← Quay lại trang sách

Đôi cánh (Tsubasa, 1951)-Một câu chuyện kể theo kiểu Gautier-Nguyên tác: Mishima Yukio -Dịch giả: Nguyễn Nam Trân

Mishima Yukio (1925-70), văn tài lớn của Nhật Bản, cũng là nhân vật gây nhiều tranh cãi trong đời thường vì những ý tưởng ái quốc cực đoan và cái chết đầy kịch tính. Dù bài bác quan điểm chính trị quá khích của cá nhân ông, ta phải tiếc cho một con người trí thức uyên bác, tinh tế và một cây bút có văn phong hoa lệ, tân kỳ. Như một cầu thủ thừa sức bao sân, Mishima lúc sinh thời đã bay nhảy trong nhiều lãnh vực nghệ thuật từ truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, nghị luận, kịch nghệ đến điện ảnh.

Đoản thiên Đôi Cánh (Tsubasa) dưới đây được đăng tải lần đầu trên số báo tháng 5/1951 của tạp chí Bungakukai (Văn học giới) trước khi in lại trong nhiều tuyển tập của nhà văn. "Một chuyện kể theo phong cách Gautier", câu nói kèm theo tựa đề trên đây ngụ ý là khi sáng tác, ông đã lấy cảm hứng từ cách viết phi hiện thực của nhà văn lãng mạn Pháp Théophile Gautier (1811-1872).

Hai đứa thường gặp nhau nơi người bà của chúng sống ẩn dật. Cứ mỗi tuần hai lần, Yôko có thói quen đem bánh ngọt và thức ăn mẹ làm riêng ở nhà đến cho bà. Và bà của cô cũng có thói quen mỗi ngày là đánh một giấc trưa dài bốn tiếng đồng hồ.

Ở nhà, bà chỉ có một chị giúp việc tính khí khờ khạo tên là O-Tetsu làm bạn. Vì O-Tetsu ngớ ngẩn như vậy nên đôi khi đùa, bà hay sai bảo kiểu: "Cô ngốc ơi, mang trà lên cho bà!", " Cô ngốc ơi, khách ra về rồi đấy nhé!"

Còn Yôko thì mỗi ngày thứ bảy, sau khi tất tả từ trường về nhà thì phải đem ngay bánh trái hay các thức ăn mà mẹ cô đã làm sẳn, giống như cô bé quàng khăn đỏ, đến nơi bà ở khoảng một tiếng đồng hồ trước khi cụ già thức giấc.

Bà của cô sống đời ẩn dật nằm lưng chừng một quả đồi cao nhìn xuống dòng sông Tamagawa. Nhà chỉ có năm buồng nhưng vườn thì rộng thênh thang. Ở một góc vườn là hòn giả sơn với cái đình hóng mát. Từ chỗ đó là con đường, một phía đi về hướng cây cầu nhỏ bắc ngang dòng suối của khu vườn, một phía ăn thông dưới cái cổng vòm luồn ra tới bên ngoài. Để khỏi làm vướng tầm mắt nhìn xuống dòng sông, hòn giả sơn được xây hơi chếch về một bên vườn. Vì có những bụi cây con bao bọc chung quanh, từ phía ngôi nhà chính nên khi đưa mắt nhìn ra đình hóng mát, trừ những ngày mùa đông lá rụng thưa thớt, thường người ta chỉ có thể thấy mỗi cái mái.

Ngày nào trời đẹp, sau khi mang quà của mẹ đến giao cho O-Tetsu xong, Yôko thường ra ngoài vườn, leo lên đình hóng mát, rồi lại trở xuống, ra mở cánh cửa cổng vòm đứng chờ. Sugio trên đường từ trường về cũng canh chừng giờ giấc để đến đó. Xong, hai đứa lúc thì cùng nhau tản bộ dọc bờ sông Tamagawa, có khi thì Sugio leo theo cô lên đình hóng mát để trò chuyện. Hai đứa rất yêu cái đình. Tầm ngắm từ ngôi đình này thật đẹp mà lại có cái thú là kín đáo, ở đây không bị người nhà bắt gặp. Khi nào thinh thích thì có thể hôn nhau tí ti.

Sugio là con trai ông bác của Yôko, vị chi cậu là anh họ. Nhưng thực ra, lợi thế tự nhiên đã làm cho cậu trở thành ông anh họ kiêm cả chức người yêu. Vì hai đứa giống nhau ở nhiều điểm nên đôi lúc còn bị người ta nhầm là anh em ruột. Sự giống nhau như người nhà thường đem đến cho chúng một thứ tình cảm ngọt ngào. Hai đứa chẳng phải chỉ giống nhau đơn thuần. Có thể nói trong cái giống nhau của chúng có một sự đồng điệu không lời, một sự thông cảm từ trong ý nghĩ, và một lòng tin tưởng thầm lặng của người này đối với người kia. Đặc biệt hai đứa có cùng đôi mắt trong vắt. Đôi mắt ấy giống như một cái máy lọc nước, biết gạn đi mọi loại nước bẩn để chúng trở thành thứ nước tinh khiết có thể uống được. Nó không ngừng tẩy sạch chất ô uế đang làm vẩn đục cuộc đời. Không chỉ thế thôi đâu! Ta có thể hiểu là cái máy lọc nước này lại còn cung cấp làn nước trong trẻo đó cho kẻ sống chung quanh. Ngày nào dòng nước tuôn ra từ đôi mắt của chúng thấm đẫm được thế giới này thì nhất định bao ô trọc của cõi đời sẽ trở thành tinh khiết.

Một buổi sáng Sugio và Yôko chợt nhận ra hai đứa đang đứng đâu lưng với nhau trong một toa xe điện chật. Chúng đang trên đường đến lớp.Thường ngày, cơ hội gặp nhau như thế này hầu như không thể có nhưng vì hôm trước, Sugio qua đêm ở nhà một người bà con khác và đi thẳng từ đó đến trường cho nên cả hai đều không hay rằng chúng đã lấy cùng một chuyến xe. Dạo đó đang độ mùa thu nên trong không khí thoang thoảng hương hoa cúc.

Cả Sugio lẫn Yôko đều cảm thấy sau lưng có một làn hơi ấm nhưng không giống hơi ấm có thể cảm thấy được từ da thịt người thường. Hai đứa nghĩ thầm không hiểu có phải do ánh sáng mặt trời đang chiếu rọi vào lưng của mình hay không! Nó tựa hồ hơi ấm do một luồng ánh sáng thanh tĩnh tự cõi xa xôi nào đó mang đến. Lúc đó, không đứa nào có ý lén nhìn gương mặt người đứng sau lưng để xem sao. Thế nhưng Yôko thì cô cảm nhận được bờ vai rộng của một anh con trai trong bộ đồng phục may bằng vải "séc" [1]màu đen và Sugio cũng cảm thấy có đôi vai nhỏ nhắn mềm mại của một cô con gái trông bộ đồng phục nữ sinh kiểu lính thủy. Rồi giữa khi đó, cùng với sức chèn ép xô đẩy vào nhau của đám hành khách trong toa xe điện nghẹt người, hai đứa đều cảm thấy trên vai của mình một sức mạnh phấn khích đang chuyển động. Cả hai đều tự hỏi chẳng lẽ mình đang mọc cánh. Hình như có mấy cái cánh đang chồng lên nhau thành tầng, xếp lại và nằm ép trên lưng khiến chúng phải kín đáo ghìm lấy hơi thở. Đôi khi, có một sức đẩy nào từ bên ngoài làm cho hai cái lưng cọ xát vào nhau thì cả hai đều ngượng chín người. Chúng đang muốn dấu đi đôi cánh của mình nên có hổ ngươi cũng là điều hợp lý. Ngay giờ đây, bất cứ ai nếu phải dấu diếm một vật gì thừa thải và lạ lùng như chúng thì có cảm thấy bối rối cũng là chuyện bình thường.

Hai đứa muốn bật lên cười khúc khích vì cảm thấy sau lưng đôi cánh như đang cù lét chúng. Lúc đó, lần đầu tiên chúng mới lách người qua một bên để hai khuôn mặt có thể nhìn thẳng vào nhau. "Ủa, em Yôko đấy à?". Sugio mắt mở tròn và kêu lên. "Lâu rồi mình không gặp nhau đấy nghe anh!". Yôko đáp lại.

Hai anh em họ hôm đó thực ra không có chút hứng thú nào để lên lớp, chúng bàn với nhau hay là mình đi xem xi-nê. Thế nhưng không muốn cuộc gặp gỡ tình cờ này đem đến một kết quả thiếu nghiêm túc, rốt cuộc Sugio chọn đi đến trường thay vì rong chơi và Yôko cũng nghe theo ý kiến ấy. Ở nhà ga nơi Sugio phải đổi tàu, sau khi cậu xuống xe, Yôko đi theo tiễn chân đến tận cửa toa của đoàn tàu mà hành khách đã xuống vơi quá nửa. Chỉ một khoảnh khắc trước khi cánh cửa khép lại, cô mới chìa tay ra bắt một cách vội vã như biết sắp có một sự chia cắt đột ngột.

Hôm đó, trong giờ Anh văn, Yôko bị khựng lại trước một chương sách khá lạ lùng. Đó là một tiểu truyện về nhà văn William Blake[2] được viết khá dễ hiểu. Đầu chương, cô thấy những câu như sau đây đã làm rung động lòng mình: "Khi còn nhỏ, chú bé Blake có lần một mình đi chơi ngoài cánh đồng vắng và bất chợt nhận ra ở trên ngọn một thân cây lớn có đàn thiên sứ đông đảo đang vẫy cánh lượn bay. Chú bé bèn chạy về nhà kể lại cho mẹ. Không những chẳng thèm tin con, bà mẹ còn mắng chú là ngu xuẫn và tẩn cho một trận". Vừa nghe ông thày dịch đoạn văn đó, thiếu nữ vừa đọc đi đọc lại những dòng chữ ấy và ngẫm nghĩ: "Câu chuyện thấy được thiên sứ chỉ khiến cậu bé Blake đâm ra nửa tin nửa ngờ. Thế nhưng rõ ràng là cậu bé đã tin chắc như đinh đóng cột về điều đó từ khi bị mẹ mắng và cho ăn đòn. Hẳn là sự trừng phạt hay roi vọt của bà mẹ là một thủ tục tất yếu để củng cố hoàn toàn lòng tin nơi chú bé. Ông thày chỉ biết cười trước hành động của bà mẹ Blake, thái độ của ông như thế là sai lầm. Bà mẹ là người đã đóng được một cách trung thực vai trò của mình mà thôi".

Lối suy luận kiểu này tình cờ phảng phất một hương vị sắc tình (erotic). Có phải chăng đó là kiểu trừng phạt mà thiếu nữ đang muốn nếm?

Cũng trong thời gian đó, Sugio đang ngồi trong lớp nhưng cậu chẳng để vào tai những lời thày giảng. Cậu chỉ nghĩ đến cô em họ, sau mấy năm không gặp, bây giờ đã lớn phồng như thổi. Đầu óc cậu tập trung vào chuyện đôi cánh của Yôko. Loanh quanh luẩn quẩn cậu tự hỏi vì cớ gì Yôko lại có thể mọc cánh như thế. Từ đó trở đi, ý tưởng muốn nhìn cho được đôi cánh của Yôko không bao giờ lìa khỏi tâm trí cậu. Để đạt được việc đó, cậu phải được thấy Yôko khỏa thân. Khổ là Sugio chỉ mong mỏi được thấy đôi cánh của Yôko chứ không phải muốn nhìn cô em họ trần truồng.

Cậu ta nghĩ: "Nhất định em ấy có cánh! Chỉ vì nó mọc ra từ từ theo tuổi tác nên dù người thân trong nhà cũng không thể nhận ra được". Được cái thuận lợi là em ấy đã đến tuổi đi tắm o-furo [3] một mình nên chẳng bao lâu nữa đã có thể tự để cho đôi cánh phát triển mà không để ai nhìn thấy. Chắc chắn là như thế. Nếu không thì dù có muốn giữ cho mình sự bí mật, em ấy cũng không tài nào giữ nổi. Một người bà con lắm chuyện nào đó đã phải loan tin đồn về nó đến tai mình rồi chứ!"

Cô gái đứng nhìn ra cửa sổ, đôi cánh mở rộng.

Sau đó ít lâu, Sugio đã bắt đầu thấy một Yôko mọc cánh trong những giấc mơ của cậu. Cậu chỉ nhìn được hình ảnh khỏa thân mờ nhạt trong ánh hoàng hôn của cô bé, người đang tựa vào thành cửa sổ và quay lưng lại phía mình. Một đôi cánh trắng bọc lấy khoảng thân thể từ vai xuống lưng giống như tấm áo khoác. Khi Sugio tiến lại gần thì thiếu nữ dù vẫn đứng nguyên tư thế nhìn ra cửa sổ nhưng đôi cánh bỗng xòe ra, bộ lông vũ chập vào nhau như muốn ghì chặt cậu lại. Sugio ngột ngạt đến nổi phải la toáng lên rồi choàng tỉnh cơn mê. Thế nhưng cậu không hề hay biết là, về phía người con gái, trong lòng cô đã âm thầm nuôi ý nghĩ rằng Sugio có một đôi cánh mọc sau lưng giống như cô.

"Mùa hè sang năm chắc mình sẽ có cơ hội đi tắm biển cùng với Yôko. Mình sẽ quan sát chiếc lưng trần của em ấy xem có dấu hiệu gì có một đôi cánh đang mọc ra từ đó hay không. Chắc mình cũng có thể cho tay sờ thử. Nhưng bây giờ mới là mùa thu, phải còn lâu lắm mình mới thỏa mãn được điều nguyện ước thầm kín đó". Sugio còn lo sợ thêm một nỗi: nếu như cậu không thấy được một phần nhỏ của đôi cánh ấy lộ ra thì có lẽ đưa đến kết quả là nỗi thất vọng sẽ làm cho cậu không còn yêu cô ấy nữa.

Sau đó, dù hai người đôi ba dịp để gặp nhau nhưng họ không bộc lộ những hoang tưởng hơi trẻ con, những điều ao ước hay nỗi lo sợ của riêng mình. Nhất định là nếu một trong hai bày tỏ cho kẻ đối diện điều mình tin là người ấy có cảnh thì sẽ chuốc lấy sự cười cợt hay khinh miệt từ phía kia. Hơn thế nữa, làm sao họ có thể bắt người kia chấp nhận một ảo tưởng trẻ con như thế trong khi chính mình còn không có lý do rõ rệt nào để tự thuyết phục về điều đó... Hai anh em họ mỗi người nhìn vào mắt người kia như dò xét. Giữa đôi đồng tử trong xanh xinh đẹp của người đối diện, hình như cả hai đều thấy tựa hồ có một lối mòn đưa thẳng, thẳng mãi về hướng một cánh đồng xa diệu vợi để rồi khuất hẳn bên kia chân trời.

....Yôko mở cái cửa cổng vòm và đứng đợi bên lề đưòng. Đó là một ngày đầu mùa hạ năm Shôwa 18 (1943). Bởi vì nơi đây hơi xa trung tâm Tôkyô nên khả năng bị dội bom có lẽ cũng ít hơn, nhà cửa chưa phải sơ tán và chủ nhân những ngôi nhà đó cũng không vội ra đi. Hố phòng không nếu đào thì cũng chỉ làm cho có nên cái hầm tránh bom nằm theo chiều ngang và rất kiên cố mà bà của Yôko cho đào ở một bên hòn giả sơn đã là đầu mối cho sự ganh tỵ và cười cợt trong chòm xóm. Nói cách khác, khi nhìn thấy một cái hầm tránh bom kiên cố như thế, ngược lại, thiên hạ chỉ cảm thấy lo lắng thêm. Có lẽ những người xấu miệng kháo nhau là cái hầm an toàn đó nay mai sẽ thành kim tỉnh đựng tro cốt của bà già chính là những kẻ đang lo sợ cho sự an toàn của bản thân hơn cả.

Yôko đứng trước cửa cổng vòm. Thay vì mặc quần dài - cái cô ghét - bên dưới cái áo kiểu lính thủy cộc tay, Yôko mặc thêm một chiếc váy xếp nếp thẳng li lai. Trước ngực, cô thắt một giải "nơ" trắng, mỗi khi gió thổi, nó ngập ngừng không dám bay lên như cả thẹn vì sợ phải làm phồng ngực áo. Hai cánh tay trần của cô trắng muốt, nhìn mà cứ ngỡ là hai giải lụa lấp lánh ánh sáng. Dù mùa hè đã đến mà chúng vẫn giữ màu trắng như tuyết tàn đọng lại.

Rốt cuộc, bóng Sugio với chiếc áo mặc để làm việc mang trên tay, áo sơ-mi trắng và quần dài bó lại trong đôi ghệt, đã thấy từ trên dốc đi xuống. Hai đứa vui mừng đưa ngay hai bàn tay còn đẫm mồ hôi ra bắt lấy nhau.

Lúc đó hoa đỗ quyên hầu như mãn khai chung quanh đình hóng mát. Trắng có, hồng tươi có. Hoa cánh nhiều màu pha lẫn vào nhau cũng có. Ngoài tiếng ong vo ve như hơi thở nhẹ của người đang chìm trong giấc ngủ trưa, con đường lát sỏi vắng vẻ của ngôi đình chỉ in rợp bóng thẫm của những lùm đỗ quyên im ắng. Ở một nơi như vậy, không ai có thể ngờ rằng mình đang sống giữa thời buổi chiến tranh.

Hai đứa ngồi bên nhau trên chiếc ghế dài làm bằng loại ván thô đóng thuyền, cùng đưa mắt nhìn dõi về mặt sông xa sáng lóa trong cái nắng của buổi chiều tháng năm. Thoáng thấy một sợi dây cần câu ve vẩy trong không gian, nhưng khi vừa ánh lên thì nó chợt biến mất. Sugio đặt câu hỏi:

- Em có nhìn thấy cá không?

- Không, anh!

- Anh cũng không. Dám chắc cái mà mình thấy giống như con mòng là cái phao thôi.

Thế rồi hai đứa cùng tưởng tượng ra khuôn mặt bí xị của ông thợ câu vừa bắt hụt cá và cười như nắc nẻ. Sau tiếng cười dòn chỉ còn cái im lặng của một tấm kính dễ vỡ. Và hai đứa đều hiểu lý do gì đã khiến cho chúng phải trầm ngâm.

Ngoài xa, trên khung trời rộng, những đám mây tản ra rồi cuộn vào nhau tạo thành hình thù những đoá hoa diên vỹ (iris). Vượt lên khỏi màu xanh của bờ bên kia là màu vàng của những cái ghế gắn trên một guồng xe quay để dạo chơi giữa không trung, đang được treo lơ lửng một cách lạ lùng. Chúng có vẻ như nôn nao chờ đợi một ai đó từ trên trời giáng hạ. Từ khi chiến tranh đến hồi khốc liệt, máy móc đủ loại trong khu giải trí này đều đã phải ngưng hoạt động để tiết kiệm điện. Hôm ấy đúng là một ngày tạnh ráo nên khung trời rộng ra và xanh ngăn ngắt. Bầu trời ở Tôkyô nếu có thể xanh như thế, đêm đến lại trong vắt và đầy sao như thế, cũng là vì kỹ nghệ sản xuất không còn phấn chấn làm cho bụi khói trong khu vực thủ đô giảm đi nhiều. Tuy nhiên hãy còn lý do khác nữa. Vẻ đẹp của thiên nhiên trong giai đoạn trận chiến sắp tàn này đã làm ta tự hỏi phải chăng có sự góp sức âm thầm của linh hồn những người đã chết để tạo ra. Thiên nhiên có đẹp là vì được chăm bón bằng cái chết. Nếu vào giai đoạn cuối cuộc chiến mà bầu trời cứ đẹp và xanh ngăn ngắt như thế này, chẳng phải cũng bởi vì màu xanh trong những khu mộ địa càng ngày càng mượt mà óng ả hay sao?

Thực thế, phong cảnh hai đứa đang nhìn ngắm đang được bao trùm bằng ánh sáng huy hoàng của sự chết. Mỗi viên cuội dưới lòng sông dường như đều mang hình ảnh ấy. Như thế, hai người anh em họ trẻ trung, đầy sức sống, đã đâu đôi cánh của chúng lại, cùng lắng tai nghe tiếng trái tim hai đứa đang đập mạnh. Tiếng vọng họ nghe từ trái tim của người bên cạnh như có cùng một nhịp điệu, ăn khớp với tiếng đập của trái tim mình làm sao! Làm như hai người là một sinh vật duy nhất trên mặt đất này mà đôi tim cùng chung nhịp đập vậy.

Giữa lúc này, những điều họ suy nghĩ cũng chỉ là một. Thế nhưng khi họ chưa nói thành lời thì nó đã trôi qua cho nên hai người vẫn không hề hay biết về điều người kia đang ấp ủ trong đầu. Về phần Sugio, anh nghĩ: "Người con gái mày chắc có một đôi cánh và bây giờ cô đang chực bay lên đấy. Chuyện này mình không thể lầm được!". Yôko thì lại nghĩ như sau: "Người con trai này nhất định phải có đôi cánh. Khi anh ấy bất chợt ngoái đầu nhìn lại phía sau lưng thì không phải vì muốn xem có ai đang đi đến hay không đâu! Như hồi học tiểu học, nhiều khi học trò phải quay đầu lại kiểm soát cái cặp đựng sách vở đeo trên lưng, anh cũng bất chợt quay nhìn nơi có đôi cánh quen thuộc đang mọc ra đấy thôi. Anh ấy làm sao che mắt mình được!"

Việc xác nhận được điều đó trong ý nghĩ của mình làm cho hai đứa vừa vui nhưng cũng vừa buồn. Nói cách khác, nếu chúng để mặc cho sức mạnh nội tại của tình yêu cổ vũ thì ngay tức khắc cả hai đã có thể cùng nhau bay bổng đến bất cứ đến một khung trời nào trong tầm mắt – như từ nơi đây đến tận bên kia bờ của con sông xa tắp kia. Khi nghĩ như vậy thì việc mang đôi cánh đã nhuộm được một chút màu sắc hiện thực lên những ý tưởng viễn mơ của chúng. Thế nhưng cả hai đều tin rằng chỉ người kia mới là kẻ có đôi cánh trên vai, và họ thấy khó nói làm sao cho người mình yêu hiểu về sự mất mát khi người ấy cất cánh bay đi để mình phải ở lại. Hai đứa hầu như đoan chắc rằng người mình yêu một ngày nào đó sẽ ra đi và không còn ở bên cạnh nữa.

Sugio bảo:

- Tuần sau anh phải rời Tôkyô đấy!

- Sao vậy anh?

- Lao động quân sự ở thành phố M.

- Trong quân xưởng ấy à?

- Ở một nơi đóng máy bay.

Yôko tưởng tượng Sugio sẽ đi đến một nơi người ta chế ra nhiều đôi cánh. Cậu bị bắt buộc trình bày mẫu mã chế tạo cho công nhân lao động ở đó xem. Nếu thế thì cậu chỉ cần đem đôi cánh trắng to lớn lấp lánh sẳn có trên vai ra cho họ là đủ. Sau đó, chắc phải đến giai đoạn thực nghiệm, trình bày những tính năng của đôi cánh. Cậu hẳn phải phải bay một vòng cho họ xem thử chứ. Có khi phải ngừng lại một chốc trong không trung. Rồi còn vẽ bảng thiết kế nữa! Như khi đo ni tấc để làm mẫu, người ta chắc sẽ đo cả ni tấc đôi cánh. Tuy nhiên đó là một đôi cánh thiên nhiên nên không ai có thể chế được một cách hoàn hảo. Chắc người ta sẽ nhìn cậu với cặp mắt đầy đố kỵ. Rồi họ sẽ bắt cậu bay thử thêm một lần nữa. Cậu bay. Lúc đó họng súng sẽ ngắm ngay vào đôi cánh của cậu. Cánh của cậu sẽ nhuộm đầy máu và thân xác cậu rơi thẳng xuống. Như một con chim bị đạn, trong chốc lát, đôi cánh ấy sẽ đập cuồng loạn khi cậu ngã lăn chiêng trên mặt đất. Cậu sẽ chết... Đôi mắt cậu không còn động đậy, chúng chứa chất sự u ẩn của một con chim nhỏ bị người ta giết.

Nghĩ đến đấy, Yôko cảm thấy bất an và muốn ngăn Sugio lại nhưng cô thừa biết làm sao mình có thể để chuyện ấy không thể xảy ra. Cô lo lắng hỏi thăm chừng nào hai đứa lại có dịp gặp nhau. Lúc đó, để cô vững bụng, Sugio mới cho biết là mỗi tháng một lần nhằm ngày nghỉ, dù chỉ ngắn ngủi thôi nhưng hai đứa sẽ tìm ra cơ hội.

Cậu hẳn phải bay thử một vòng cho họ xem

Thực ra, trong lòng Sugio, sự tiếc nuối là mình đã không thực hiện được điều mong muốn buổi đầu nào có kém nỗi buồn chia tay. Mùa hạ còn chưa tới. Cứ nhìn chiến sự bây giờ thì việc lấy được một ngày hè để đi tắm biển là điều không ai dám chắc. Lại nữa, mối liên hệ hãy còn rụt rè giữa hai người khiến cho Sugio không sao có được cơ hội kiểm soát cái chỗ Yôko mang đôi cánh trên người.

Thấy dáng điệu lúng túng của Sugio khi định mở miệng nói điều chi nhưng lại cứ chần chờ, Yôko đâm ra hiểu theo một cách khác. Hay là anh ấy định thú thực với mình là ảnh đang có cô nào, nếu không phải điều đó thì hẳn là... cái điều chưa nghĩ tới mình đã đủ mắc cỡ. Chắc chắn chỉ một trong hai thôi. Thế nhưng cách phỏng đoán nào cũng làm cho cô bé không cảm thấy hài lòng. Cô làm mặt giận, cứ ngồi làm thinh.

Cái điều Sugio mở miệng nói ra sau đó là điều cô không hề chờ đợi. Vẫn cái giọng bình thường mỗi ngày, anh phát ra một câu nói tỉnh tuồng giống như đang làm thói quen là đưa mũi giày đá lăn những hòn sỏi dưới chân:

- Hay là hai đứa mình qua thăm bà đi em.Mấy lần anh muốn lên bà nhưng lại ngượng nên không dám gặp, bỏ về mất. Coi bộ lâu lắm anh sẽ không có dịp gặp bà.

- Vậy thì tốt quá! Để em thưa bà là trên đường về em tình cờ gặp anh và kéo anh cùng đến chơi, nghen? Thế nào bà cũng mừng lắm.

Cô bé vui vẻ làm lành và trả lời như thế.

Hai người quay lại nhìn về phía ngôi nhà thì thấy trên ống khói, thỉnh thoảng có vài đợt khói mỏng bay lên. O-Tetsu đang đun nước tắm cho bà. Cứ hai ngày một bận, sau khi ngủ trưa dậy, bà có thói quen ngâm mình trong bồn tắm. Không hiểu lời đề nghị của Sugio có liên quan gì đến việc những làn khói nhẹ đang tỏa lên bầu trời xanh hay không, ai mà biết được!

Bà của chúng vừa mới thức dậy sau giấc trưa. Cạnh bên gối bà nằm hãy còn đặt sấp một cuốn tiểu thuyết của Kyôka [4] mới xuất bản lần đầu. Bìa sách trông thật đẹp với hình ảnh một đóa hoa phù dung to tướng in kiểu tranh khắc gỗ. Bà ngồi bệt xuống giường tiếp hai đứa, trên vai khoác một chiếc áo thêu màu xanh lam trông rất nhã. Bên cạnh bà và ngay trên sàn là cái bàn thấp bày nón sắt và bị vải dày để trùm đầu phòng khi phi cơ oanh tạc. Nếu ngay giữa ban đêm mà có còi hụ báo nguy thì bà sẽ lấy cái bị trùm lấy đầu, đội nón sắt lên trên rồi nằm mọp dưới sàn, mở ra-đi-ô theo dõi tin tức.

- Lâu lắm bà mới gặp lại Sugio đấy nhé! Ngoảnh đi ngoảnh lại mà cháu đã ra dáng đàn ông rồi. Cháu thì có xinh trai đấy nhưng chưa bằng ông chúng mày ngày xưa đâu đó. Cháu chỉ đẹp tàm tạm thôi nghe. Còn con Yôko cũng vậy. Cháu chỉ trên bình thường một nấc. Nhưng như thể đã đủ. Cũng như đi xin xăm, nên tránh xin quẻ Đại Cát. Nhìn nét mặt, bà thấy các cháu là những kẻ biết phải trái, như vậy là có được quẻ Cát rồi đấy.

Bà nói vui như thế rồi phá lên cười.

Hai cô cậu quay mặt lại nhìn nhau. Thế nhưng khi bà quan sát thấy ánh mắt long lanh của Sugio và Yôko thì lại nói thêm:

- Ôi chao, hai đứa bay coi bộ khắng khít với nhau quá rồi mà còn muốn dấu cả bà à. Anh em họ như bay thì dễ phải lòng nhau. Thôi, dẹp chuyện đó qua một bên là tốt hơn nghe các con. Bà cũng không ngờ Sugio lại có thể đi yêu con bé ranh này. Cháu phải kiếm cô nào xinh xắn cỡ bà mới được nha con. Nhưng trên đất Nhật này chắc không có người thứ hai đẹp như bà đâu!

Bà chẳng tiếc lời tấn công tới tấp làm Sugio thiếu điều muốn lỉnh đi cho nhanh; thế nhưng bà đã cắt để chia phần chiếc bánh bông lan mà Yôko vừa mang lại khiến cậu phải nấn ná ở thêm. Vừa khi đó O-Tetsu xuất hiện, báo cho bà hay là nước tắm vừa đủ nóng. Bà đi tắm trước tiên, sau đến phiên Sugio rồi cuối cùng là Yôko. Lúc đầu Yôko không định bụng đi tắm nhưng vì Sugio bảo mình cũng đi nên cô bắt chước theo. Trong một tình huống đột ngột như thế này, cô gái nào cũng không quên chiều ý người cô thương. Qua hành động bắt chước, cô nàng như muốn biểu lộ tình yêu của mình. Đó là đặc điểm làm ta phân biệt được rõ ràng tình cảm của một thiếu nữ như cô nếu đem so sánh với một người đàn bà ở tuổi trung niên.

Sugio và Yôko hơi bối rối khi phải giao đầu với nhau ở cánh cửa vào buồng tắm. Sugio ra ngoài, ngồi xuống bên hàng hiên của gian tiền đường trước cửa phòng tắm và đưa mắt nhìn lên bầu trời đang từ từ ngả bóng chiều. Có tiếng động cơ của một đơn vị máy bay trinh sát bay về căn cứ rền lên từ xa.

Giờ đây, chắc Yôko đã cởi bỏ cái áo tay ngắn kiểu lính thủy nên thế nào những vùng da thịt trắng nuột hơn cả hai cánh tay trần của cô cũng đang in lên trên tấm kính trước mặt. Chắc giờ đây đôi cánh của cô đang bị hơi nước nóng phủ mờ và thấy như đuợc quét lên trên bằng một lớp sơn trắng óng ả. Có lẽ cô đang quì trên tấm ván dùng để gạn nước làm bằng gỗ trắc bá, đôi cánh co rụt lại vì hổ ngươi. Nếu như Sugio xuất hiện vào lúc này ngay nơi đó thì nhất định sẽ làm cô thẹn thùng đến độ làm ửng hồng như có màu ánh hừng đông đang nhuộm lên tận đầu mút của đôi cánh ấy.

Sugio không khỏi xua đuổi ý tưởng có lẽ đây là dịp may cuối cùng để cậu có thể nhìn thấy đôi cánh của Yôko. Cậu đứng ngồi không yên, cuối cùng bật dậy và ra chỗ đằng trước phòng tắm; chần chừ ở dó một đỗi rồi đi qua đi lại dọc hành lang, tự giận mình sao mà mình thiếu can đảm đến thế.

Cánh cửa làm bằng kính mài ráp của gian phòng tắm vì đẫm hơi nước nên từ từ đổi qua màu trắng đục như sữa, tựa màu của mặt hồ vào buổi sáng. Có tiếng róc rách như tiếng sóng nhỏ táp vào kè đá vọng lại từ bên trong phòng tắm. Cuối cùng cô gái cũng từ cái bồn bằng gỗ bước ra. Cô không ngờ rằng cánh cửa kính thô ráp nửa trong nửa đục đang làm lộ những đường nét vàng kim trên thân thể không che đậy của mình. Yôko xoay qua xoay lại, nhanh tay lau da thịt cho khô. Trong khi đó, Sugio chăm chú theo dõi động tác của đôi cánh tuy nhiên hơi nước mờ mờ không cho phép cậu thấy những đường nét rõ ràng hiện ra sau từng động tác đó. Cậu chỉ mường tượng như có một vầng sương mù, một đôi cánh trắng hư ảo đang treo lên trên bờ vai nhỏ nhắn. Thế mà Sugio tin rằng cậu đã thấy được đôi cánh ấy.

......... Gần một năm trời trôi qua kể từ ngày hôm đó. Sugio vẫn chưa nhìn thấy được đôi cánh của Yôko. Cơ hội gặp gỡ của họ cũng hiếm. Tuy nhiên hai kẻ yêu nhau vẫn không lơi là việc trao đổi thư từ. Hai cô cậu hứa sẽ yêu nhau và còn thề thốt cho tương lai. Thành thực mà nói, họ chỉ mới thề thốt mà thôi. Những lời ước nguyện của hai đứa trẻ trong trắng kia nếu chôn lấp được, để cho nỗi lo âu của thế giới và của thời đại không thể lan rộng ra, thì sẽ khiến cho ta có cảm tưởng rằng, giống như khi dùng vữa hồ để đặt được từng viên gạch một lên nhau một cách vững vàng, ta sẽ xây lên được một mái nhà kiên cố và ấm cúng một ngày nào đó. Hai đứa trẻ này không có một sức mạnh nào khác. Đứng trước một nỗi lo lắng, chúng chỉ có thể phóng ra một câu nói. Như cách những người dân bán khai sắp sửa bị tiêu diệt phải nương tựa vào thần chú, hai đứa chỉ còn biết gửi lòng tin vào ma lực của những lời thề thốt vô hiệu quả [5].

Trong một trận oanh tạc vào tháng ba năm sau, Yôko đã chết.Lúc đó, trường của cô gửi đám nữ sinh lên một tòa nhà thuộc trung tâm thành phố để giúp đỡ quân đội lo một số công chuyện. Trên con đường đến chỗ làm, cô tử nạn vì trúng bom.

Nhóm của cô còn có ba người bạn khác nhưng mỗi một mình cô là ăn mặc áo cộc tay kiểu lính thủy với cái váy có đường nếp thật thẳng thớm. Trong khi cả bọn vừa bước ra khỏi nhà ga gần trung tâm thành phố thì bất chợt có vài hồi còi báo động vang lên. Ba người bạn vội vàng nhảy xuống cái hào tránh bom gần nhất mà họ thấy. Thế nhưng không hiểu sao Yôko lại chậm chạp và lạc lối đằng sau. Từ trong bờ hào, giữa bom nổ đạn bay, mấy người bạn gào lên gọi tên Yôko. Rốt cuộc họ thấy cô xuất hiện và đang băng qua con đường lớn lúc đó chợt sáng rõ, im ắng, không có một bóng ma. Cô gái đang gấp rút chạy đến một nơi ẩn nấp và khi chỉ còn khoảng hai mươi mét nữa là tới đích thì một mảnh bom đã đánh trúng cô từ phía sau lưng.

Yôko bị bom cắt mất đầu. Cô gái dù mất đầu vẫn tiếp tục quì trên mặt đường, và như được một sức mạnh lạ lùng nâng lên nên không chịu ngả. Duy, hai cánh tay xòe ra như đôi cánh, đập lên đập xuống tất bật...

Nghe được tin này, Sugio than thở khôn cùng, cậu chỉ muốn chiến tranh giết chết cả mình cho xong. Thế nhưng cũng như bao nhiêu người vẫn tiếp tục sống, Sugio hãy còn sống cho đến bây giờ. Tốt nghiệp đại học xong, cậu trở thành nhân viên mẫn cán trong một hãng buôn.

Sugio không hề hay biết là Yôko đã từng tin rằng cậu cũng mang một đôi cánh sau lưng. Về đôi cánh của Yôko thì thực sự cậu tin chắc chắn chúng hiện hữu. Yôko đã chết để cho điều cậu tin là có bằng cớ.

Một buổi sáng, đi xuống con dốc rất đứng ở trước mặt nhà về hướng đại lộ nơi xe điện đường chạy qua chạy lại vào một buổi sáng mùa thu nắng đẹp, Sugio có cảm tưởng như có ai đang đặt một bàn tay trên bờ vai mình. Cậu quay lại nhìn nhưng không thấy bóng dáng nào cả. Cậu thử sờ lên vai. Vẫn hoàn không. Thế nhưng không hiểu vì sao kể từ hôm ấy, cậu cảm thấy trên vai có cái gì nằng nặng. Cậu lắc đầu với vẻ ngờ vực, lắc vai rồi lại bước tiếp.

Lần đầu tiên Sugio có cảm tưởng mình đang đeo một đôi cánh trên vai là đúng vào ngày hôm đó. Dù vậy cậu không nhận ra chúng là những cái cánh. Những người khác chung quanh cậu, có lẽ vì quá bận rộn cũng không nhận ra nốt. Chỉ có cái cậu nhân viên hãng buôn chân chỉ, lầm lì này phải khổ sở vì vai mình căng cứng một cách lạ lùng, mỗi ngày mang hai cái cánh đồ sộ và vô tích sự mà đến sở làm. Một lao động đáng buồn cười như thế mà bản thân cậu ta cũng không nhận thức được, cứ việc sáng sáng đeo theo đôi cánh phất phơ đến hãng, chiều chiều phất phơ đeo chúng về nhà. Hầu như cậu không bao giờ đi một đường chổi phủi bụi cho nó nên đôi cánh kia đã ố bẩn đi, lông cánh xám xỉn giống như cánh của một con chim nhồi rơm.

Mang đi rồi cứ thế mà mang về. Hai món đồ đòi hỏi biết bao nhiêu là cố gắng vô ích này có hình thù như thế nào, Sugio cũng không biết nữa. Nếu chỉ cần không có đôi cánh ấy thôi thì có lẽ cuộc đời của cậu cũng phải nhẹ nhỏm đi đến bảy phần mười. Đeo đôi cánh để mà bước trên mặt đất quả là không tiện chút nào.

Mùa xuân đã đến. Từ hôm qua Sugio phải cởi áo choàng.

Nói thế chứ dù đã bỏ áo choàng nhưng vai cậu vẫn còn đau cứng như có vật gì nặng trĩu tụ lại bên trên.

Sự thực là đôi cánh đáng bực mình mà cậu không thể thấy được đang bíu lấy cái vai như có một com chim ưng đứng bất động trên đó, đưa đôi mắt nhìn ngang khuôn mặt của cậu một cánh trang nghiêm.

.... Rồi sẽ có hay chăng một người biết khuyến cáo Sugio về điều mà cậu không hề lưu ý là, đôi cánh trên vai tiếp tục làm một trở ngại kín đáo cho con đường tiến thân của mình và để nhắc cậu rằng cần phải vứt bỏ chúng đi?

Đăng trên Tạp chí Bungakukai số tháng 5 năm Shôwa 26 (1951)

Dịch xong ngày 15 tháng 4 năm 2016

Tư liệu tham khảo:

1) Mishima Yukio, Tsubasa (tr. 100-117) trong Manatsu no shi (Chết giữa mùa hè), 1970, Tuyển tập truyện do tác giả tự chọn, Shinchôsha xuất bản, ấn bản lần thứ 57, Tôkyô, 2013. Nguyên tác.

2) Marc Mécréant (thuộc Groupe Kirin) dịch Mishima Yukio, Les ailes (Tsubasa, trang 21-36), trong Les ailes, la grenade, les cheveux blancs et 12 autres récits, Editions Picquier, Paris. Bản tham chiếu.

3) Hình ảnh mượn từ Internet.

Chú thích:

[1] - Serge: ( phiên âm là séc hay xẹt ) tiếng từ gốc Hòa Lan để chỉ một loại vải đặc biệt dệt bằng sợi bông vải và tơ lụa để mặc cho mát trong mùa hè.

[2] - William Blake (1757-1827), thi nhân và họa gia người Anh, khuynh hướng lãng mạn và thần bí nhưng để lại nhiều tùy bút và nghị luận phê bình xã hội sâu sắc.

[3] - Ở Nhật, có lẽ vì lý do an toàn, trong nhà con cái trai hay gái đều đi tắm trong bồn nước o-furo chung với cha hay mẹ cho đến một lứa tuổi nào đó.

[4] - Kyôka: Izumi Kyôka (1873-1939), nhà văn khuynh hướng duy mỹ, chuyên viết truyện kinh dị huyền ảo.

[5] - Đoạn này có thể phản ánh tư tưởng "ngôn linh" (kotodama) trong văn hoá Nhật Bản, vốn tin vào sức mạnh của ngôn từ.