Miếng thịt vịt
Tám Gàu cố ngủ nhưng vẫn không sao ngủ được. Trống ngực còn đập thình thình, hai vai ê mỏi, cặp chân bủn rủn, rụng rời. Anh thấy lại mình đang đi trong đêm, cặp mắt lấc láo, lò mò bước theo anh em Năm Đực. Anh nghe lại tiếng vịt kêu, tiếng dao mác chạm loảng xoảng, tiếng thét “Ối trời” của thằng Đực Nhỏ, thấy lại máu phụt từng vòi, bóng thằng Đực Lớn luồn rào chạy trốn, và anh cõng thằng Đực Nhỏ bươn chạy, lội bừa trong gai lưỡi long, nhiều lần quýnh chân muốn ngã sấp trên bờ thổ.
Anh ôn lại phút trở về tới ngõ thằng Đực... anh té quỵ xuống, Đực Nhỏ rời khỏi lưng anh, ngã lăn ra đất, rên rỉ, quằn quại, hai chân giẫy giụa trong cát. Giữa lúc ấy, bóng thằng Đực Lớn từ đâu hiện ra miệng cười nham nhở trong đêm: “Tưởng mi bị nắm đầu rồi”, và hắn chìa một con vịt: “Phần của mi đó”. Tám Gàu khoa tay: “Tao không lấy mô” rồi anh lết bết, lùi lũi chạy về.
Anh ngồi rất lâu ngoài ngõ trước khi mò vào chiếc giường tre ọp ẹp này. Anh vừa nghĩ gì, anh không nhớ nữa... Hình như từ nhà Cửu Thưởng, nơi anh nghe theo lời hai anh em thằng Đực mò vào trộm vịt, có tiếng kêu lên: “Thằng Gàu! Đích thị thằng Gàu!” Anh chạy bở cả hơi tai, được một quãng xa mà hình như những tiếng ấy còn vọng đuổi theo.
Bỗng anh cảm thấy rin rít sau lưng. Khi anh cựa mình, một chất nhầy nhụa như quánh lại trong lớp áo... Lập tức anh ngồi thẳng dậy. Cởi xong chiếc áo, anh quờ tay vuốt sau lưng. Bàn tay xoè trong đêm tối như nhuộm mực đen. Anh đưa gần mũi, một mùi tanh ói.
Tám Gàu loạng choạng đi lần ra bờ ao ở góc vườn. Anh ngồi vò áo rất lâu, hai tay mỏi rụng. Khi đoán chừng đã sạch rồi, anh đưa lên ngửi, nhưng mùi tanh vẫn còn hoài. Sau cùng anh thả chiếc áo xuống nước, chậm chạp vào nhà.
Anh ngồi bệt xuống vệ hè, dựa vào gốc cột, ý nghĩ loạn xạ ở trong đầu óc. Thằng Đực Nhỏ chắc không sao sống nổi, hoặc sẽ tàn tật suốt đời. Làng ngoài, ai cũng sẽ biết Tám Gàu là thằng ăn trộm.
Tám Gàu biết điều là vậy, chăm chỉ là vậy mà ăn trộm sao? Rồi bao nhiêu vụ mất cắp từ trước và về sau này người ta cũng sẽ đổ riệt cho anh. Đến mỗi bữa ăn, ông Cấn sẽ vác chổi cùn đánh vào đầu anh, vừa réo vừa chửi mẹ anh đã đẻ cho ông thằng con chết dịch. Mẹ anh, người mẹ hiền lành, qua đời trước đây vài năm chỉ vì đang đau mà phải dầm mình trong nước suốt mấy buổi liền để vớt rong rêu... Dạo này nắng gắt, làm ăn gì được? Đồng khô cỏ cháy, những nhà giàu cũng gác bớt công việc, không dám thuê mướn. Muối cũng không còn bán để mua đem lên nguồn đổi lấy sắn, khoai. Mấy chiếc ghe buôn đi vào miền trong mắc kẹt đâu đó, không thấy trở về. Những người trong xóm dậy từ mờ sáng xuống bến chực đến trưa hoang mới về, đòn gánh tòn ten hai chiếc mủng không. Anh đã nằm khoèo mấy hôm nay rồi. Cả ngày ngủ miết cho đến xế chiều mới dậy, lục lọi trong rá vài củ khoai nguội ăn ngốn ăn ngấu rồi nốc ba ngụm nước lạnh, ngủ lại. Ngủ cho khỏi thấy thèm ăn. Nhưng ngủ mãi rồi cũng chán, không ngủ được nữa. Anh trỗi dậy đi thất thơ thất thưởng trong xóm. Ai xui anh bước vào nhà thằng Đực vào lúc đầu hôm?
Từ chân trời xa, phía đông, rừng rựng một vệt sáng trắng. Tám Gàu chống hai tay vào đầu gối, đứng dậy đi lần vào nhà. Anh đứng rất lâu, trong tối, lờ mờ nhìn cái thân hình ông già Cấn nằm chèo queo, ngủ giấc nặng nề trên căn ván bằng gỗ tạp trải manh chiếu nát. Gần bên, anh Hai Cấn nằm chàng hảng, tiếng ngáy khò khè. Tám Gàu đi lại tấm phên, sờ soạng tìm một chiếc áo, mặc vào rồi bước xuống bếp. Chị Ba Lèo nằm ngủ yên trên một chiếc chõng cụt chân, đặt sát mặt đất. Thằng Cời, con chị, lăn xa ngoài đất. Anh cúi xuống lay chân chị:
- Nề, chị Ba nề...
Chị Ba ứ hự đôi tiếng, rồi rặn ì ì... Chị nói lảm nhảm, chép miệng trong giấc mệt mề. Tám Gàu thôi không kêu nữa. Anh lắc mạnh vào vai chị. Chị Ba tỉnh giấc, lớ mớ:
- Ai đó?
Tám Gàu đáp khẽ:
- Chị dậy, tôi nói cái này...
Người đàn bà nằm im một lát mới từ từ trỗi dậy, ngả đầu lắc qua lắc lại cho mớ tóc rối dồn ra sau vai, vừa ngáp vừa nói:
- Trời đã sáng đâu...
Chị lại làm thinh, nhìn em đang ngồi một cục trước mặt.
Giây lâu, Tám Gàu từ từ đứng dậy. Anh nói:
- Tôi đi.
- Đi đâu?
- Chưa biết đi đâu. Không thể ở nhà được nữa thì đi.
Chị Ba tưởng mình nghe lầm, trố cặp mắt đã tỉnh ngủ, nhìn chằm chặp mặt người em nhập nhèm trong tối chỉ trừ cặp mắt long lanh. Tám Gàu rầu rầu nói tiếp:
- Thôi, tôi đi. Chị ở nhà được bình yên.
Chị Ba gần như kêu lên:
- Chớ không nói cho cha ổng biết na?
Tám Gàu thấp giọng:
- Nói làm chi. Để yên ổng ngủ. Thôi, tôi đi đây kẻo trời sáng ra, không tiện. Chưa biết chừng nào tôi mới về được.
Anh lụi thụi bước ra cửa. Anh ngước mắt nhìn quanh quất, như ghi lại lần cuối cùng cảnh quê xơ xác tiêu điều rồi lầm lũi bước. Vết sáng rừng rựng ở chân trời xa như theo chân anh lan rộng dần ra nhưng anh cảm thấy những ngày sắp đến cũng sẽ mập mờ, đen tối như đầu óc anh bây giờ.
Khi chị Ba Lèo chạy theo ra ngõ thì Tám Gàu đã đi xa. “Có lẽ hắn đã lội suối và đổ lên đồng”, chị nghĩ như thế, rồi bước vào nhà.
Chị không hiểu rõ tại sao mình không ngăn cản Tám Gàu đi vong như vậy. Tám Gàu đi đâu? Chính anh ta cũng không biết. Tám Gàu ra đi, trong túi không có một đồng xu nhỏ, trên người chỉ mặc một cái quần cụt và một áo cánh cũ nát. Chị ngồi thừ nhìn thằng Cời nằm lăn ngoài đất. Chị không bồng nó lên giường, sợ nó tỉnh giấc, khuấy rộn tâm trí chị trong lúc này. Thằng Cời dầu sao cũng là mối an ủi lớn cho chị. Năm nay chị đã ba mươi mấy tuổi, có lẽ gần bốn mươi rồi, chị không nhớ nữa. Đàn bà Xóm Cát ít ai nhớ rõ tuổi mình. Tám Gàu ra đi, một nỗi vắng vẻ hiện ra, khiến chị nghĩ lại đời mình. Từ khi lớn lên cho đến bây giờ, chưa có người đàn ông nào hỏi chị làm vợ. Thỉnh thoảng trong số thợ gặt, giữa lúc chị đang lọ mọ theo sau để mót mấy bông lúa rớt, cũng có đôi lời đùa cợt sỗ sàng... Nhưng đã xa lắm lắm rồi... chị chưa bao giờ được nghe một lời tình tứ. Những lời tình tứ cũng như xuyến vàng, nhẫn ngọc là thứ quý giá chỉ những con nhà thong thả mới có. Tuy vậy, chị vẫn mong mỏi được gặp một người đàn ông cần cù, siêng năng, dù rằng thô lỗ nhưng thỉnh thoảng biết dịu ngọt với vợ. Mỗi ngày giữ bò ven suối, chị vẫn mong đợi người đàn ông ấy. Nhưng không có người đàn ông nào chịu tìm đến người đàn bà xấu xí, tuổi đã bộn bề mà còn bận quần sát háng, da xám như chì, trên mình chỉ mặc độc chiếc yếm rách, lễnh thễnh cả ngày theo sau một con bò cái gầy còm.
Cuối cùng, vẫn có một người.
Người ấy, chị không bao giờ biết mặt.
Cách đây chín mười năm rồi, một đêm trăng sáng, chị đánh bò ra bãi sau cho ăn cỏ sương đặng sáng cày sớm. Suốt ngày làm việc mệt nhọc, nên dựa vào gốc dương liễu trên bờ một đám thổ khoai chốc lát thì chị nằm lăn ra ngủ. Không biết bao lâu, chị có cảm giác như bàn tay ai nắn khắp người mình. Chị làm ra bộ ngủ mê, ú ớ đôi tiếng, rồi nằm chài bài người ra. Một người đàn ông, có lẽ không to lớn lắm trong lúc vội vàng nhẫn tâm xé rách phía dưới cái quần cụt đen đã cũ của chị...
Người đàn ông ấy đem lại cho chị một đôi cảm giác là lạ, chua xót, khó nói làm sao, nhưng cũng ngắn ngủi, chóng tàn hết sức. Chị nhớ như mình có cảm thấy nỗi đau đớn nhưng chị không dám kêu lên, sợ người đàn ông càng mất bình tĩnh hơn nữa. Suốt trong giây phút gặp gỡ, chị không hé mắt để nhìn. Khi người kia đã đi rồi, chị mới úp tai xuống đất, nghe những tiếng chân bải hoải bước gấp rút đã khá xa, chị mới nhổm dậy nhìn theo. Một người nào chị không rõ, hấp tấp đi về lối xóm.
Hai ba đêm sau, rồi suốt cả con trăng ấy, suốt cả những đêm tối trời tiếp theo, rồi suốt cả hai ba con trăng nữa, chị vẫn ra ngồi ở nơi bờ thổ đêm nào. Người đàn ông kia không thấy trở lại. Nhiều lần chị cố nghĩ rằng đấy là một người lái buôn giàu có đi lạc vào trong động cát mà chút duyên nợ tình cờ đã xui gặp gỡ. Sau này, chị đoán chừng thằng Đực Lớn đi ăn trộm vặt về khuya. Đôi lúc chị có cảm giác như đấy là lão Chín Bường, một người bà con của chị, một gã đàn ông nghèo cực, đã bốn mươi mấy tuổi rồi vẫn sống một mình cuối xóm trong ngôi nhà tranh lụp xụp, nhỏ như chiếc chòi.
Ít tháng sau đó, bụng chị mỗi ngày một lớn. Chị không hề nghĩ đến sự phá thai, không nghĩ đến sự giấu diếm. Bà Cấn chửi đôi ba ngày rồi cũng làm thinh. Ông Cấn đòi đánh cho một cán cuốc bể óc chết tươi, nhưng vẫn không hề thấy đánh. Anh Hai Cấn, thằng Tám Gàu, không thấy nói gì. Trời ơi! Đứa con trong bụng, chị yêu quý nó biết là chừng nào! Đứa con, dù gái hay trai, là một cái gì quý nhất đời chị. Dù gái hay trai, nó là vật sống mang ở trong mình khí huyết và linh hồn chị. Nó sẽ lớn lên, sẽ là hình bóng của chị, là nguồn an ủi, là chỗ nương tựa cho chị sau này, trong lúc chiều tà xế bóng. Chị tìm luộc những ngọn khoai non nhất để ăn, hút vụng trứng gà sau chái, không dám gánh nặng, không dám thức khuya, toàn là công phu, ý tứ, để dưỡng chiếc thai. Bao nhiêu những lời xỉa xói, bóng gió, mỉa mai, giễu cợt của người lối xóm đối với chị nào có nghĩa gì đâu, khi chị khát khao có một đứa con!
Trong lúc sinh đẻ, quặn đau mấy lần, nhưng chị không hề cảm thấy khổ nhọc. Ngày thằng bé ra đời, chị mừng không sao kể xiết. Ông Cấn đặt cho nó tên Cời. Càng ngày thằng Cời càng lớn, chị nom nó giống Trưởng Liệu như đúc. May thay, Trưởng Liệu không có bà con với chị. Đó là một ông già goá vợ từ hồi còn trẻ, sống với một người cháu dâu tàn tật, giữa xóm. Nhưng nó giống ai cũng mặc, miễn là con chị, thuộc hẳn về chị, do chị cưu mang, sinh đẻ mà ra.
Sau khi thức dậy, nghe chị Ba Lèo ấp a ấp úng kể lại cái tin Tám Gàu bỏ nhà ra đi, ông Cấn đã toan rủa lên “Có mà đi ăn cướp!” nhưng ông dằn lòng lại được. Ông lúng búng định hỏi gì nữa, nhưng rồi nín thinh. Tám Gàu là đứa con út của ông, linh hoạt, mạnh bạo nhưng vốn hiền lành. Từ ngày nó lớn, ông vẫn hy vọng nó được cuộc đời lành lặn nhưng chưa lúc nào nó sống thư thả, thong dong, trừ những tháng ngày đói kém. Lúc này, ở nhà cũng chẳng làm gì. Cùng lắm, có ai thuê mướn cũng đủ phủi lủm. Thôi thì đi đâu thì đi, biết đâu nó chẳng làm ăn nên nổi sau này. Ông già cảm thấy cay nơi khoé mắt, buồn buồn tủi tủi trong lòng, rồi những cảm giác ấy tan nhoè đi như vệt khói thuốc.
Anh Hai Cấn cũng không nói gì. Anh nhớ lại bao lần anh đã muốn bỏ xứ ra đi, nhưng nghĩ rồi thương cha già, em dại, quyến luyến vạt thổ, mảnh vườn, anh lại nguôi ngoai. Biết đâu ra đi, bây giờ anh đã chẳng có vợ con, vui vẻ đề huề. Nhưng đấy là bao nhiêu chuyện ước ao của ngày xa xửa xa xưa... Năm nay bốn mươi mấy tuổi, anh vẫn sống đời cô độc, chưa dám nghĩ đến lấy vợ, vì sợ tốn kém. Vẫn biết gặp người vợ giỏi có thể giúp đỡ làm ăn nhiều đó, nhưng lấy gì mà sắm sửa cưới xin, ăn hỏi bây giờ? Sự đòi hỏi của cơ thể nhiều khi cũng giày vò anh, nhưng đè nén mãi nó thành cùi đi. Vả lại, thổ vườn mỗi ngày làm anh tê liệt rụng rời, đâu còn sức lực tơ tưởng như kẻ rảnh rang thong thả. Con heo đực luôn luôn kêu nái là vì nó vốn ăn không, ngồi rỗi trong chuồng.
Tám Gàu ra đi, anh Hai tuy thấy buồn nhớ, nhưng ở nơi lòng hình như có gì vơi nhẹ. Phải chăng từ đây một phần của anh cũng được dong ruổi ở nơi xứ lạ đường xa theo với Tám Gàu? Cái cảm giác ấy mơ hồ, mong manh quá đỗi, anh không làm sao mà nhận biết được.
Hai cha con ngồi đối diện ở thềm cửa, im lặng hồi lâu, mỗi người theo đuổi ý nghĩ của mình. Rồi chậm chạp, ông Cấn đứng dậy, ra sân. Ông toan ra vườn bỗng nhìn thấy những dấu chân trên cát còn tươi đi về phía ao. Ở miền đất cát, người ta nhận biết dấu chân cũng như nhận biết mặt người. Ông ra phía ấy. Vạt nước đỏ lợt chảy trên mặt ao, và ở dưới ao, cái áo vắt tròn. Ông già lụm thụm lội xuống, vớt lên. Ông đứng trên bờ nhìn kỹ dấu đỏ, rồi vắt áo cho ráo nước, cầm vào. Trong óc ông già thoáng hiện những nỗi hồ nghi, lo ngại.
Bỗng con chó mực gầy còm nằm ở đầu hè hực lên một tiếng. Ông Cấn ngước lên và thấy từ ngõ, Thủ Tự lững thững đi vào. Ông vội vào nhà bươi giấu chiếc áo ở trong bồ trấu, rồi làm vẻ mặt tỉnh khô, ngồi vấn một điếu thuốc lá. Thủ Tự đi tới đầu hè, dừng lại nhìn quanh nhìn quất khắp vườn theo như thói quen, rồi mới nện chân thình thịch cho sạch bớt cát trước khi chui xuống mái tranh mà vào trong nhà. Kể trong Xóm Cát, Thủ Tự là người khá giả hơn hết. Ba gian nhà tranh rộng lớn hơn tất cả nhà nào trong xóm. Cái sân cũng lớn nhất xóm, đắp bằng đất bàu, dện rất kỹ lưỡng. Thủ Tự có được bốn con bò cái, tuy rằng gầy còm nhưng cũng là bốn con bò. Bò cái tuy cày hơi yếu, nhưng vùng đất cát người ta chỉ cần sức cuốc. Nuôi bọn bò cái vì nó đái nhiều, tốt phân. Hai anh bò đực thiệt lớn, ráng sức đái dào một trận không bằng một chị bò cái xề xề đái rất lơ lửng. Bò cái lại còn dễ giữ, có thể giao cho con nít lên mấy cũng được. Món lợi khác nữa là bò cái còn sinh đẻ. Thỉnh thoảng đến mùa, thả nó lên đồng, thế nào nó cũng gặp gỡ đôi anh bò đực thả rông. Tuy là gầy còm, yếu đuối, nhưng được một điểm dễ dãi, không hề làm bộ nhảy quẹo, nhảy quanh nên có lắm anh bò già quyến luyến và cả những anh bò tơ nhút nhát cũng dám mon men lại gần.
Thủ Tự có khá nhiều con, cả trai lẫn gái đã trên mười lần sinh đẻ. Hai Sanh là con đầu lòng, có vợ và ba con, ở riêng trong một ngôi nhà trước ngõ để cả hai bên cùng gần gũi sự nhờ đỡ. Anh ta làm đủ thứ nghề lặt vặt, trong đó có nghề thiến heo, lái bò và sửa cối xay. Ba Kình được xem cứng đầu nhất nhà thì theo về bên quê vợ làng ngoài, dựa thế ông gia bà gia làm ăn. Sau Ba Kình là chị Tư Mãng, năm nay ba mươi mấy tuổi nhưng vẫn chưa chồng. Ông Trưởng Nhi ở cuối xóm, cách đây ba năm có mượn mai mối đến hỏi cho con trai ông, anh Hai Cồ, nhưng sau đó chừng mấy tháng, vào một buổi sớm mùa đông người ta gặp xác Hai Cồ trong một cái đìa gần suối. Hai Cồ chết trong nước cạn, chẳng biết vì sao. Chị Tư trở thành goá bụa sau khi chỉ ăn một cái lễ hỏi hết sức đạm bạc. Sau chị Tư Mãng là Sáu Cường, người con thứ năm bị bỏ từ khi sanh được ba tháng. Sáu Cường tiếp đến Bảy Đáng là hai anh trai linh lợi. Còn cả một bầy lút chút ở sau, nào là thằng Dứa, thằng Thời, thằng Tre, con Một...
Gia đình Thủ Tự gần như ai làm nấy ăn, ngoại trừ những đứa nhỏ. Đến bữa, ai nấu trước thì người khác gởi nấu nhờ đôi ba củ khoai, luộc nhờ đôi ba bó rau, có khi không hái kịp rau thì ăn xía một vài đũa. Chỉ trừ mẹ của Thủ Tự là bà Thủ Tộ, trên bảy mươi tuổi, ở riêng, ăn riêng trong một cái chái phía ngoài. Cái chái hẹp ché, chỉ vừa đủ kê một cái giường con thấp cẳng và đủ đặt ba ông táo lùn tịt, nặn bằng đất bàu. Bà già khúm rụm nhưng sống không nhờ vả ai. Suốt ngày bà lò mò trong các thổ khoai, là rà dọc các bờ đìa, lụm thụm sau vườn và lui cui trong cái chái hẹp. Bà ăn không tốn mấy chút và chỉ một om khoai nhỏ bà để dành ăn hai ba ngày liền khỏi phải tốn công nấu nướng. Những củ khoai cuối cùng ở trong om bao giờ cũng đóng lớp nhựa nhờn nhợt và bốc nặng mùi thiu ẩm, nhưng không mấy khi bà Thủ bỏ phí của trời. Thỉnh thoảng, Hai Sanh có tát được cá, luộc một đĩa với dưa cải, sai lũ con mang vào cho bà cố thì dọc đường từ ngõ vào sân, thằng Chai và con Miễng đã bốc lủm hết những con trộng nhất.
Thủ Tự liếc nhìn trong nhà, rồi hỏi:
- Ủa! Chớ thằng Tám đâu rồi?
Ông Cấn liếc nhìn trên mặt Thủ Tự dò đoán ý nghĩa câu hỏi, trả lời:
- Không rõ hắn đi đâu từ tửng mưng sáng... Có việc chi na?
Thủ Tự thong thả:
- À... Thằng Đực Lớn có ra nhờ bầy trẻ tôi giúp một đòn khiêng thằng Nhỏ lên táng trên đồng.
Anh Hai Cấn vội hỏi:
- Chớ thằng Đực Nhỏ chết hồi nào rứa?
- Đâu hồi khuya. Chẳng là bầy trẻ của tui nó mắc đi xuống dưới bến chực muối từ hồi gà mới gáy tan, nên thằng Đực Lớn nhờ ra nói với thằng Tám, không thì anh Hai...
- Lạ hỉ? Thì đang mạnh ù mà nhè chết răng vội rứa?
Thủ Tự làm thinh, lấy thuốc vấn hút. Rồi nói:
- Mình nghe nói chết thì hay rằng chết, chớ biết chi mô. Kể rứa cũng khỏe. Biểu sống, lấy chi ăn chừ.
Ông ta đứng dậy:
- Có siêng vô giúp hắn ta một tay!
Ông Cấn thấy thoáng một ý nghi hoặc. Không những bà con với thằng Đực Lớn mà còn là người gánh chịu trách nhiệm công việc của xóm, Thủ Tự phải lo là việc đương nhiên. Có lẽ ông ta sợ bị liên lụy, không muốn cho con dính líu đến cái chết này nên mới ra gọi con ông. Ông liếc sang nhìn anh Hai. Anh Hai thản nhiên đi theo Thủ Tự ra ngõ. Ông Cấn lẩm bẩm: “Hôm nay cũng chẳng làm chi. Nó kiếm một bữa ăn sáng, một bữa ăn trưa cũng được”.
Xác thằng Đực Nhỏ được bó trong ba bốn manh chiếu cũ, ở ngoài nẹp chặt sáu bảy thanh tre, buộc ba dây lạt - dây trên đầu, dây giữa người, dây dưới chân - và được đặt trên một tấm cửa tre đã cũ. Công việc gói ghém ấy làm đâu từ hồi khuya, nên khi mấy người đi tới thì bọn kiến vàng đã bu dày đặc trên mấy kẽ chiếu.
Thủ Tự giục giã:
- Không còn có ai nữa hả? Bôn đi mà táng cho rồi chứ ở trên đồng lúc này đào ra cái huyệt cũng bở hơi tai.
Đực Lớn, sắc mặt ráo hoảnh, nhưng cũng lấy giọng rầu rầu trả lời:
- Dạ, có nhờ Hương Đại. Chắc cũng sắp qua bây chừ. Phải chi có người nhờ khoét lỗ trước thì cũng đỡ nhọc cho những người khiêng, nhưng ngặt ai cũng đi theo muối hết.
Anh ta ngừng lại, đổi giọng nói lớn:
- Tôi có biểu mụ Đực ở nhà làm thịt con vịt nấu cháo... Có trễ cách chi mình về cũng cứ kịp trưa.
Anh Hai Cấn nghe tiếng “thịt vịt” rất rõ nhưng vẫn tưởng mình nghe lầm, liếc nhìn trên mặt Đực Lớn rồi ngó xéo xuống dưới nhà. Mụ vợ Đực Lớn quả đang lui cui dưới bếp. Có tiếng dao chặt rầm rập trên thớt. Bây giờ thấy người kéo đến, chị bèn đem ra bằm lại, chứ thực chị đã lo làm từ sớm tửng mưng. Phải bằm nát vụn xương ra, khuấy vào trong cháo, để không còn ai phân biệt thịt cánh, thịt cẳng hay là thịt đầu, bởi vì hai cái phần mình con vịt và hai chiếc đùi đã được chị cất một nơi rất kỹ. Chị cũng không quên lấy cái đòn kê gỗ bứa để bằm thực mạnh. Gỗ bứa mềm hơn xương vịt. Vì thế, chỉ có nhúm xương mà bằm một lát đã thấy bộn bề.
Hương Đại vừa vào, nghe tiếng chặt thớt, vội cười xề xề... Anh ta cúi nhìn cái xác gói chiếu, bông đùa:
- Nhiều thiệt. Đã có cả đống mà cũng cứ còn để bằm...
Thấy không một ai hưởng ứng, Hương Đại rút điếu thuốc tàn giắt trên mép tai, xuống bếp. Anh ngồi thắp thuốc bì bập, vừa liếc nhìn người đàn bà, hỏi khẽ:
- Vịt đâu rứa?
- Mua.
- Xì! Mua cái ngữ quỷ! Nói thiệt, ăn cái thịt vịt của bà cho thêm mang họa mà cũng là nuốt ba cái xương không.
Anh liếc rất nhanh lên nhà rồi véo dưới lưng chị ta, vừa cười ỡm ờ:
- Có phải không hề!
Người đàn bà làm bộ giận, hươi con dao lên:
- Đồ chết dịch! Tui cho một dao bây chừ!
- Ừ, bằm luôn tui mà ăn nề!
Anh đứng dậy, xê cái đít lại phía chị ra tuồng thách đố, cúi véo thấp hơn ở chỗ ban nãy một cái đích đáng, rồi vừa đi lên, vừa nói ra kiểu phân trần:
- Ba cái thuốc này vô món phân gà mà dở lửa quá, hút cứ tắt miết.
Rồi đứng dừng lại, bập bập rất mạnh, nhả khói từng luồng.
Trước khi khiêng đi, Đực Lớn còn lấy thêm hai sợi lạt buộc bó chiếu vào tấm cửa. Anh Hai Cấn lúi húi cột giúp. Hương Đại đứng chống nạnh, cố nói một câu để bào chữa sự ở không của mình:
- Còn chạy đi đâu mà ràng mà rịt cho nhiều. Bó chặt cách ấy, bữa sau cũng đách cần cúng giỗ nữa. Xuống được dưới đất thì nằm liệt luôn dưới đó chứ có về cái ngữ quỷ!
Ràng rịt xong, mặt trời lên đã khá cao. Đực Lớn rút ít vạt giường đã cũ, chặt đôi, bó lại làm đuốc lấy lệ. Đoạn, quay xuống nhà nói lớn:
- Lo cháo vịt nghe! Nửa buổi là về kịp đó!
Rồi quay về phía hai người - Hương Đại và Hai Cấn - anh ta dọn một bộ mặt rầu rĩ:
- Đáng lẽ tôi cũng khiêng một đòn với mấy anh, để đưa em nó lên đồng, nhưng ngặt tôi đi gánh bổi hôm qua cho lão Năm Dật, bị trẹo xương vai... Kể thằng Đực nó cũng nhẹ...
Anh xây qua phía Thủ Tự:
- Cậu Thủ nằm chơi, chúng tôi về liền chừ đó.
Thủ Tự không nói không rằng, nằm khểnh trên chiếc giường tre, Đực Lớn giục giã:
- Thôi, đi ta!
Rồi vác hai chiếc cuốc, hươi đuốc dưới nắng, đi trước.
Hai người khiêng tùng tơn bó chiếu theo sau.
Anh Hai Cấn vừa đi vừa nghĩ đến nồi cháo vịt, cố tìm một sự liên lạc giữa vịt và cái xác chết. Hương Đại vừa đi vừa nghĩ đến mụ Đực Lớn, vừa nghĩ đến mớ xương bằm nát vụn. Hai hình ảnh ấy lởn vởn trong óc, cái nào cũng gợi cho anh nỗi vui ngờ ngợ. Hương Đại là láng giềng của Đực Lớn. Anh ta không có bà con với ai ở xóm này cả. Vào số những người nghèo khổ nhất xóm, Hương Đại có một lối sống hơi khác mọi người. Anh ta chưa hề làm lý hương gì, nhưng vốn tên Đại, anh đặt tên đứa con gái đầu lòng là Hương để mọi người trong xóm theo lối gọi quen cha mẹ bằng tên của con, gọi anh là anh Hương. Dần dần để phân biệt với những người trùng tên, người ta gọi thêm tiếng Đại. Từ đấy cái tên Hương Đại được gọi quen đi, nhiều lúc Hương Đại cũng có cảm giác như mình đã từng có thuở làm lý hương thiệt. Không ai biết rõ tường tận trước khi đến ở xóm này anh đã làm gì, nhưng theo anh nói thì từng đi lính và biết tiếng Tây! Chỉ có khi nào nài nỉ nhiều lắm anh mới nói thử đôi câu để những đàn bà con gái trong xóm nghe qua cho biết cái tiếng nước ngoài. Thực ra, quốc ngữ trong xóm cũng không ai biết, nữa là tiếng Tây! Chữ nho thì Thủ Tự nhờ thuở nhỏ cha mẹ gởi lên giữ trâu cho ông nghè Vỹ trên làng để mong kiếm năm ba chữ, nên cũng biết được một nắm, một mớ, nhưng đã lâu ngày rơi rụng chỉ còn đủ để thủ ký trong các văn khế vay nợ. Bởi vậy Hương Đại tự do nói tiếng ngoại quốc, không sợ một ai. Mỗi lần như thế anh đứng chàng hảng, hai tay chống nạnh, mặt vách ngược lên, môi hơi xẹo lại một bên, rồi anh bắt đầu “bà lù xù, bà lùy xùy” cả tua, sùi cả bọt mồm bọt miếng trên mặt những người chung quanh. Đàn bà con gái thảy cười rúc ra rúc rích, lấy tay che bụm mặt lại, nhưng vẫn hé dòm qua những kẽ tay để hở. Còn bọn trai trẻ thì cười hả hả, hươi chân, múa tay hết sức thích chí. Một điều đáng kể là không một ai phục Hương Đại cả. Ở Xóm Cát này, trên cái cảnh sống nghèo nàn, trơ trụi do những con người gom góp từ đâu giạt đến, ít ai thực lòng tin một điều gì, ngoại trừ rau muối, lúa khoai.
Cứ xong một trận phát thanh như thế, Hương Đại đứng thở hào hển, tưởng như ngút hơi. Một lần, Hai Sanh đi qua, thấy vậy bèn nói chõ vào:
- Ông Tây đã đói bụng xẹp hông rồi! Bồ lô xí là, ai có khoai chạc dư không, đem cho ít khúc, bà lù xù, bà lì xì!
Tức thì Hương Đại trợn dọc mắt lên, chỉ tay vào mặt Hai Sanh, ba xí ba tú một hơi rất dài đủ các thứ tiếng kỳ lạ mà người Xóm Cát chưa từng nghe đến. Mọi người ngơ ngác nhìn anh, không ai cười nữa. Xong, Hương Đại chắp tay sau đít, đầu cúi gằm xuống, dạng chân đi từng bước lớn, trịnh trọng trở về nhà mình, vẻ mặt hầm hầm như một ông Tây bất mãn.
Mà Hương Đại bất mãn thực. Là bởi Hai Sanh nói đúng gan ruột anh ta. Ông Tây đói lắm, vì trọn cả ngày hôm đó ông Tây chỉ ăn có mỗi một chõ khoai trưa.
Qua suối, lên đồng, Đực Lớn dẫn đến một cái gò nhỏ ở giữa mấy đám ruộng trì khô nẻ. Lơ thơ những mồ đất đỏ, lẹt trẹt, cỏ mọc lòi còi, y như những miếng bánh đúc để khô bu đám ruồi nhặng.
Đực Lớn ném đuốc và bỏ cuốc xuống:
- Thôi, chôn đây được rồi.
Hương Đại chống nạnh nhìn quanh ra vẻ quan sát, rồi đưa ngón tay chỉ đông, chỉ tây, lên giọng:
- Nên đem chỗ nào cao cao mà chôn cho nó phát tướng sau này, con cháu mới mong ăn trên ngồi trốc thiên hạ. Kỵ nhất là mấy chỗ trũng trũng này. Táng mấy chỗ trũng phát đinh dữ lắm. Mình còn không đủ phủi lủm, phát cái thứ con cho đông, có mà chết sớm.
Nói thế, nhưng sau ai cũng đồng ý nên đào huyệt ở chỗ trũng vì đất mềm hơn. Hương Đại chống nạnh, cố tìm một việc để khỏi cầm cuốc nên lấy ngón chân kẻ kẻ dưới đất, vạch hướng cho người đào theo. Anh Hai Cấn cặm cụi bổ những lát cuốc nặng trịch. Anh không dám nghĩ đến sự mệt mỏi, bởi vì đòn khiêng vừa rồi cũng như những lát cuốc này vốn là chút tình của anh đối với người chết. Đực Lớn cuốc được vài lát, dừng lại ra vẻ sực nhớ điều gì, bỏ cuốc, chạy lại nắm lấy bó đuốc, thổi phì phì cho bùng lên ngọn lửa, rồi nói:
- May quá, cứ tưởng tắt nghín mất rồi. Để thắp thuốc chớ.
Anh Hương giúp một tay cuốc đi ề! Tui vấn thuốc cho.
Anh ta làm bộ lục lạo khá lâu ở trong túi áo, rồi lôi ra những lá thuốc vàng sậm. Hương Đại đành cầm lấy cái cán cuốc. Đực Lớn ngồi vấn chậm chạp, vê đi vê lại điếu thuốc, lăn giữa lòng hai bàn tay, tém đầu, tém đuôi ra vẻ hết sức chu đáo. Xong, anh ta thắp thuốc. Bập vài hơi thấu óc, anh mới đem lại tra vào nơi môi Hai Cấn. Rồi lọ mọ anh vấn điếu khác cho phần Hương Đại. Xong điếu của Hương Đại rồi, anh mới vấn lấy điếu mình. Vừa vấn, anh nói:
- Cái nghề cầm cuốc nghỉ tay mấy bữa là đã sút rồi. Nhưng ông Hai đây, ai cũng phải chịu là tay cừ nhất. Cuốc không biết mệt, đường cuốc đi đều mà thiệt nặng tay. Còn như ông Hương ngày trước đã từng đi lính bên Tây bên Tàu thì chắc có tài bắn súng, cỡi ngựa chứ chuyện cuốc cày dù sao cũng không thuần bằng. Nhưng nghe đồn ông có cuốc đất đậu thử sức với lão Ba Thế hai ngày, phải không? Ông hơn Ba Thế, phải không?
Hương Đại không dừng tay cuốc, đáp trong hơi thở hổn hển:
- Sá gì Ba Thế. Tui chấp cả hai anh em nhà nó cũng cứ ăn đứt liền liền.
Đực Lớn lại kể lể đến những người đàn bà cuốc giỏi. Nào con Sáu Lường, con Hí, con Huê... cuốc thực dịu dàng mà rất dai sức, đàn ông ít người hơn nổi. Anh ta nói mãi, nói mãi cho đến một lúc Hương Đại ném cái cuốc xuống, phán rằng:
- Được rồi. Sâu lắm nó hãm cái xác, hồn ma lục đục, mình ở không yên.
Anh Hai Cấn bèn dừng tay, cúi nhìn cẩn thận, rồi nói:
- Chưa lút đầu gối. Cạn quá, không nên.
Anh định bảo rằng: “Chôn cạn sợ chó đánh hơi đào xác” nhưng nghĩ nói vậy nghe tội tình quá. Cho đến người sống, dù họ hung hăng gấp mấy, anh Hai cũng không muốn nói một tiếng mất lòng, nỡ nào bạc miệng bạc mồm đối với người đã nhắm mắt.
Hương Đại xì một tiếng lớn:
- Nên với không gì! Đủ sức thì thôi chớ hị. Tui bàn vét lại thì vừa. Anh Hai chịu khó vét sơ sơ đi. Mình nghĩ, chôn dưới động cát có khỏe hơn không? Công sức đào một cái huyệt trên đồng có thể đào được mười lăm, hai mươi cái ở dưới cát.
Anh Hai Cấn nhíu mày:
- Nói nghe lạ quá. Nắm xương mình gởi trên đồng nó cũng hơn chớ. Đất đồng nó dẽ dặt hơn, nó ấm áp hơn. Từ hồi ông bà đến chừ ai cũng muốn chôn được gần làng, xã, chớ ai nỡ đem cái xác bỏ vùi, bỏ lấp dọc động như mả cô hồn.
Suốt buổi, đây là lần thứ nhất anh Hai nói nhiều như thế. Đời anh, anh chỉ ao ước sau này có được nấm mộ trên đồng, nấm mộ ở giữa lúa ruộng, gần với mồ mả ông bà, mồ mả người xóm, người làng, được gởi mình giữa lớp đất dẽ dặt mà trọn cuộc đời anh cày một cách cực khổ, lam lũ, nhưng vẫn thiếu trước hụt sau chịu kiếp cô đơn.
Đực Lớn im lặng giây lâu, có vẻ suy nghĩ, rồi cũng phụ họa:
- Phải rồi. Anh Hai nói phải. Cực nhọc bao lăm mà gởi được xác trên đồng cũng yên ổn hơn. Phải, thôi, anh Hai chịu khó vét sơ rồi ta hạ huyệt.
Trong khi vội vàng lùa cháo vào họng, nhiều lần anh Hai Cấn có cảm tưởng những thứ cứng cứng và khô xảm ấy không phải thuộc về loài vịt, nhưng cũng cố nghĩ đấy là thịt vịt. Đặt đũa xuống rồi, anh vẫn thòm thèm nhưng nhìn nồi cháo sạch quẹt sau khi Hương Đại cúi vét sàn sạt tưởng lủng đáy nồi, anh bỗng nhớ đến ông Cấn, mẹ con thằng Cời... Phải chi mỗi người được một bát cháo để ăn, họ sẽ thỏa dạ biết là bao nhiêu!
Suốt trong bữa ăn không ai nói gì đến người đã chết. Mọi người làm thinh, làm thế mà húp sùm sụp, cánh tay cầm đũa ngoáy đều, cặp mắt láo liên đảo vòng từ nơi đáy nồi đến những cái bát của người bên cạnh. Ăn xong, anh Hai nghĩ rằng trước khi về nhà nên nói một câu dính líu đến người đã chết cho hợp đạo trời, nhưng ngồi tìm mãi không có câu nào nghe được, anh bèn đứng lên chào hết mọi người, quày quả bước ra. Hương Đại hai lần xuống bếp thắp thuốc nhưng nhìn quanh quất không thấy mụ vợ Đực Lớn nên cũng bước theo. Thủ Tự những muốn bắt chước hai người, nhưng nhớ lại sự chờ đợi của mình suốt cả buổi sáng, bây giờ ăn xong về liền coi ra không tiện, đành ngồi rốn lại giảng giải:
- Con người sống chết là do cái số, đó chú Đực à... Thằng Nhỏ chết đụng cái ngày cũng tốt, lại được cái mồ cái mả trên đồng, rứa là mọi bề cũng được êm đẹp...
Thủ Tự đột ngột dừng lại. Mới quay sang nhìn, ông thấy Đực Lớn ngồi dựa vào cột, đầu ngoẹo một bên ngủ từ bao giờ, khóe mồm nhẻo ra một dòng nước dãi. Thủ Tự nhẹ nhàng đứng lên, rón rén bước ra.
Vừa qua khỏi ngõ ông Trà, bước sang vườn của bà Đầy, Thủ Tự nghe nhiều tiếng chửi vọng ra. Rồi ở dưới vườn Hai Trí có tiếng chửi đổng trả lại. Theo đúng quy luật phát triển của loài ngôn ngữ, họ bắt đầu bằng tiếng một, sau tiến lên đến câu dài, rồi mới thành chương, thành bài tuôn ra một lượt, không có bên nào chịu nghe bên nào. Ban đầu cả hai cùng ở trong nhà chửi qua kẽ phên, nhưng sau vì cùng đua nhau nói lớn không ai nghe rõ được mình nói năng những gì, nên đồng tiến ra phía sau, lựa chỗ ảng nước để làm thế đứng, chõ miệng sang rào, chửi nhau kịch liệt hơn trước. Thủ Tự toan vào can thiệp để họ nể mình im đi nhưng sau thoáng nghe trong câu họ chửi có nhắc nhở hoài hai tiếng “thịt vịt”, Thủ Tự chột dạ làm thinh đi luôn. Được một quãng, gặp bóng cây trâm ở góc vườn khá mát, Thủ Tự bèn ngồi xuống chõ tai nghe. Bây giờ quá mệt, họ thôi làm bài, và trở về từng câu ngắn. Tiếng bà Đầy gào khan:
- Tao đào mả cha mi ra cho mi coi!
Lập tức, vợ Hai Trí the thé đáp lại:
- Mả cha tao chôn trên đồng, đố thằng-lằng-cha đứa nào có giỏi thì lên mà đào. Nói mà không làm được là đồ uống máu đẻ!
Thủ Tự nghĩ thầm: “Cũng may mà đem chôn cả trên đồng, nếu chôn dưới cát thì chắc người chết ăn nằm không yên”.
Tiếng bà Đầy gắng gượng:
- Máu đẻ đem đổ trên đầu cao tằng cố tổ nhà mi!
Giọng vợ Hai Trí không chút nao núng:
- Quơ mà nuốt hết đi rồi chứ đâu có còn mà đổ trên đầu đứa nào. Ôi chào! Thèm lắm! Thèm lắm lắm mà! Ăn cái của dơ, của nhớp vô rồi chừ thì mạnh miệng lắm mà!
- Không biết đứa nào thèm! Không biết đứa nào thèm!
- Ừ, không biết đứa nào thèm. Cái của bất lương, phi nghĩa là cái của dơ, của nhớp, còn vục đầu vô mà ăn, không biết xấu hổ, lại hả họng ra mà nói nữa tề!
- Người ta cho tao ăn thì tao ăn. Tao không ăn cắp, ăn trộm. Đừng ăn không được rồi cành nanh, sủa hoài, điếc đít!
Thủ Tự nhớ như lúc nãy có nhìn thấy mụ Đực Lớn tay cầm cái bát, đi băng theo ngõ rào dưới về nhà. Đầu đuôi câu chuyện chửi bới nguyên do là thế: Mụ vợ Đực Lớn đem cho bà Đầy bát cháo. Nhưng không đi bằng ngả trước, mà cố tình băng ngả sau cho mụ Hai Trí nhìn thấy. Chẳng là tháng trước, khi cắt rạ đêm trên đồng về bỏ chuồng bò, vợ của Đực Lớn có hốt trộm của ông Trà mất một đầu gánh. Đem về chưa lọt thì bị ông Trà bắt được quả tang. Sau này mụ vợ Đực Lớn dò biết là tại mụ Hai Trí mách, và ông Trà thưởng cho mụ này nửa gánh rạ. Đã lâu hậm hực trong lòng nay mới có dịp trả thù, bởi vì cho cháo bà Đầy tức là khiêu khích mụ vợ Hai Trí.
Trong khi ngồi nhìn bà Đầy húp cháo, mụ vợ Đực Lớn kể lể tất cả thói xấu của con gái lão Bàng - một cách gọi vợ Hai Trí. Bà Đầy vừa lùa cháo, vừa gục đầu. Chưa bao giờ hai người tỏ ra tương đắc như thế. Họ ngồi chò hõ ở nơi cửa sau nên từ nhà của Hai Trí trông lên rất rõ. Vợ Hai Trí mới ăn một rổ rau luộc từ nửa buổi nhưng đến bây giờ thấy đói hung rồi. Nhìn thấy mụ Đầy vừa ăn, vừa nói, mà ghét. Đến lúc vợ của Đực Lớn đứng dậy ra về, còn thấy bà Đầy kêu lại nói những chuyện gì, vừa chỉ tay xuống nhà mình, tức thì mụ vợ Hai Trí đứng lên, chạy rút đũa bếp, giáng mạnh xuống lưng con Vện ốm đã lòi xương, chửi đổng:
- Mệ cha mi! Biết ăn mà không biết liếm cái bát cho sạch!
Lập tức, bà Đầy hiểu ngay là vợ Hai Trí nói đứa nào rồi.
Vội vàng, bà ta cũng quơ đũa bếp, đập túi bụi vào con Vàng nhỏ chút cho kêu ẳng ẳng, vừa nói thật to:
- Cố tổ mi! Có mà liếm cái ngữ cứt ngoài gò!
Thế là cuộc chiến bắt đầu. Từ chỗ nói bóng, nói gió, hai người đi dần vào trong cuộc đời tư riêng của nhau, lôi cả dĩ vãng không lấy gì làm tốt đẹp của nhau ra nói. Có nhiều chuyện hoặc đã rõ, hoặc chưa biết rõ, bây giờ được đem phổ biến hết sức hăng hái. Nào là mụ vợ Hai Trí vào dịp năm ngoái đi cấy cho nhà Cửu Thưởng làng ngoài, ăn vụng cá kho dưới bếp, sau đổ thừa cho chó... Nào là vợ chồng Hai Trí là bọn vô đạo, năm ngoái hạ bàn thờ cha chúng xuống, để làm giường nằm...
Tiếng vợ Hai Trí thét lên:
- Cái đồ ăn bậy nói xàm. Nghèo thì tao chịu, chớ tao không làm cái chuyện vô độ, vô lưng!
Vợ của Hai Trí nhất định không bao giờ làm những chuyện vô đạo, vô luân. Chỉ có hồ sơ bà Đầy - theo vợ Hai Trí - thiệt mới đáng nên truy cứu rõ ràng: nào là mấy lần moi trộm khoai của ông Hòa... nào là đã già khú đế mà còn gái trai với lại Thủ Tự...
Thủ Tự vụt đứng thẳng lên, bước đi rất nhanh. Những mụ đàn bà điên loạn không còn nể nang ai nữa. Thủ Tự thấy mình chưa hề có chuyện lăng nhăng với bà Đầy, thế mà con vợ Hai Trí cứ việc ám xác nói điều bậy bạ thiệt là xấu hổ quá sức. Đúng ra, không phải Thủ Tự không có ý nghĩ ấy đâu. Nguyên bà Đầy rất thèm có một đứa con. Lần đầu bà nuôi một đứa con gái, không biết con ai, lạc loài vào trong động cát. Được đôi ba năm, con bé quảy gánh xuống sông mua muối rồi lên ngồi luôn trên ghe một gã thuyền chài. Bà Đầy chờ đợi mỏi mòn, dáo dác đi tìm nhưng không biết chiếc thuyền tình trôi giạt bến nào. Cho rằng con gái là đồ bội bạc, bà xin một đứa con trai, con út của lão Ba Chỉ. Ba Chỉ nghèo quá mà người vợ lại cứ đẻ năm một nên khổ tâm lắm. Mỗi lần biết mình có thai là bà ngồi khóc bù lu bù loa và mỗi lần đẻ không quên réo chửi bằng đủ danh từ tồi tệ cái “thằng chồng già chết dịch, chết toi”. Đẻ đến thằng Đồ thì bà Ba Chỉ hằm hằm cầm dao chỉ vào dưới rún ông Ba độ chừng hai tấc, bảo rằng nếu lúc đêm khuya canh vắng mà còn mon men tính chuyện vợ chồng chung chạ, thì bà... cắt đứt một phen cho tiệt giống nòi. Ông Ba tỏ vẻ bình tĩnh, xem thường mọi lời dọa nạt công khai như vậy. Theo ông, khi người ta nói toạc hoạc mọi điều đáng lẽ phải nên chôn giấu trong ruột, thì nhất định là người ta vô hại. Hơn nữa, dù có phải bị “cắt đứt” thật sự, thì giống nòi ông với bảy đứa trai và hai đứa gái lúc nhúc hiện giờ cũng khó mà tiệt cho nổi. Ông còn thách đố trở lại, và hứa sẽ còn đẻ nữa cho xem. Tuy vậy, kể từ ngày đó thì bà Ba Chỉ đã đình chỉ được công việc đẻ chửa mà bà chăm chỉ thực hiện trong mấy mươi năm. Gặp mùa đói kém, vợ chồng ông Ba ưng thuận để cho thằng Đồ về làm con nuôi bà Đầy. Nhưng được ít năm, thằng Đồ về thăm cha mẹ và được cha nó gửi lên trên làng học nghề thợ mộc. Bà Đầy tuyệt vọng, bắt đầu hoài nghi những đứa con nuôi. Giữa tình cảnh ấy, Thủ Tự nhiều phen cũng thấy động lòng thương xót. Trong cuộc gặp gỡ chuyện trò với bà Đầy, nhiều lần Thủ Tự cũng than thở rằng mình tốt giống quá, “cựa đâu đẻ đó” không sao mà nuôi cho xiết. Bà Đầy liền cười hô hố, đáp lời:
- Sao không chia sớt cho kẻ thiếu thốn, ông Thủ!
Ông Thủ cũng cười hô hố, ra vẻ thông cảm. Tuy vậy, Thủ Tự là người phải chịu trách nhiệm việc xóm cho nên Thủ Tự cần phải giữ gìn. Nhất là sau khi đôi bên đã bày tỏ được ý tứ của mình, Thủ Tự nhận thấy cần phải giữ gìn hơn nữa. Công việc mới đi tới đó, vậy thì có gì là bậy bạ đâu? Con vợ Hai Trí là đồ trời đánh trật búa, ăn nói điên khùng.
Thủ Tự hối hận tại sao lúc nãy mình không nhảy vào nạt thét một trận cho chúng im đi. Bây giờ thì muộn quá rồi. Về phần Thủ Tự thì không còn mặt mũi nào để vào nói nữa, mà phần hai người đàn bà thì đã quá say máu ngà, không còn cách gì ngăn lại cho được. Không những chửi vì giận nhau, họ còn chửi vì có biết bao nhiêu mối giận với biết bao người trong xóm. Lại thêm không thể làm gì hơn nữa trong cảnh túng đói cùng quẫn, nên sự chửi rủa giúp họ trút bớt những nỗi căm hờn không đâu, đem lại cho họ ít nhiều ảo tưởng về cái sức mạnh của mình.
Nhưng bỗng Thủ Tự dừng bước đưa tay lên véo một cạnh râu mép, nghiêng tai nghe ngóng... Mặc dù giọng của bà Đầy cố sức phá đám nhưng tiếng mụ vợ Hai Trí trẻ hơn, thanh hơn, nên rõ mồn một. Bây giờ mụ vợ Hai Trí đang kể đến khúc bà Đầy có mang với lão Hai Nguyên, một người lái bò què quặt. Nào là bà Đầy quấn cái bụng lại không cho ai biết, tới kỳ sinh đẻ, đem con bỏ trên bờ suối. Nào là bà Đầy lập mưu cho lão Hai Nguyên giả đò tình cờ qua suối bắt gặp “con ai không biết” rồi mang nó về rêu rao khắp xóm, nhờ người ta nuôi lấy phúc, lấy đức. Thế rồi lại chính bà Đầy chạy ra, vừa chửi “cái bọn chửa hoang, đẻ bậy”, vừa xin thằng nhỏ về nuôi. “Bây giờ đã rõ cái mặt ra chưa? Bà con khắp xóm ai không nhìn biết cái tướng thằng Đà! Cái miệng tòa loa như miệng mụ Đầy, con mắt ti hí như mắt lão Nguyên...”
Đã đến cái độ không ngăn cản được nữa rồi. Chưa có bao giờ hai người giận nhau đến thế. Cũng chưa bao giờ họ lại tỏ ra có sức đến thế. Chuyện xưa, chuyện nay đã nói cả rồi. Bà con trong xóm, trên làng, cũng được nhắc đến cả rồi. Tới những người chết từ đời thuở nào cũng được gọi lên để dự những đám cỗ lớn gồm toàn các thứ dơ nhớp nhất trong thiên hạ. Chỉ còn một nước cuối cùng: đánh nhau.
Hai người áp tới một lượt, và gặp nhau chỗ bờ cát. Họ đánh đấm túi bụi, xô nhau, kéo nhau, lôi tóc nhau, cào cấu trên quần trên áo của nhau, miệng thở phè phè. Khi hai người té nhoài ra, mỗi người mỗi ngả, thì trên khóe miệng ai cũng có một ít máu và lớp quần áo không còn là những thứ dùng che đậy thân thể. Mụ vợ Hai Trí chồm chồm ngồi lên, cố hét bằng giọng đã khàn:
- Tao đốt nhà cho mi coi!
Bà Đầy cũng vội trườn lên gào lại, giọng khàn hơn:
- Đố mười mặt mi. Tao cũng đốt nhà mi coi!
Thế là hai người lạch ạch ai về nhà nấy. Phút chốc mỗi người chạy ra thổi phì phì trên con cuối bằng rơm. Họ nhìn nhau, liếc quanh mong có người nào can gián, nhưng không một ai có mặt đấy cả. Họ lại nhìn nhau rồi làm vẻ rất cương quyết hì hụi chạy dí lửa vào mái tranh của nhau. Những ngôi nhà tranh giòn rụm dưới nắng hạ như đói lửa, cháy lên ngùn ngụt. Hai người đàn bà, ai vội chạy về nhà nấy, kêu cứu, la làng inh ỏi. Nhưng giọng của họ hầu như đã tắt hẳn rồi.
Đến lúc Hai Trí chạy về tới sân và thằng Đà lùa con nghé đến ngõ thì hai ngôi nhà chỉ là hai nhúm tro tàn. Cạnh mỗi đống tro tàn ấy, mỗi người đàn bà xờ xạc, lõa lồ, mồ hôi muối đầy cát trắng, tro đen, nằm thở hào hển như sắp chết gấp.
1.1957