Chú Thích
.
[1] Ở Nhật, có lẽ vì lý do an toàn, trong nhà con trai hay gái đều đi tắm trong bồn nước o-furo chung với cha hay mẹ cho đến một lứa tuổi nào đó.
[2] Izumi Kyôka (1873-1939): Nhà văn khuynh hướng duy mỹ, chuyên viết truyện kinh dị huyền ảo.
[3] Maurice de Vlaminck (1876-1958): Họa sĩ người Pháp thuộc phái Dã thú (fauvism) nổi tiếng cùng với Derain và Matisse.
[4] Tên thân mật để gọi Hiroshi.
[5] Koiso Kuniaki (1880-1950): Đại tướng Lục quân, Thủ tướng Nhật giai đoạn cuối chiến tranh Thái Bình Dương.
[6] Tiếng gọi yêu Michiko.
[7] Tiết Tiểu xuân (koharu): Khoảng thời gian ngắn vào cuối thu, trời bỗng ấm trở lại một cách đặc biệt.
[8] Lối nhuộm với mô hình và màu sắc tinh vi dưới thời Genroku (1688-1704) được nghệ nhân Miyazaki Yuuzensai hoàn thành.
[9] Onnagata (Nữ hình): Nam diễn viên chuyên thủ vai nữ trong tuồng Kabuki.
[10] Đường hoa (hanamichi): Phần đường chạy từ bên trái trung tâm nhà hát xuyên qua chỗ ngồi của khán giả và nối với sân khấu chính, được sử dụng làm lối ra vào của nhân vật, nơi nhân vật độc thoại trước khán giả, hoặc thể hiện các cảnh ngoài diễn biến chính.
[11] Thần Inari hay còn gọi là thần Cáo, là vị thần bảo hộ cho nông nghiệp, thương nghiệp, các thợ rèn, gạo, rượu sake và trà. Thần Inari thường được mô tả là bán nam bán nữ.
[12] Nịt bụng (haramaki): Nịt bọc quanh bụng làm bằng vải hay len để cho ấm và còn dùng như túi đựng đồ (tiền lẻ, thuốc lá...), đi chung với kimono hay quần áo ta.
[13] Đồng lương khá lớn trong bối cảnh thập niên 1950.
[14] Một tsubo bằng khoảng chừng 3,3m 2 .
[15] Tức bài Un bel di vedremo , ca từ đại ý: Vào một ngày nắng đẹp. Bên kia chân trời có vệt khói hiện ra. Có phải con thuyền của người ấy đã về? Con thuyền với cánh buồm thật trắng. Tiếng súng chào mừng vọng lại từ xa. Có thấy chăng người ấy đã về?
[16] Tức bà Cát Tường Thiên Nữ hay Sri-Mahadevi, nữ thần trong thần thoại Ấn Độ, vợ của Vishnu, dung nghi diễm lệ, đoan trang. Cũng được xem như một nữ thần trong Phật Giáo.
[17] Ignacy Jan Paderwski (1860-1941): Nguyên Thủ tướng, nhà soạn nhạc và nhạc sĩ dương cầm người Ba Lan. Làm Thủ tướng được mười tháng thì từ chức để theo đuổi nghệ thuật.
[18] Enrico Caruso (1873-1921): Ca sĩ giọng nam cao (tenor) người Ý trên sân khấu opera.
[19] Fyodor Ivanovich Chaliapin (1873-1938):Ca sĩ giọng nam trầm (bass) người Nga trên sân khấu opera.
[20] Beniamino Gigli (1890-1957): Ca sĩ giọng nam cao người Ý trên sân khấu opera.
[21] Lối nói “thế hệ Meiji” để chỉ những người còn giữ đạo đức truyền thống, so với lớp người theo mới của thời Taisho đến sau.
[22] Hoa văn vuông vắn hai màu xanh và trắng như ô bàn cờ. Tương truyền đó là hoa văn trên quần áo mà kép hát nổi tiếng Sonokawa lchimatsu (1722-1762) mặc trên sân khấu Kabuki vào khoảng năm 1741.
[23] Nguyên văn “o-mamagoto no toshi”, cái tuổi thơ ngây còn nấu cơm với lò bếp, chén bát bằng đồ chơi.
[24] Sandro Botticelli (1445-1510): Danh họa Ý thời Phục Hưng sống ở Firenze, được gia đình Medicis bảo trợ. Nổi tiếng vì các bức tranh có chủ đề thần thoại.
[25] Madonna: Ban đầu dùng để chỉ riêng Thánh mẫu Maria, sau chỉ chung những người đàn bà đẹp (nguyên văn tiếng Ý).
[26] Venus: Nữ thần tượng trưng cho tình yêu và nhan sắc của La Mã, tương đương với nữ thần Ái tình Aphrodite của Hy Lạp. “Dáng dấp ngoại đạo” khi đem so sánh với Thánh mẫu Maria.
[27] Walter Horatio Pater (1839-1894): Nhà phê bình và viết tiểu luận người Anh, người có uy tín về mỹ thuật sử thời Phục Hưng.
[28] Tsuyu (mai vũ): Mùa mưa dầm ở Nhật vào tháng Năm âm lịch.
[29] Thành phố biển và trung tâm du lịch nằm gần Yokohama, phía nam Kyoto.
[30] Thái Bình Ký (Taiheiki): Tiểu thuyết lịch sử Nhật Bản ghi lại giai đoạn biến loạn tranh giành vào thời trung cổ Nhật Bản. Gồm 40 quyển, tương truyền do nhà sư Kojima Hôshi viết khoảng 1368-1375 hay 1375-1379.
[31] Ikkaku Sennin (Nhất Giác Tiên Nhân), còn gọi là Ikkasen (Nhất Giác Tiên) hay Dokkakusen (Độc Giác Tiên): Người được xem như là một tiền thân của Đức Phật. Người nước Bà La Nại bên Ấn Độ, vốn do nai sinh ra trong rừng, đầu có một sừng. Tu thiền định lâu năm nên có pháp thuật. Vì oán hận nhà vua nên vị này làm cho trời hạn hán. Sau bị một dâm nữ do nhà vua gửi đến quyến rũ làm mất phép thần thông. Từ đấy mưa lại chan hòa. Sự tích này đã thành đề tài cho vở tuồng Nô của Konparu Zenchiku (1405- khoảng 1470).
[32] Còn gọi là Suufukuji (Sùng Phúc Tự): Một ngôi chùa cổ xây từ năm 668 bên cạnh kinh đô khi đó còn là Nara. Một trong mười ngôi chùa lớn đương thời nhưng nay không còn dấu tích.
[33] Triều đại Trung cổ Nhật Bản dài khoảng 400 năm.
[34] Tư tưởng cho rằng có một thế giới thanh tịnh cực lạc thiên biến vạn hóa ở Tây phương, nơi có Phật A Di Đà và chư Phật. Con người nếu tu hành có thể thác sinh về đấy. Bắt đầu ở Trung Quốc, sau trở thành một phái tôn giáo ở Nhật với giáo tổ là tăng Hônen (Pháp Nhiên, 1133- 1212).
[35] Ôjô Yôshuu: Sách nhà Phật, gồm ba quyển do tăng Genshin (Nguyên Tín, 942-1017) trứ tác, hoàn thành năm 986, khuyên người niệm Phật để được vãng sinh cực lạc.
[36] Hay Eshin Sôzu, tên thường dùng để gọi tăng Genshin, cao tăng phái Tendai (Thiên Thai), từng du học bên Trung Quốc.
[37] Già lăng tần gia (âm Phạn ngữ Kalavinka): Là thú đầu người mình chim, có giọng hát ngọt ngào, sống ở trên đỉnh Tuyết Sơn hay cõi cực lạc.
[38] Do Tuần (âm Phạn ngữ Yojana): Đơn vị đo lường thời cổ Ấn Độ. Một do tuần rộng từ 7 đến 9 dặm Anh.
[39] Tức Tu Di Sơn (Shumisen - âm Phạn ngữ: Sumeru): Là đỉnh núi ở trung tâm thế giới của nhà Phật, có Đế Thích và Tứ Thiên Vương cai trị, vây xung quanh bởi bát sơn bát hải. Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao lại quay vòng bên ngoài.
[40] Thủy Quán Tưởng: Chữ nhà Phật dùng để chỉ sự tập trung tinh thần để suy nghĩ về dòng nước trong trên cõi Tịnh Độ. Đây là phép quán tưởng thứ 2 trong số 16 phép (thập lục quán) được giảng trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh.
[41] Kyôgoku (Kinh Cực): Tên một khu vực và cung điện trong thành Kyoto. Thường ám chỉ gia đình quyền thần và ngoại thích Fujiwara no Michinaga, đời đời có nhiều con gái gả cho các Thiên Hoàng.
[42] Trượng có hình đầu chim bồ câu (câu trượng) để mừng người trên 80 tuổi vì bồ câu là giống chim ăn không bị hóc.
[43] Kabuki: Tên một loại hình biểu diễn nghệ thuật sân khấu của Nhật Bản.
[44] Quyển này đã được Tao Đàn xuất bản năm 2020 với tựa Khao khát yêu đương .