← Quay lại trang sách

Con ma học trò

Ma quỷ tìm đến gặp ông Cửu Hiền vào lúc đêm khuya, khi ông mất ngủ, ngồi dậy uống một tách trà. Trăng đã ngả hẳn về tây, chiếu màu ánh sáng nhợt nhạt qua khe cửa sổ khép hờ. Một ngọn gió lạnh từ đâu thổi lại rạt rào, lay chuyển chòm tre đầu ngõ, gởi đến nơi ông đang ngồi một mùi oi nồng sót lại từ chiều của lớp đất gò vừa bén một trận mưa dông ngắn ngủi. Ông Cửu nhăn mũi, tưởng nghe một mùi mồ hôi ẩm mốc trên một tấm áo quên giặt nhiều ngày.

Khi ông đứng lên, vặn nhỏ ngọn đèn định lại giường nằm, bỗng thoáng thấy một bóng người lướt nhẹ bên mình. Hơi nồng vẳng nhẹ rồi tan. Ông không kịp nhận rõ được tất cả sự ẩn hiện ấy, tưởng mình trong lúc mệt mỏi có những rối loạn tâm thần. Nhưng vừa sờ soạng bước lại gần giường, ông thấy bóng người lướt qua, cọ vào tay phải của ông rồi vượt tới trước, vòng lại, cọ vào tay trái. Ông Cửu quay hẳn ra sau, không thấy gì hết. Một hơi lạnh lẽo của chốn mồ hoang phảng phất mùi nồng ẩm mốc bây giờ như tràn lan cả gian phòng. Tự nhiên ông Cửu run rẩy, loạng choạng tiến lại phía giường. Ông muốn kêu lên, nhưng hai hàm răng tê cứng không mở ra được. Vừa ngã xuống chiếu, ông có cảm giác như thấy một cái bóng người đang nằm nhổm dậy nhìn ông, nham nhở nụ cười quái gở rồi khuôn mặt ấy lớn dần đến độ nhòe tan, biến vào bóng tối. Ông Cửu nằm yên, giương mắt thao láo trân trân nhìn lên nóc màn tưởng nghe trong đêm nhiều tiếng xôn xao từ đâu vẳng lại mỗi lúc một rõ. Trong những vang động mơ hồ như có tiếng cười, tiếng khóc, những tiếng rên rỉ oán hờn.

Qua đêm thứ hai, ông Cửu giật mình vào lúc nửa khuya, cảm thấy đau nhức như có ai đang trói chặt chân mình. Ông gượng ngồi dậy, ngơ ngác nhìn quanh không thấy một ai, nhưng khi nằm xuống nghe một bàn tay lạnh buốt đè nặng lên trán và ấn đầu ông xuống chiếu mỗi lúc một mạnh. Trong cơn vật vã đuối liệt, ông có cảm tưởng như bàn tay kia lần xuống cổ họng của ông và bóp thật mạnh, khiến ông giẫy giụa kêu lên một cách tuyệt vọng. Giữa lúc mê tỉnh chập chờn, mơ hồ ông nghe nhiều người nhốn nháo lùng chạy quanh nhà, những tiếng sàn sạt kéo lết ở trên mái ngói, những đồ chén bát loảng xoảng, rơi vỡ tứ tung do một bàn tay hung hăng phá phách.

Sự phá phách ấy mỗi đêm một tăng khiến ông Cửu Hiền như muốn điên loạn. Ông gầy rạc hẳn, đôi mắt hõm sâu, dáng đi lạc lõng như người mất trí. Mỗi lần xô nhẹ cánh cửa ông nghe tiếng rít căm hờn sau đấy, và lúc ngồi xuống, đứng lên, luôn luôn có một bóng người im lìm nhại theo điệu bộ của ông với một dáng điệu ủ rũ hoặc đang sôi sục giữa cơn thịnh nộ. Ông Cửu dần dần sợ mọi tiếng động, mọi bóng dáng người, kể cả hình bóng của ông.

Người phù thủy đầu tiên là ông Hộ Liệu, được mời đến xua ma quỷ, đã cúng ba đêm liên tiếp và giết hết ba con gà lấy huyết bôi vào cột nhà. Trong suốt thời gian thầy ê a đọc phù chú, ma quỷ dừng hẳn hoạt động. Nhưng khi thầy bước ra về, ngay đêm hôm ấy, những sự phá phách càng mạnh hơn lên. Ông Cửu tưởng chừng căn nhà như muốn sụp đổ và các gốc cột bắt đầu lung lay, nhảy múa liên hồi. Mùi hôi nồng ẩm lan đầy và một bàn tay sù sì, lạnh ngắt từ đâu xen vào tay áo, cổ áo của ông như muốn tìm đúng mạch sống để siết thật chặt. Ông Cửu mời thầy phù thủy thứ hai, ông Tư Ngãi, ở tận trên làng Đồng Thượng xa xôi. Thầy đến xem vết máu gà đã khô trên cột và các bùa ếm ở bốn góc nhà, cười khẩy nhiều lần ra vẻ hết sức khinh bỉ. Vợ chồng ông Cửu, đắn đo một lát, mới dám thưa lời:

- Chẳng hay phép cúng của ông Hộ Liệu không thiêng sao thầy?

Ông Tư Ngãi nhíu mắt, làm thinh giây lâu, rồi mới cất giọng khàn khàn trả lời:

- Trong chỗ đồng nghiệp với nhau, lẽ nào tôi lại đi nói anh ta dốt nát hay sao? Ông bà hiểu giùm, dù cho anh ta chẳng biết cóc khô gì hết, tôi cũng không nỡ chỉ trích.

Và ông làm thinh không chịu nói thêm gì nữa để khỏi mang tiếng nói xấu người bạn đồng nghiệp, sau khi đã cho vợ chồng khổ chủ hiểu rằng Hộ Liệu vừa rất dốt nát, vừa không hiểu biết cóc khô gì cả. Ông Tư Ngãi cho rửa sạch hết máu gà và truyền giết con chó mực lớn nhất của ông Cửu Hiền lấy huyết bôi vào chỗ ấy. Ông Cửu rất thương con chó khôn ngoan nhưng chỉ tiếc thầm trong ruột. Con chó mỗi đêm thường nằm đầu ngõ sủa vọng về nơi nghĩa địa xa xôi, canh chừng giấc ngủ của ông, và khi ma quỷ lục đục phá phách, nó thường chạy rảo quanh nhà tru lên từng hồi ghê rợn như muốn xua đuổi oan hồn quấy nhiễu nơi ăn chốn ở của ông. Máu của con mực bôi lên đỏ sẫm trên cột và ở chân tường. Ông Tư còn lấy chất máu vẽ bùa trên những miếng thiếc dựng ở nhiều nơi trong nhà, ông bắt lập đàn cúng tế hết sức công phu và không quên dặn mua hai lít rượu để phun vài ngụm vào các mền chiếu - trừ tà - còn lại bao nhiêu ông dùng lai rai đưa tiễn vào trong bao tử suốt mấy ngày liền.

Trong một tuần lễ có ông Tư Ngãi trong nhà, ma quỷ im hơi, lặng tiếng. Ông Tư lộ vẻ đắc thắng rõ rệt, ra vào, lên xuống một cách hiên ngang, không ngớt đòi rượu và đòi thức nhắm. Ông bảo:

- Ma quỷ là giống không bị đau ốm bao giờ cho nên chúng mạnh khỏe lắm. Nếu mình không nhậu, làm sao mà đối phó được?

Nhưng tối hôm ấy, ông Tư sửa soạn hành lý để sáng về sớm thì bỗng ma quỷ hiện lên. Ban đầu có tiếng loảng xoảng ở trên bàn thờ và đồ tam sự, ngũ sự nhào lăn xuống đất lổng chổng. Cả nhà Ông Cửu choàng tỉnh, hướng về ông Tư cầu cứu. Ông Tư vội vàng rút cái khăn ấn, hối hả thắp mấy cây hương gài lên mái tóc, đứng ở giữa nhà bắt quyết. Nhưng sự hiện diện của ông Tư Ngãi gần như không làm ma quỷ mảy may xúc động. Tiếng cười lạnh lẽo, tiếng rít khô khan vẫn cứ văng vẳng quanh nhà, tiếng kéo sàn sạt ở trên mái ngói vẫn còn tiếp diễn, tiếng khua lổn cổn, lạc cạc trong các kho lúa vẫn không chịu dừng, mỗi lần sự phá phách mỗi gia tăng cường độ. Người ta có cảm tưởng rằng ma quỷ có vẻ khinh thường các vị pháp sư rõ rệt, và sự đình chỉ hoạt động trong mấy thời gian vừa qua chỉ là giai đoạn nghỉ ngơi của chúng mà thôi.

Ông Tư Ngãi cuốn gói ra về như một chiến tướng bại trận. Sau đó, còn đôi vị pháp sư nổi danh khác lại được mời đến, nhưng không vị nào có thể đàn áp nổi giống ma quỷ lộng hành trong nhà ông Cửu.

Giữa lúc gần tuyệt vọng ấy, may thay, còn có một người.

Đó là một vị pháp sư du học nhiều năm ở tại nước ngoài, theo lời của thầy tự giới thiệu mình. Ông đã qua Xiêm, qua Miên, qua Lào, qua cả Ấn Độ nghiên cứu pháp thuật, làm như là mấy nước đó độc quyền về môn bắt ma, trừ quỷ và chỉ chuyên môn về một món ấy mà thôi. Để kỷ niệm những năm du học vất vả, ông lấy biệt hiệu là “Ba Da Ka Lu Tu Na”, một cái biệt hiệu mà khi nói lên người ta thấy sự ngân nga của Lào, của Xiêm, và của Ấn Độ. Nhưng muốn cho hợp thời hơn, ông Ba Da... còn để một bộ râu Tây - đúng hơn là râu Ăng lê - cốt để tăng thêm sự quan trọng của nghề nghiệp mình. Đối với bà Cửu thì vị pháp sư có râu hay không có râu cũng chẳng quan hệ gì lắm, bởi lẽ ma quỷ có thừa lông lá đầy mình, đâu có kiêng nể một đôi chòm lông bé nhỏ ở trên môi mép, nhưng với ông Cửu thì bộ râu ấy thật đáng kính trọng, cụ thể phải thêm rượu, thịt vào các bữa ăn. Ông Ba... - từ nay xin gọi vắn tắt như thế, miễn là vẫn giữ nguyên sự thành kính với người - ngay từ hôm đầu đã tỏ ra một bản lĩnh cao cường. Suốt đêm, ông ta không ngủ, thỉnh thoảng lâm râm khấn niệm như đang cầu khẩn một sức thiêng liêng độ trì, thỉnh thoảng lại nói lảm nhảm như đang trò chuyện với kẻ khuất mặt. Sáng ngày, với một dáng điệu ưu tư, ông bảo khổ chủ:

- Tôi đã gặp oan hồn rồi.

Ông Cửu giật mình, kêu lên:

- Gặp rồi? Gặp hồi nào?

Ông Ba chậm rãi trả lời:

- Hồi khuya.

- Nó là hạng nào?

Ông Ba nghiêm nghị:

- Là ma, là quỷ. Nhưng vốn tiền thân là một học trò.

Ông Cửu cau mặt:

- Tôi có quen biết với hạng học trò nào đâu? Nhưng sao ma quỷ học trò mà lại phá phách quá vậy?

Ông Ba quắc mắt:

- Cụ lầm... Trong các loài ma, loài quỷ xưa nay, chỉ có ma quỷ học trò là đáng sợ nhất. Hãy nghĩ mà xem, người ta ai cũng vì sự sinh kế ở đời mà hóa hiền lành nhu nhược, chỉ có một loại hạng người được sống lành lặn mà không bận tâm về chuyện áo cơm, do đó không hiểu cuộc đời, dễ thành nông nổi, là hạng học trò. Một khi họ hóa thành ma, thành quỷ, thì họ không biết kiêng sợ gì cả. Nhưng khốn, tên ma học trò phá phách ở đây lại là một học trò nghèo có mối nợ nần từ trước với cụ, cho nên xem y còn định báo oán lâu dài...

Ông Cửu làm thinh, vân vê bộ râu, lục lọi ở dĩ vãng cố tìm bóng dáng một người học trò. Hai người cùng ngồi đối diện rất lâu, không ai mở miệng nói một lời nào. Ở ngoài, gió thổi rạt rào qua các bờ tre, có tiếng chim kêu rất nhỏ mơ hồ như tiếng nhắc thầm vẳng lại từ một không gian xa vắng. Bỗng nhiên ông Cửu giật mình, tái mặt:

- Một học trò nghèo... tôi nhớ ra rồi.

Ông đưa bàn tay gầy guộc, lẩy bẩy vớ lấy bình rượu đặt trên tủ trà, rót vội vào chén khiến rượu tạt cả ra ngoài mặt chiếu. Ông đưa hai tay bưng chén rượu lên, không ngăn được sự xúc động và nốc một hơi cạn sạch.

Ông Ba chăm chú theo dõi khổ chủ, rồi bảo:

- Cụ không cần nói với tôi chuyện ấy làm gì. Tôi đã biết rồi...

Ông Cửu kêu lên:

- Biết rồi?... Hồn ma đã nói cho thầy biết rồi?...

Ông Ba gật đầu. Ông Cửu có vẻ lo lắng:

- Tôi không chắc gì ma đã nói thật...

- Chính vậy, ma cũng nói dối như thường. Trong nhiều năm trời tôi đã tiếp xúc ma quỷ, tôi thấy chúng có gần đủ tật xấu như người. Có lẽ chúng còn tệ hơn người nhiều. Nhưng cụ đừng lo, tôi biết phân tích lời thật lẽ dối, ma quỷ không lừa tôi được. Nỗi khổ mà hồi nhỏ cụ đã gây cho người học trò thật là quá sức lớn lao khiến y phải giã từ đời, bỏ cả tương lai hứa hẹn, bỏ cả tình yêu tươi đẹp, bỏ hết, bỏ hết. Ngày nay, y đã vượt được bao nhiêu trở ngại ở dưới cõi âm về đây đòi lại món nợ ngày xưa. Đó là một món nợ máu...

- Nó định làm gì?

- Đẩy cụ vào một cái chết thê thảm, cái chết lần mòn...

chết cả gia đình, dòng họ...

Ông Cửu lặng điếng giây lâu, mới nói:

- Không có cách gì trừ được nó sao?

- Nó không cần nghe ai nữa.

- Hay nhờ hồn ma các thầy dạy nó ngày xưa can thiệp?

Học trò chắc phải biết nghe lời thầy.

Ông Ba lắc đầu:

- Bây giờ, biết những ma thầy ở đâu mà tìm kiếm được? Tôi chắc mấy ông thầy dạy đều bị nhốt dưới địa ngục cả rồi... Vả lại... việc làm của nó là vì lẽ phải, không ai mà can thiệp được.

- Còn thầy đành chịu thua sao?

Ông Ba đáp gọn:

- Chịu thua. Nhưng nếu cụ chấp nhận cho điều kiện sau đây, tôi cũng thử liều một nước cuối cùng.

- Thầy hãy nói đi.

- Chia nửa gia tài...

- Trời ơi! Nửa phần gia tài?

- Thế là mất ít đó cụ... Không thì cụ sẽ mất hết, cả người lẫn của. Còn một điều kiện sau đây rất là cần thiết: cụ phải làm giấy nhường lại cho tôi tất cả gia tài càng sớm càng hay, nhưng để khỏi điều ngờ vực cụ cứ giữ mảnh giấy đó. Chừng nào xong việc, sẽ giao cho tôi cũng được. Xin cụ đừng tưởng là tôi tham lam. Tôi quyết cùng ma giao đấu một phen sống mái, nếu tôi không hưởng gia tài của cụ thì ma sẽ không đời nào tranh chấp với tôi... Đã dọ thử ý nó rồi...

- Dọ như thế nào?

- Tôi tỏ lòng muốn đấu phép với nó, nó cười bảo rằng: “Tôi có can dự gì đến ông đâu mà bày ra sự xung đột cho thêm rắc rối. Tôi chỉ thèm cái mạng sống của thằng...”

- Của tôi...?

- Của cụ, chính thế.

Ông Cửu suy nghĩ suốt ngày hôm đó, không biết quyết định ra sao. Đến chiều, thấy bóng đêm đã đem màu đen tối nhá nhem phủ lên vạn vật và nghe gió lạnh từ xa thổi về rạt rào qua các chòm tre trước ngõ như lời than oán căm hờn, ông bỗng nhận rõ tất cả ý nghĩa quái gở của sự giàu sang mà ông không ngừng chạy đuổi gần trọn cuộc đời. Ông rút mảnh giấy, trịnh trọng mời vị pháp sư lại gần, chính thức chia đôi cho ông “Ba Da Ka Lu Tu Na” tất cả những gì ông có, tất nhiên không kể đứa con và người vợ già.

Ngay đêm hôm ấy, ông Ba tổ chức giao đấu để quyết diệt loài ma quỷ.

Ông bảo mọi người ngủ sớm và đem nhiều đạo bùa linh chôn bốn góc nhà. Ông đã cho tìm mỡ chó đổ vào bảy chiếc đĩa đất làm đèn, đặt sẵn quanh nhà, cắt đặt một số gia nhân đợi hễ khi nào nghe ông hô xướng thì phải nhất tề đốt lên cho sáng. Ngoài ra, ông còn đem một bình nhỏ đựng chất bột xám bốc mùi hăng hắc rưới nhẹ thành một lối đi ra vườn và còn vẽ nhiều hình thù kỳ dị trên khắp mặt đất.

Gia đình ông Cửu tuy đi ngủ sớm nhưng không ai nhắm được mắt. Nửa đêm, họ nghe một tiếng cười dài rất đỗi lạnh lùng vẳng lên ở trên nóc nhà và một tiếng rít rùng rợn tiếp theo. Một lát, nghe tiếng huỳnh huỵch trên đất, tiếng thở hào hển, tiếng xô, tiếng đẩy phát ra từ sự giằng co quyết liệt. Những tiếng động ấy kéo dài không biết bao lâu, cuối cùng chỉ còn những tiếng thở gấp và giọng rên rỉ vẳng lại mỗi lúc mỗi yếu rồi tắt lịm hẳn. Gia nhân ông Cửu đợi hoài không nghe tiếng hiệu thắp đèn, nên cứ đợi mãi và ngủ gục trên mấy chiếc đĩa đất lúc nào không hay. Vợ chồng khổ chủ yên trí pháp sư toàn thắng, nhiều lần định ngồi hẳn dậy coi thử cớ sự ra sao nhưng không có lệnh ông Ba đành phải nằm chặt trên giường. Mờ sáng, họ thấy ông Ba nằm yên trên đất như một đống thịt mềm dẻo. Lay mãi ông mới dần dần tỉnh dậy, cố gắng đứng lên rồi lại té xuống. Người nhà khiêng ông lên giường thấy mình mẩy ông tím bầm, hai bên khóe môi tứa máu đông thành hai vệt đen sì. Đến trưa, ông Ba mới ngồi dậy được. Ông phều phào nói:

- Nếu tôi không đem tất cả các món bí truyền đối phó thì hóa kiếp rồi. Gớm thật! Tên này bản lĩnh cao cường tột bực. Tôi đã chơi thử ma Ấn, ma Xiêm, đủ loại đủ cỡ mà chưa gặp một hạng nào đánh hiểm thế này.

Ông Cửu lo lắng:

- Thế lỡ tối nay nó đến thì sao?

Ông Ba trả lời mệt nhọc:

- Thì chết... Nhưng nó có bảo tôi trả gia tài cho ông và rời gấp khỏi nhà này. Tôi xin triển hạn năm ngày cho lại sức đã.

- Nó bằng lòng không?

- Tên này vốn có ăn học nên đối xử khá. Nó đã bằng lòng. Từ đây đến năm hôm nữa, tôi chắc nó không có mặt nơi đây.

- Bây giờ phải liệu thế nào?

- Để tôi nghỉ khỏe vài hôm rồi lo liệu cách đối phó.

Ông Ba nằm vật ra giường mà thở hổn hển. Suốt hai ngày liền ông chỉ uống sữa, đôi mắt nhắm nghiền, thỉnh thoảng trằn trọc qua lại có vẻ mệt nhọc. Đến ngày thứ ba ông mới tỉnh hẳn, đứng lên đi lại trong nhà. Ông mở tráp, lấy một lá bùa hộ mạng đeo cổ, rồi cầm chiếc gậy phòng thân chào hai vợ chồng ông Cửu:

- Tôi đã nghĩ kỹ lắm rồi, chỉ có ma quỷ mới loại trừ được ma quỷ. Tôi đi trễ lắm độ chừng hai ngày là tôi trở về, ông bà đừng ngại. Tôi sẽ tìm một đối thủ của nó, và gây một trận thư hùng để tiêu diệt nó mới xong.

Đúng hai ngày, ông Ba chống gậy trở về. Ông nói:

- Đáng lẽ tôi còn ở lại thêm vài ngày nữa nhưng sợ ông bà chờ đợi.

Ông Cửu vội hỏi:

- Có kế gì chưa?

- Có rồi. Tên học trò này mới chỉ thuộc về loại ma vừa lên hạng quỷ, nhưng chưa thật sự là quỷ thâm niên. Tôi đã dò khắp các nơi hiểm hóc may mắn gặp được một loài ác quỷ, một thứ đại tinh hiện đang phá phách gia đình ông Hương Lý Bỉnh trên xã Tứ Hải. Đáng lẽ tôi phải thử sức với nó một phen nhưng tôi chưa được mạnh lắm, và phải ở thêm lại một đêm nữa, e nỗi ông bà sốt ruột ở nhà.

- Bây giờ phải làm thế nào?

- Tôi đã có cách.

Suốt ngày hôm sau, ông Ba bố trí một cái võ đài đặc biệt ở phía sau vườn. Ông ếm thật kỹ các ngõ sau nhà, sai đốt mỡ chó bốn góc và bôi huyết trâu vào các chân cột. Ông dùng hình nhân trấn đóng quanh vườn và trên chóp nóc ngôi nhà năm gian lợp ngói của ông Cửu Hiền, ông cho hai vị thiên sứ - thắt bằng lụa điều cầm hai thanh kiếm - trấn giữ. Trên mặt đất, trên nền tường đều có vẽ hình bát quái trận đồ, chằng chịt mê lộ, u cung để cho hồn ma, vía quỷ không biết lối nào mà đặt chân tới. Cuối cùng, ở ngay trong góc võ đài ông dựng hai cái hình nhân phỏng đúng theo hình của ông và ông Cửu Hiền. Ông bảo ông Cửu:

- Tôi đã ghi dấu của tên đại tinh đại yêu tác quái trên nhà ông Hương Lý Bỉnh, rồi đem dấu của ma quỷ ở đây xáo trộn trên ấy, cốt gây một sự khiêu khích và dùng ám hiệu dẫn nó xuống đây. Đêm nay thế nào cũng có một trận quyết liệt.

Cả nhà hồi hộp chờ đợi như mong một sự giải thoát cuối cùng. Chuyến này không được thành công thì cầm bằng như chịu chết. Đợi cho bóng tối tràn đầy khu vườn, ông Ba một mình ra ngồi trong một bụi rậm sau khi cẩn thận gài kỹ bên mình gần mười đạo bùa. Gia đình ông Cửu nằm yên thao thức, lo âu, lắng nghe tiếng động âm thầm quanh nhà và cứ hình dung ra những hoạt động quái đản của giống yêu ma.

Nửa khuya, vẫn không có động tĩnh gì. Đang nằm trằn trọc, ông Cửu bỗng nghe ông Ba gõ cửa gấp rút. Lập tức ông choàng dậy liền, mở cửa, ông Ba hấp tấp chạy vào. Ông Ba không giấu được sự vui mừng cố đè nén lại:

- Trời ơi!

- Sao đó? Sao đó? Sao đó?

- Chúng gặp nhau rồi.

- Đánh nhau dữ chưa?

- Chẳng đánh khỉ khô gì hết.

- Úy cha mẹ ơi! Làm sao mình sống cho nổi?

- Đừng lo. Ai ngờ con tinh ở trên Tứ Hải là con quỷ cái...

- Chết cha! Quỷ cái thế thì dữ lắm?

- Nhưng con quỷ này trước kia vốn là người yêu của thằng học trò phá phách nhà ông. Hai đứa lấy không được nhau nên cùng nhau chết, bây giờ gặp nhau tình cờ chúng mừng rú lên ôm quấn lấy nhau như sợi dây neo. Ban đầu, tôi tưởng chúng sẽ một còn một mất ai ngờ sau đó thấy cả hai đứa ra ngồi ở góc võ đài tỉ tê tâm sự, tôi mới ngã ngửa.

Ông Cửu lo lắng:

- Nguy lắm, rồi chúng hiệp sức hại mình, làm sao đối phó cho đặng?

Ông Ba cười xòa trong bóng tối dày, vỗ vai ông Cửu:

- Đừng lo! Tôi đã bảo ông bọn ma quỷ này thuộc loại học trò, vốn quen mơ mộng, bây giờ đã sụp trong hố ái tình thì chúng chết nghẹt trong đó chứ còn phá phách gì nữa! Rồi xem, chúng còn nỉ non tâm sự, chúng còn hò hẹn gặp gỡ, rồi nhớ rồi thương, rồi sầu rồi mộng, thế là sinh con đẻ cháu, lo mệt một đời chứ còn hung hăng sao nổi?

Rồi ông nói tiếp, bằng một giọng trầm:

- Ông chẳng thấy sao, xưa nay muốn đẩy cho một xã hội sớm đi vào chỗ suy thoái thì cách tốt nhất là làm cho đám thanh niên tê liệt, mê muội dần đi bằng lối cổ võ, gieo rắc ái tình liên tục, qua những tiếng nhạc, lời ca, qua các sách báo và bằng mọi thứ gợi cảm có thể tạo được. Dìm chúng xuống dưới bể tình thì chúng chết chìm, chết nghẹt hết thôi.

Nói xong, ông Ba yên lặng dắt tay ông Cửu rón rén cùng ra sau vườn. Ông Ba dán lên trán ông Cửu một đạo bùa và cả hai ông cùng vào trong một bụi cây ngồi nhìn hai con ma trẻ đang quấn vào nhau không chịu buông rời.

Một lát, ông Ba dắt tay ông Cửu rón rén trở vào.

Ông nói:

- Để yên cho chúng yêu nhau, chúng sẽ quên hết sự đời. Tôi cam đoan mười ăn một với ông là chúng ngồi đây cho đến gà gáy mới đi, và cho đến già chúng không phá phách gì nữa.

Ông Ba nói chẳng sai lời. Ba tháng đã qua không còn thấy bóng ma quỷ gì nữa. Một năm sau đó, nhà ông Cửu Hiền vẫn được yên ổn như thường. Ông Cửu vui lòng chia đôi gia sản và ông “Ba Da Ka Lu Tu Na” hể hả nhận lấy món tiền khổng lồ, sau khi không ngớt ca ngợi tình yêu là thứ quyền lực có đủ khả năng vật ngã mọi loài ma quỷ và khiến người ta quên hết mọi sự quan trọng trên đời.

1971