tần, hải ngoại. Quả đây là một trường hợp văn học đặc biệt. Đặc biệt trong sự nghịch thường, hãn hữu của nó. Để thấy rõ, hãy nhìn vào mọi thân thể văn học xa nước. Từ miền Đông sang miền Tây, dưới trời Âu như dưới trời Mỹ. Trên một phần rất lớn, những thân thế ấy đều đã sẽ xế non Tây, thấp thoáng cuối đường. Một hành trình đã dài. Những bước chân đã mỏi. Một khối đời đã nặng. Giây tơ đã chùng. Số phận lưu đầy không thể nào không đã phủ những bóng tối u uất lên tâm thức thất quốc. Cảnh thổ xa lạ nơi quê người càng làm phi lý thêm mãi kể cả những tấm lòng lửa đỏ nhất của văn chương. Chẳng phải vì thế hệ những nhà văn nhà thơ của thập niên 60, 70, bỏ nước ra đi đã vĩnh biệt với trách nhiệm, tạ từ cùng chữ nghĩa. Những diễn đàn vẫn dựng. Những tiếng nói vẫn cất. Nhưng trận đánh vẫn mở. Nhưng khí thế của văn chương nhìn chung đã trầm xuống, mất dần đi những ban mai, thôi dần đi những lên đường.

Trong lưu đầy, văn học ta, đằm thắm tình tự dân tộc, chính thống hơn. Cũng trưởng thành, cũng uy nghi, cũng thâm trầm sâu sắc hơn nữa. Nhưng chính vì trí tuệ hơn, suy nghĩ hơn mà văn chương ta ngoài nước đã vơi đi những lượng máu hồng. Duy ở Lê Tất Điều, ta vẫn còn thấy cái nắng cái gió dưới ngòi bút, các đánh phá của dòng chữ, nhịp xô chuyển của bài văn.

Tại sao vậy? Tại cái trẻ tươi. Tại cái tiếng cười. Ở cái thế nằm hiệp sĩ bất ổn, phóng ngược cây búa mà nở thành nhịp thơ Cao Tần sáng láng hân hoan. Còn ở nơi chiều rừng và pic-nic kia, tôi và Xuân Hiến đã nằm dài trên cỏ, mà Điều vẫn ngồi thẳng vẫn nói cười không mỏi mệt. Có lẽ tại vì giữa chúng tôi đã ngờ vực, cái sự ngờ vực văn chương ở Lê Tất Điều chưa có, do nơi tấm lòng Điều với văn chương không này nọ, không điều kiện, nền văn chương ở mãi với người trong một trạng thái rất thanh xuân.

Tôi không có cái khả năng phân tích tinh tế như François Nourisser. Chỉ tạm tạm thấy vậy. Phải chờ chính Lê Tất Điều giải thích. Một cách cực kỳ đơn giản.

Hôm đó là một buổi sáng mùa hè. Phạm Duy mới đi một vòng 8 nước Âu Châu về, lái xe tới rủ tôi tới thăm Tạ Tỵ ở Escondido, một thành phố nhỏ cách San Diego chừng 20 dặm. Điện thoại. Lê Tất Điều nói sẽ từ San Diego tới. Chúng tôi ra ngồi ở vườn sau, cùng uống trà, Phạm Duy vừa cho xem hình vừa kể chuyện những chặng đường lưu diễn trình bày ngục ca Phạm Chí Thiện bên kia Đại Tây Dương. Tạ

Tỵ, mái tóc bạc trắng, thuật lại 7 năm lưu đầy khủng khiếp qua những trại tập trung miền Bắc. Bữa ăn trưa đã sẵn sàng. Chỉ còn chờ Điều tới. Hắn tới. Chưa thấy người đã thấy tiếng cười. Chưa thấy mặt đã thấy tiếng nói. Cánh tay áo ngắn. Đầu trần. Nhỏ nhắn. Chắc nịch. Mạnh mẽ. Vẫn hệt như ngày nào lên Tây Bắc với Xuân Hiển và tôi, không một chút thay đổi. Duy có một sự thay đổi duy nhất là sau kỳ mất việc lần này, nhà văn, dưới bút hiệu Kiều Phong, không giang hồ thăm bạn nữa mà đã viết báo trở lại. Câu chuyện chuyển qua những bài báo mở màn đăng cùng một lúc trên trang nhất nhiều diễn đàn trong mùa hè 83, của Kiều Phong xuống núi. Những bài báo vẫn đường gươm lấp lánh, đường kiếm thấp thoáng, dí dỏm, tươi tắn, chứng minh cho một thể lực sáng tác sung mãn nguyên vẹn.

Và Lê Tất Điều đã cười, giải thích cho xuống núi mới của Kiều Phong:

– Còn muốn nghỉ một thời gian nữa sẽ tính. Rồi viết lại. Cũng có chút xíu cái lý do của nó. Các vị có thấy văn chương sách báo ta bây giờ đang buồn quá? Người buồn, cảnh buồn, đời sống đã buồn, văn chương còn buồn quá thể là buồn. Cái nghiêm túc, cái đứng đắn ta có thừa, đem bán sale không hết. Như thế là đáng quý lắm, cái sự mỗi câu văn, mỗi lời thơ của chúng ta đều là một công trình suy tưởng cẩn trọng. Nhưng buồn quá, nghiêm quá, và từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc mãi, tôi nghĩ không nên. Phải có cái gì cho nó nhẹ đi, đỡ phần ngột ngạt. Tôi viết lại và bằng lối viết Kiều Phong trên một số diễn đàn bạn, trước hết là để cho chính tên Kiều Phong đỡ buồn, sau là để thả vào cõi văn chương u uất bây giờ một chút vui, một chút tếu, một chút nghịch, cho vẫn có một tiếng cười nào đó, cho dù ở hoàn cảnh nào.

Kết luận như thế nào về Lê Tất Điều? Về Cao Tần, cái dòng thơ chỉ mới khơi nguồn nên ta biết sẽ còn chảy xiết? Về Kiều Phong lại vừa xuống núi? Khó thiệt. Tôi chỉ nhớ đến được một lần gặp nữa. Lần đó, tôi xuống San Diego, định tâm rủ Lê Tất Điều và Phan Lạc Tiếp vượt qua biên giới sang Mễ Tây Cơ chơi. Tiếp chê Mê ẩu tả, bất tả, bất an, đi vào đất Mễ, vui chưa thấy đâu, dễ gặp nhiều điều phiền phức. Điều bận. Cả hai cùng từ chối. Họ chở tôi tới cửa vào Sea World, bảo tôi ngao du trong đó, chiều tới đón. Và hôm đó tôi gần chết. Sáu tiếng đồng hồ lang thang trong cái nhà du lịch hoàn cầu ca ngợi là kỳ quan Sea World, tôi lạc lõng giữa cái rừng nhi đồng và phụ nữ Mỹ ồn ào tràn ngập, giữa cái thế giới hãi hùng của Ice Cream, của Hot Dog, của cá voi cá mập diễn trò tươi vui lành mạnh, đi mỏi cẳng mà không tìm ra một quầy rượu. Ra, gặp lại văn chương San Diego tới đón, họ cười rũ vì cái vẻ chán đời thiểu não của tôi. Sau đó, cả ba ra biển hóng gió. Tôi không nhớ đích xác chỗ đứng là chỗ nào. Chỉ nhớ một mặt phẳng, thật cao, dựng đứng, chót vót, như một bức thành, với trước mặt là Thái Bình Dương mênh mông và sau lưng, vịnh San Diego đẹp kỳ ảo dưới mặt trời sắp lặn.

Bên cạnh chỗ chúng tôi đúng là một trụ đá. Mặt đá khắc sâu một hàng chữ: “Thời tiết và khí hậu nơi đây tốt nhất trên trái đất này”. Thì ra chúng tôi đang đứng ở đúng nơi có thời tiết và khí hậu tốt nhất hoàn vũ. Bây giờ viết bài viết này và nhớ lại buổi chiều đứng trước cái trụ đá có hàng chữ khắc danh tiếng của San Diego hôm đó, với Lê Tất Điều đứng cạnh, trong tôi cũng là một ấn tượng về thời tiết, về khí hậu. Nơi Lê Tất Điều. Hợp lại hay chia rời ra, thì Kiều Phong, Lê Tất Điều cũng là ba mặt gió nắng của một khí hậu và thời tiết thật tốt lành của đất trời văn chương Việt Nam.

.