Ngôi nhà yên tĩnh
Anh viết hay lắm! - Anh ta nói.
Như mọi nhà văn khác khi được người ta khen tôi đã định trả lời: “Cám ơn anh”, nhưng sau tôi nghĩ lại:
- Tôi có thể viết hay hơn nữa, phải cái nhà tôi không có những điều kiện thích hợp.
- Thế nhà anh làm sao?
- Nhà thì chật, mà gia đình thì đông người, ồn ào không chịu được! Mà viết truyện, như anh biết đấy, là kiểu lao động trí óc, nó đòi hỏi phải yên tĩnh. Đằng này, vừa mới lấy được cảm hứng thì thằng bé đã chạy đến mách thằng lớn: “Bố ơi, bố xem anh ấy làm gì con này!” Vừa giải quyết xong được hai đứa thì thằng nhỡ ngoạc mồm ra khóc. Dỗ xong thằng nhỡ thì đến lượt thằng út. Đấy là chưa kể những đứa lớn hơn chành chọe nhau suốt ngày. Khi đầu óc lúc nào cũng sôi lên như cái chảo ấy anh thử đi mà sáng tạo kiệt tác!
- Thế anh có bao nhiêu con? - Anh ta hỏi.
- Mười một đứa. - Tôi đáp.
Tôi nghĩ chắc anh ta sẽ nói: “Cầu Chúa phù hộ cho chúng!” Song đáp lại tôi chỉ nghe thấy một tiếng thốt rất thô bỉ: “Chu-s-s-s!” - như tiếng người ta bảo lừa dừng lại. Tôi hỏi:
- Anh bảo tôi đấy à?
Tức nghẹn thở. Thú thật, tôi đã định cho anh ta một cái tát.
- Không, tôi không bảo anh! - Anh ta đáp.
- Nhưng ngoài tôi với anh ra ở đây không còn ai khác.
- Cái tính đa nghi tệ hại! Người đa nghi lúc nào cũng tưởng người ta nói về mình. Cái xe ô-tô đang chạy bỗng kêu lên “tạch - tạch - tạch” anh ta cũng tưởng có ai bắn vào mình. Nhưng thôi, ta quay lại chuyện những đứa con của anh. Đối với người viết văn thì mười một đứa là quá nhiều đấy. Một đứa thôi cũng đã là nhiều rồi. Làm nhà văn lẽ ra không nên đẻ con. Vì nó lấy đi của anh rất nhiều thời gian.
- Nhưng, cứ cho rằng chuyện ấy không cần thời gian. Nuôi dạy con cái quả thật là việc khó...
- Làm anh nhà văn là không nên có con, anh cần hiểu điều đó. Đẻ một đống con thì ai cũng làm được, nhưng để viết một cuốn sách hay thì không phải ai cũng có thể.
- Nhưng biết làm sao khi tôi đã có mười một đứa rồi, thậm chí là mười một đứa rưỡi, vì một đứa nữa đang trong bụng mẹ.
- Thế giả sử anh sống một mình trong ngôi nhà, thì anh cần bao nhiêu thời gian để viết ra một kiệt tác?
- Trong đầu tôi có rất nhiều ý tưởng, vì thế nếu được sống một mình trong nhà, tôi có thể cứ hai tháng cho ra một cuốn sách hay.
- Xong! Tôi sẽ để anh sử dụng căn nhà của tôi trong sáu tháng.
Lúc đầu tôi cứ nghĩ anh ta nói đùa. Song khi anh ta lái xe đưa tôi về xem nhà của anh thì tôi mới tin là thật. Thậm chí đó không phải là nhà, mà là cả một cung điện mùa hè đồ sộ. Nhìn ngôi biệt thự lớn đó tôi phải sửng sốt.
- Mùa đông này chúng tôi sẽ về sống ở Nisantasư. - Anh ta nói - Chúng tôi sẽ ở đó đến tháng Năm. Vậy sáu tháng tới ngôi nhà này coi như của anh. Anh hãy tạo ra những kiệt tác cho chúng tôi xem. Ít ra bằng cách này coi như tôi cũng có chút đóng góp cho kho tàng văn học thế giới.
Tôi thực sự sửng sốt. Khi chúng tôi ra khỏi nhà, anh bảo:
- Tôi chỉ có một yêu cầu nhỏ với anh. Anh hãy nhớ là trong vườn tôi có một con becgiê, còn trong nhà treo một cái lồng nuôi một con hoàng yến.
- Tôi thích súc vật và chim muông lắm. - Tôi nói.
Sau đó anh bạn để lại cho tôi ngôi nhà và ra đi. Mọi chuyện cứ như trong mơ!
Lúc đầu tôi đi tham quan khắp ngôi vườn, sau đó đến ngôi nhà. Xung quanh tĩnh lặng đến nỗi tôi có cảm giác không chỉ nghe thấy, mà thậm chí còn sờ thấy sự yên tĩnh đó.
Tôi bước lên tầng trên cùng. Từ đây có thể nhìn ra một cánh rừng thông. Tôi ngồi vào bàn và nghĩ thầm: “Sống trong ngôi nhà thế này thì đến con lừa cũng có thể trở thành nhà thơ!”.
Với cảm giác đó tôi bắt tay vào viết. Tôi chưa kịp chạm ngòi bút vào giấy thì vang lên tiếng chuông. Ngôi nhà quá rộng, tôi cứ chạy hết phía này đến phía khác mà vẫn không biết tiếng chuông phát ra từ đâu. Tôi đã đi hết các phòng ở tầng trên mà không phát hiện ra vật gì có thể phát ra tiếng chuông ấy. Trong khi tiếng chuông vẫn reo không ngớt. Có lẽ đó là tiếng chuông điện thoại. Tôi lại chạy đi tìm khắp nơi, cuối cùng tìm ra chiếc điện thoại trên tầng ba. Tôi nhấc ống nghe lên nghe nhưng không có tiếng gì. Mà chuông thì vẫn reo. Có nghĩa là không phải chuông điện thoại. Hay là trong nhà còn có cái điện thoại khác?
Tôi lại chạy đi khắp các tầng, mãi cho đến lúc nhận ra đó là tiếng chuông cửa. Người đưa báo đến.
- Từ hôm nay không cần báo nữa. - Tôi bảo bác ta.
Tôi đóng cửa rồi lại ngồi vào bàn viết. Nhưng vừa cầm bút thì lại có tiếng chuông reo. Tôi chạy xuống dưới nhà. Ra mở cửa nhưng không có ai. Mà chuông vẫn cứ reo. Hóa ra đó là chuông ở cổng vườn phía sau nhà. Người mang sữa đến.
- Từ hôm nay thôi không cần sữa nữa nhé! - Tôi bảo người đưa sữa.
- Nhưng ông đã đặt mua sữa cả tuần rồi!
Người ta đã để cho tôi ở không mất tiền một ngôi nhà lớn suốt cả sáu tháng! Đương nhiên, tôi phải trả tiền sữa là đúng rồi!
Khi tôi vừa lên tầng hai, lại có chuông reo. Lúc đầu tôi chạy ra cửa chính, sau đó ra cổng sau. Đều không có ai! Không biết nhà này có bao nhiêu cửa đây?
Tôi cứ chạy từ cửa này đến cửa khác, đều không có ai. Hết các cửa rồi, mà chuông vẫn cứ réo! Quái quỷ, thế này thì phát điên mất! Thôi, chắc là bọn trẻ tinh nghịch đây. Trong khi tôi ra mở cửa chính thì chúng bấm chuông cửa sau. Để chộp tận tay bọn ranh con này, tôi bất thình lình mở cánh cổng vườn. Nhưng không có ai. Chắc chúng bỏ chạy rồi, lũ ôn con mất dạy! Hay có thể bây giờ là tiếng chuông điện thoại? Hóa ra đúng thật, cái điện thoại đang reo.
- Alô!
- Xin lỗi, tôi muốn nói chuyện với bà Nazan.
- Thưa ông, bà ấy không có nhà!
Tôi chưa kịp ngồi lại vào bàn thì lại “reng - reng!” Tiếng chuông! Lúc đầu tôi chạy đến máy điện thoại. Không phải! Tôi chạy ra cửa - hóa ra người đưa thư! Nhận thư xong, tôi lại lao lên gác. “Reng - reng - reng!” Tôi lại lao ra cửa. Không có ai! Chạy đến chỗ điện thoại. Không phải nó! Tôi cứ chạy lên chạy xuống một lúc cho đến khi nghe thấy tiếng “Cúc - cu! Cúc - cu! Cúc - cu!”.
Hóa ra đó là tiếng chuông đồng hồ treo tường. Trong phòng khách trên hai bức tường đối diện nhau có hai chiếc đồng hồ. Một cái thì kêu kiểu tiếng chuông, còn một cái thì kêu “cúc - cu, cúc - cu”. Khi cái đồng hồ dứt tiếng “cúc - cu” thì lại có chuông điện thoại.
- Bà Nazan không có nhà. Họ đã chuyển về Stambul rồi!
Người tôi ướt đầm mồ hôi vì phải chạy lên chạy xuống theo các tiếng chuông. Tôi đang đứng giữa phòng khách hoàn toàn lúng túng thì bỗng lại vang lên tiếng “Đanh... đanh... danh”.
Trời ơi, không biết trong nhà này có bao nhiêu cái chuông, bao nhiêu âm thanh, bao nhiêu đồng hồ nữa! Lần này là tiếng chuông đồng hồ treo ở cửa ra vào. Cứ chạy tới chạy lui mãi cuối cùng tôi mệt lử người! Lúc thì chuông cửa này, lúc chuông cửa khác, lúc lại điện thoại. Thật không sao phân biệt nổi cả một mớ các kiểu chuông và âm thanh ấy. Lúc tưởng là chuông cửa hóa ra lại là tiếng chuông xe đạp của một thằng bé đi ngang qua nhà.
Trời bắt đầu tối mà tôi chưa viết được chữ nào. Nhưng cứ lên gác, xuống gác, chạy đi chạy lại trong nhà xem các tiếng chuông ở đâu, có lẽ tôi đã đi được gần bốn chục cây số. Bạn cứ thử tưởng tượng xem, trên đời này có bao nhiêu người đưa hàng, từ người đưa hàng khô đến người đưa sữa... thì tất cả họ đều đã đến đây. Và người nào cũng bấm chuông gọi cửa! Còn cái điện thoại dễ chừng nó phải reo đến ba bốn chục lần!
Cuối cùng, hoàn toàn kiệt sức, tôi nằm vật ra giường như người chết rồi. Tôi nhủ thầm:
- Ngày đầu tiên bao giờ cũng vậy. Bây giờ mọi người đều đã biết trong nhà không còn ai. Ngày mai chắc sẽ không còn tiếng chuông nào nữa và tôi có thể bắt đầu viết kiệt tác của mình!
Khi tôi đã bắt đầu thiếp đi thì lại nghe thấy một âm thanh mới không giống với tất cả những âm thanh trước đó. Tiếng gì như tiếng rên. Với các tiếng chuông tôi đã có cách đối phó. Không ra mở cửa, không nhấc điện thoại - tự khắc chúng sẽ phải ngừng réo. Nhưng những âm thanh này mãi không chịu ngừng. Tôi kéo chăn chùm kín đầu không được. Nhét bông vào lỗ tai cũng không ăn thua. Không còn cách nào khác tôi đành dậy đi tìm xem những âm thanh đó ở đâu. Tôi đi hết buồng này sang buồng khác, cuối cùng ở buồng tắm tôi vấp phải con chó con. Nhìn thấy tôi, nó thôi không rên nữa và cọ cọ mõm vào chân tôi. Rõ rồi, hóa ra nó đói! Tôi đặt xuống trước mõm nó tất cả những gì tìm thấy trong nhà bếp.
Rồi lại lên giường nằm.
Những âm thanh đã chấm dứt. Nhưng tiếng đồng hồ thì không dừng lại - chúng phát ra tiếng chuông và tiếng “cúc - cu” theo đúng chu kỳ. Cả con chó cũng không chịu im. Thỉnh thoảng lại có chuông điện thoại. Đã bắt đầu nửa đêm. Trời, giá mà bắt được mấy cái đồng hồ và con chó này câm mồm! Chẳng còn cách nào, tôi bèn mang con chó con vào phòng ngủ. Nó thôi không kêu nữa, nhưng cứ khi tôi vừa nằm xuống là nó lại bắt đầu ăng ẳng. Tôi cố vuốt ve, van nài nó im lặng thì cái con trời đánh lại càng sủa tợn! Cuối cùng tôi đành cho nó lên giường nằm cùng nó mới chịu thôi.
Nhưng đúng lúc đó con bec-giê trong vườn bắt đầu sủa: “Gâu! Gâu! Gâu!”
Tôi sắp sửa phát điên! Không, không phải sắp sửa, mà tôi đã bị điên rồi. Tôi nhảy bổ khỏi giường chạy đến cửa sổ:
- Im ngay, con chó khốn nạn! Câm ng-a-a-y!
Con chó to im được một phút thì đến lượt con chó con bắt đầu ăng ẳng. Cứ thế tôi bị hành hạ đến tận sáng. Khi trời vừa bắt đầu sáng thì từ vườn vang lên tiếng cục tác và tiếng gà trống gáy. Song tôi đã quá mệt nên những âm thanh ấy không còn tác động gì đến tôi nữa... Khi tiếng con hoàng yến hót vang ngay trên tai tôi, tôi cầm lấy cái lồng chim cho vào buồng tắm khóa cửa lại. Tôi không biết tôi có chợp mắt được mười phút hay chưa, nhưng bỗng tỉnh dậy vì một âm thanh quen thuộc: “Đrr...r...!”. Các bạn có thể tưởng tượng tình trạng của tôi thế nào nếu tôi phải chui lên gác xép và trốn ở đó. Ở đây tôi bắt đầu tỉnh lại đôi chút. Không, ở ngôi nhà này tôi không thể viết được một dòng nào hết! Thật tình, ở với bọn trẻ con còn đỡ hơn. Chỉ cần quát với nó một câu: “Im lặng!” là nó còn biết sợ và không dám ầm ĩ nữa. Còn những con chó, những chiếc đồng hồ và những tiếng chuông này! Lẽ nào chúng hiểu được điều gì và biết sợ cái gì! Mà làm sao những người này sống được ở đây nhỉ? Vì chỉ để trả lời những tiếng chuông thôi cũng cần phải hàng tá người! Thế mà cũng gọi là ngôi nhà yên tĩnh! Tôi chỉ muốn đến gặp ngay cái người tỏ ra tốt bụng cho tôi mượn ngôi nhà yên tĩnh của mình mà nói với anh ta: “Xin vạn lần cảm ơn. Tốt nhất anh nên lấy một người hầu để phục vụ cho mấy con chim và chó của anh. Còn tôi tôi sẽ về nhà mình, với những đứa con của tôi”.
Khi tôi bước ra khỏi cổng, một người lạ mặt dừng tôi lại.
- Ông trông nom ngôi nhà này phải không?
Tôi thấy hơi chột dạ. Để thoát khỏi anh ta, tôi đáp:
- Phải!
- Người ta trả ông bao nhiêu?
- “Trả bao nhiêu” là thế nào?
- Này, ông nhớ đừng có nhận rẻ quá đấy nhé. Năm ngoái họ đã thuê một người trông nhà với giá năm trăm lia và cái ông này suýt bị phát điên. Vì người ta gọi ngôi nhà này là “ngôi nhà với các tiếng chuông”.
Như một cơn lốc, tôi chạy bổ vào phòng làm việc của người đã rủ lòng tốt với tôi.
- Tôi không nhận đâu! - Tôi nói.
- Tại sao?
- Vì ngôi nhà lớn quá! Và không có một bóng người. Ở đó quá yên tĩnh. Có thể nổ tung vì sự yên tĩnh của nó.
Anh ta nói:
- Tôi biết ngay mà. Anh đã quá quen với không khí ồn ào như cái chợ rồi nên rơi vào chỗ yên tĩnh anh không làm việc được!..
Rồi im lặng một lát, anh ta nói tiếp:
- Tôi biết bọn nhà văn các anh mà! Mồm thì kêu: “Giá có một cái góc yên tĩnh thì tôi còn viết được nhiều biết mấy!”, nhưng khi người ta cho cả một ngôi nhà yên tĩnh thì lại bắt đầu đổi giọng: “Chỗ này buồn quá, không sao viết được!” Chẳng qua trong đầu rỗng tuếch nên đếch viết được mà thôi!...
Tôi nhảy ngay ra ngoài đường - tránh xa cái nơi chết tiệt. Trên đường về nhà tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng bên tai vẫn còn văng vẳng những tiếng “Reng - reng - reng...!”