Chương 3
Một bên tường thư viện làm toàn bằng cửa sổ, với hàng dãy ô kính, ô này kế sát ô kia, lắp bên trong những khung đá hình trái xoan. Mặc dù vậy, khung cảnh vẫn tối tăm, vì ánh dương sắp tàn, những hàng cây nặng nề phủ bóng. Dưới sàn phòng, thảm trải không khắp, để lộ ra nền nhà lát đá. Dọc theo bức vách, những kệ sách to nặng san sát đứng kề nhau, nom như tầng bậc trong hầm mộ. Chút nắng tàn chiếu ánh sáng xanh qua cửa, bóng từng ô kính in trên nền, trải dài đến bên bàn, nơi nguyên cáo đang rời ghế đứng lên.
Molly sau này thú nhận: Lúc cánh cửa mở, tim nàng nhảy khỏi lồng ngực, tự hỏi kẻ đứng đằng sau liệu có giống chồng mình như khuôn đúc hay chăng. Hóa ra, hai bên chả giống gì nhau lắm.
Kẻ ấy cũng cỡ Farnleigh, song người không đanh bằng. Tóc y đen mượt, chưa bạc, nhưng hơi hói trên đỉnh. Da y ngăm, mày râu nhẵn nhụi, mặt còn căng, tương đối không nếp nhăn. Cặp mắt y xám đen, lông mày phía cuối hơi xếch. Từ y toát ra một vẻ ung dung, châm biếm, như đang thích thú một điều gì. Khi nếp nhăn xuất hiện trên trán, hay quanh mắt y, đấy là biểu hiệu thích thú hơn là căng thẳng. Y ăn vận lịch sự, theo lối thành thị, tương phản với bộ đồ vải tuýt cũ kĩ của Farnleigh.
“Xin ngài thứ lỗi,” y lên tiếng.
Ngay giọng nói cũng khác. Y nói giọng trung, còn Farnleigh giọng cao, nghe chói và gắt. Dáng đi của y không đến nỗi khập khiễng, nhưng hơi lóng ngóng.
“Xin ngài thứ lỗi,” tuy nói rất trịnh trọng, y nhìn xéo kiểu châm biếm, “thứ lỗi cho tôi vì cứ nhất quyết đòi về nhà cũ. Tôi có nguyên do của tôi, rất mong ngài hiểu. Xin giới thiệu vị đại diện pháp lí bên phía tôi, ông Welkyn.”
Welkyn, một lão béo, mắt hơi lồi, từ trước đã đứng lên phía bên kia bàn, song không ai để ý. Nguyên cáo nói xong thì ra vẻ thú vị ngắm nghía mọi người. Y nhìn khắp phòng, như thể nhận ra, muốn nuốt lấy từng kỉ vật ngày xưa.
“Vào thẳng công việc nhé,” Farnleigh nhanh chóng đề nghị. “Burrows chắc ông từng gặp rồi. Đây là ông Page, còn kia là vợ tôi.”
“Tôi từng…” nguyên cáo ngần ngừ giây lát, đoạn nhìn thẳng Molly, “gặp vợ ngài. Mạn phép ngài, tôi không biết phải gọi bà ấy thế nào. Không thể gọi phu nhân Farnleigh. Gọi Molly như ngày xưa, khi nàng còn cài nơ trên tóc, cũng không được.”
Vợ chồng chủ nhân không nói gì. Dẫu vẫn bình tĩnh, mặt Molly ửng hồng. Mắt nàng thoáng lộ vẻ căng thẳng.
“Ngoài ra,” nguyên cáo tiếp lời, “còn phải cảm ơn ngài. Việc khó xử, khó chịu thế này, nhưng ngài tiếp nhận thật là nhã nhặn.”
“Không đâu,” Farnleigh đốp chát. “Cái việc quỷ này làm tôi điên lắm chứ, chắc ông cũng thừa hiểu. Nếu luật sư không bảo cần xử trí cho khéo, tôi đã tống ông khỏi nhà từ lâu. Được rồi, nói đi. Ông có gì để nói nào?”
Welkyn bước khỏi bàn, hắng giọng lấy hơi. “Thân chủ tôi ngài John Farnleigh…” lão bắt đầu.
“Khoan đã!” Burrows nhẹ nhàng ngăn lại. “Cho phép tôi đề nghị, để cho thuận tiện, hãy gọi thân chủ ông bằng một tên khác. Ông ấy đã xưng danh Patrick Gore.”
Brian Page nghe có tiếng huýt nhẹ. Thế là búa rìu tư pháp đã bổ, các nhà giám định đã xắn tay áo lên, buổi nói chuyện được đẩy về cao trào.
“Nếu thế thì…” Welkyn đáp, “tôi sẽ gọi đơn giản là ‘thân chủ’ thôi. Như vậy ổn chứ?”
“Tuyệt.”
“Xin cảm ơn. Tôi có nơi đây,” Welkyn mở cặp, “bản đề xuất của thân chủ. Thân chủ tôi muốn chuyện gì cũng phải công bằng. Trước hết, cần chỉ ra rằng vị trang chủ hiện tại không có quyền hợp pháp đối với tước hiệu và điền trang. Tuy vậy, thân chủ tôi thấu hiểu hoàn cảnh đưa đến sự giả mạo. Ông cũng thừa nhận trang chủ đã quản lí tài sản tốt, không những không làm tổn hại, mà còn đem thêm tiếng thơm cho dòng họ Farnleigh.
“Do đó, nếu trang chủ chịu rút lui thì chúng ta sẽ không cần ra tòa, không cần khởi kiện gì cả. Thậm chí, thân chủ tôi còn chấp nhận đền bù về tài chính cho trang chủ: Mỗi năm 1.000 bảng cho tới trọn đời. Thân chủ tôi cũng xác định rằng vợ của trang chủ, nhũ danh Mary Bishop, có quyền thừa kế phần của mình. Vì vậy, không có vấn đề tranh chấp tài sản với bà ấy. Dĩ nhiên, nếu bà ấy muốn xét lại tính hợp pháp của hôn nhân thì…”
“Chúa ơi!” máu lại trào dưới mắt Farnleigh. “Lũ trắng trợn, mặt dày…”
Nathaniel Burrows làm tiếng động gì đó, quá lễ độ, chưa thể coi là tiếng xùy, nhưng cũng đủ khiến Farnleigh dừng lời.
“Thưa ông Welkyn,” Burrows nói, “theo tôi biết thì chúng ta gặp nhau ở đây để xác định nhân thân của thân chủ ông. Việc ấy chưa xong thì chưa thể bàn việc khác.”
“Xin chiều ý.” Welkyn khinh khỉnh nhún vai. “Thân chủ tôi chỉ muốn tránh việc khó xử. Trong vài phút nữa, ông Kennet Murray sẽ đến, kết quả sẽ rõ ràng, không còn nghi ngờ. Nếu trang chủ vẫn giữ thái độ ngoan cố, tôi e hậu quả sẽ là…”
“Thôi nào,” Farnleigh lại xen vô, “bớt nói dông dài, đến thẳng chỗ ngựa [*]đi.”
“Mọi người thấy không? Nói ‘ngựa’ chứ không nói [*]‘ựa’. Đóng giả quý tộc riết rồi nhập tâm luôn”. Nguyên cáo nhận xét bông đùa đầy ẩn ý. Y mỉm cười, khiến hai mắt xích lại gần nhau.
“Ít nhất thì ảnh cũng không làm trò mạt hạng, sỉ nhục người khác.” Molly can thiệp.
“Tôi nói có điều không phải. Xin bà miễn chấp.” Nguyên cáo hơi đỏ mặt, đổi giọng. “Bà nhớ cho rằng tôi từng ở nơi xấu xa, bên cạnh đâu có suối Bồ [*]Câu. Quý vị cho phép tôi tự mình trình bày sự việc chứ?”
“Được,” Farnleigh nói, rồi quay qua hai luật sư. “Hai ông giữ yên lặng, đây là vấn đề cá nhân.”
Không ai bảo ai, mọi người cùng trở lại bàn và ngồi xuống. Nguyên cáo quay lưng về phía cửa sổ lớn. Y trầm tư một lúc, lơ đãng giơ tay vỗ lên phần hơi hói trên đỉnh đầu. Rồi y ngước lên, mắt nheo lại vẻ nhạo báng.
“Tôi là John Farnleigh,” y giản dị mở lời, giọng điệu dường như chân thật. “Làm ơn đừng chơi trò pháp lí để ngắt lời tôi. Giờ là phần tôi trình bày, tôi muốn tự xưng Đại Hãn tộc Thát Đát cũng chẳng sao. Nhưng thật tình, chính tôi là John Farnleigh. Tôi sẽ kể hết cho quý vị nghe những chuyện xảy ra.
“Hồi bé, tôi là một thằng lợn, mặc dầu bây giờ nhìn lại, chưa hẳn tôi đã sai. Người cha quá cố của tôi, Dudley Farnleigh, nếu bây giờ còn sống, chắc ổng với tôi vẫn hục hặc như trước. Không, tôi không sai đâu, nhưng lẽ ra tôi nên biết nhượng bộ, chịu thỏa hiệp hơn. Tôi cãi nhau với các bậc trưởng thượng, vì họ chỉ ra tôi còn bé dại. Tôi cãi nhau với các thầy, bởi coi thường những môn mình không thích.
“Vào thẳng vấn đề, quý vị đã biết vì sao tôi rời quê. Tôi đi cùng thầy Murray trên con tàu Titanic. Ngay từ ngày đầu, hễ có thể là tôi chui xuống ngồi với các hành khách đi vé hạng bét. Chả phải thích thú gì họ, chẳng qua tôi không ưa đám cùng đẳng cấp với mình nơi khoang hạng nhất. Nói đây không phải để bào chữa, chỉ là một lí giải tâm lí mà có lẽ quý vị cũng thấy hợp tình.
“Tại khoang hạng bét, tôi gặp, và cảm thấy thích một cậu bé mang hai dòng máu Anh và Romania, trạc cỡ tuổi tôi, đang trên đường đến Mỹ một mình. Bố nó là quý ông người Anh, chơi hoa xong thì quất ngựa truy phong. Mẹ nó là gái Romania, cũng ở Anh, nhậu nhẹt suốt ngày, khi nào tỉnh thì làm vũ công múa rắn, thành viên một đoàn xiếc lưu động. Rồi cũng đến ngày rắn thật không chịu chơi chung với rắn rượu, và bà ta mất việc, bị đẩy xuống làm đầu bếp bán thời gian trong lều xiếc hỗn độn. Đứa bé trở nên mối phiền toái. Một người hâm mộ cũ của mẹ nó lúc ấy đang làm ăn hơi khá khẩm với gánh xiếc ở Mỹ. Thế là bà ta khăn gói gửi nó cho người này.
“Nghe kể mà tôi ghen tị, cứ tưởng tượng đến một ngày nó sẽ được dạy cách chạy xe đạp trên dây, và đủ trò khác nữa. Thánh thần rồng rắn ơi, lúc đó tôi ghen với nó biết chừng nào! Liệu những người đầu óc bình thường có trách tôi không nhỉ?”
Nói đến đây, nguyên cáo hơi nhúc nhích trên ghế, nhìn về sau dường thoáng vẻ hoài nghi, song vẫn không giấu được nét tự mãn trên mặt. Không ai khác cử động. Lão Welkyn lịch thiệp đang định bình luận hay đề nghị điều chi đó, nhưng sau khi quan sát khắp mọi người thì lại thôi.
“Oái ăm là,” diễn giả nói tiếp, mắt nhìn xuống móng tay, “cậu bé cũng ganh với tôi. Tên thật của nó khó đọc lắm. Nó đổi tên thành Patrick Gore vì thích âm hưởng mấy chữ này. Nó không thích đời diễn xiếc, ghét các động tác, ghét sự đổi thay, ghét những xáo xào, huyên náo. Cọc lều vừa đóng xuống ban tối, đến sáng đã phải dỡ lên; đi ăn thì chen chúc, lãnh cùi chỏ vô mặt. Nó chán ngán cảnh ấy.
“Nó là một thằng ranh luôn giữ mặt lạnh, kín đáo và lịch thiệp; chẳng biết học được từ đâu. Lần đầu gặp gỡ, tôi và nó lao vô đánh nhau, cả nửa khoang phải xông vào can. Trong khi tôi cáu kỉnh đến độ muốn vớ dao bấm xử ngay nó, nó bình thản chào tôi rồi quay đi. Bây giờ tôi vẫn đang thấy nó đây. Bạn ơi, tôi muốn nói đến bạn đấy.”
Y nhìn lên Farnleigh.
“Không thể nào,” Farnleigh đưa tay vuốt trán, đột ngột lên tiếng, “không thể là thật. Quả là ác mộng. Nghiêm túc đấy à? Ông muốn nói…”
“Đúng thế,” người kia bật ngón tay quyết đoán. “Ta đã cùng bàn: Nếu đổi vai cho nhau thì thích biết bao. Dĩ nhiên, lúc đó chỉ là mộng mơ. Bạn nói không đổi được đâu, nhưng trông mặt bạn như đang muốn giết tôi để giành địa vị. Thật tình, tôi nói vậy chứ nào muốn đổi, chỉ bạn là muốn thôi. Tôi từng kể cho bạn về bản thân. Tôi bảo ‘Nếu bạn gặp cô tớ, bà X hay anh họ tớ, thằng Y, thì phải nói với họ thế này này…’ Tôi còn ra oai với bạn đủ điều, mà bây giờ tôi chả muốn nhớ nữa: vì tôi không định biện hộ cho hành động của mình hồi xưa. Lúc đó cũng như bây giờ, tôi đều cho bạn là tên kẻ cắp. À, tôi cho bạn xem cả nhật kí. Tôi luôn viết nhật kí, đơn giản vì chẳng có ai để nói chuyện cùng. Giờ tôi vẫn viết.”
“Nhớ tôi không, Patrick?” Nguyên cáo lại ngẩng lên, với ánh nhìn gần như kì quái. “Bạn có nhớ cái đêm tàu Titanic bị chìm?”
Bốn bề yên tĩnh.
Khuôn mặt Farnleigh không lộ vẻ giận, mà chỉ bối rối.
“Đã nói rồi,” ngài bảo, “ông là đồ điên.”
“Khi tàu đâm vào băng,” nguyên cáo kể chi tiết, “tôi sẽ kể cụ thể các vị nghe tôi làm gì. Tôi và Murray già tội nghiệp ở chung buồng, nhưng chỉ mình tôi trong buồng, còn Murray đang chơi bài ở phòng hút thuốc. Trong túi áo khoác của Murray có ve rượu brandy. Tôi vớ uống thử, vì ngoài quầy, đời nào họ chịu bán cho.
“Lúc va chạm, tôi hầu như không cảm thấy gì. Chắc mọi người cũng vậy. Chỉ rung rất nhẹ, chẳng đủ làm li cocktail trên bàn sánh ra ngoài. Nhưng rồi động cơ đều dừng. Không hiểu sao lại dừng, tôi bước ra hành lang, chỉ nghe tiếng người ồn ào, ngày càng lớn và tiến tới gần. Một bà bỗng chạy ngang qua, la hét ầm ĩ, quấn ngang vai tấm mền màu xanh.”
Nguyên cáo ngưng nói. Từ đầu buổi đến giờ, mới thấy y tỏ ra do dự.
“Thảm kịch ngày xưa nhắc lại làm chi,” tay y cứ mở rồi lại nắm. “về tình huống lúc đấy, tôi chỉ nhắc lại thế này: Tôi không sợ chút nào, mà còn thích thú. Chúa tha thứ cho con, con chỉ là con nít mà thôi. Sở dĩ khoái, vì đó là điều lạ, khác hẳn những sự thông thường hằng ngày. Đời tôi luôn kiếm tìm cái bất thường như thế. Giữa cơn hưng phấn cao độ, tôi quyết định đồng ý đổi vai với Patrick Gore. Trong một phút, tôi bỗng tràn ngập quyết tâm. Còn Gore thì chắc nó suy tính đã lâu rồi.
“Tôi gặp Gore, tức là tôi gặp bạn đấy,” y cao giọng, lại nhìn gia chủ chằm chằm, “tại boong B. Tất cả tài sản của bạn nằm trong cái túi rơm nho nhỏ. Bạn bảo tôi với giọng khá bình thản rằng tàu đang chìm, và chìm nhanh; nếu tôi thật sự muốn đổi thân phận, có thể làm ngay giữa cảnh hỗn loạn (Đương nhiên, còn phải chờ xem có sống sót được không). Tôi hỏi: ‘Còn Murray thì sao?’ Bạn nói dối Murray đã văng xuống biển chết. Tôi hứng chí muốn làm diễn viên xiếc đại tài, nên chúng ta đổi mọi thứ cho nhau: quần áo, giấy tờ, nhẫn đeo tay. Bạn cầm theo cả nhật kí của tôi.”
Farnleigh im không nói.
“Sau đấy,” nguyên cáo giữ nguyên giọng điệu, “trông bạn rất bảnh. Chúng ta cùng chạy ra chỗ xuồng cứu hộ. Bạn đã chôm được của nhân viên chiếc vồ bằng gỗ. Tôi vừa quay lưng, liền bị bạn cầm vồ quật vô sọ, không chỉ một lần, mà những ba lần cho chắc ăn.”
Farnleigh vẫn lặng câm. Molly đứng lên, song thấy chồng ra dấu, bèn ngồi lại như cũ.
“Cứ yên tâm,” nguyên cáo phẩy tay, như muốn phủi bụi khỏi bàn, “tôi không đến để kết tội bạn chuyện ấy. Hồi xưa bạn còn bé, và 25 năm đã qua rồi, dù rằng chẳng biết ngày nay đã lớn, bạn có thay đổi hay không. Bản thân tôi cũng bị coi là đứa chẳng ra gì. Có thể bạn khinh tôi, và cho rằng mình có lí do để làm như vậy. Nhưng tôi đã chấp nhận đổi vai cơ mà, đâu cần phải kĩ lưỡng thế chứ? Tôi là con chiên ghẻ của gia đình, song cũng không đến nỗi đen tối như bạn.
“Bây giờ, tôi kể bạn nghe phần còn lại. Nhờ số hên, tôi bị thương mà không chết, được đưa lên chiếc xuồng cuối cùng. Danh sách nạn nhân ban đầu không rõ ràng, và nước Mỹ lại quá rộng lớn, nên suốt một thời gian, tôi như sống trong bóng tối. Cả John Farnleigh lẫn Patrick Gore đều bị xem là mất tích. Tôi và bạn đều ngỡ nhau đã chết. Rồi Boris Yeldritch, ông chủ gánh xiếc, tìm tới. Ông chưa gặp bạn bao giờ, nhìn giấy tờ và vật tùy thân thì tưởng tôi là Patrick Gore.
“Tôi vui vẻ đi theo gánh xiếc, tự nhủ lòng mình nếu mai mốt không thích nữa, chỉ việc tiết lộ thân phận cũ là xong; trải qua cơn chết đi sống lại, có lẽ sẽ được gia đình yêu thương hơn. Cứ nghĩ đến viễn cảnh ấy là tôi lại vui. Tôi ăn được ngủ được, vì đã có trong tay quân bài tủ để phòng hờ.”
“Thế,” Molly dường lộ vẻ thú vị, “ông có trở thành diễn viên đạp xe trên dây không?”
Nguyên cáo quay nhìn sang bên, cặp mắt xám đen ánh lên nét khoái trá ngầm, nom chẳng khác một cậu bé ma lanh. Y lại giơ tay xoa chỗ hói trên đầu.
“Không đâu. Mặc dù vừa diễn đã thành công, tôi lại làm trò khác. Trò gì thì chưa thể tiết lộ lúc này. Đó là bí mật tuyệt hảo của tôi. Vả lại, tôi không muốn kể quá chi tiết, kẻo lại nhàm tai bà.
“Quý vị tin tôi đi. Tôi luôn dự tính một ngày sẽ trở về quê cũ. Chà, con chiên ghẻ tưởng đã mồ yên, nay bỗng trở về kêu be be, mọi người hẳn sẽ kinh ngạc lắm. Tại Mỹ, tôi đã thành công. Thề có các thánh, tôi đã thành công. Ông anh Dudley mà thấy tôi như thế ắt phải tức nghẹn họng. Tuy nhiên, thứ gì tốt nhất thì ta chưa vội xài, mà thích để dành, nên có lần đã ghé Anh, nhưng tôi vẫn không tìm gặp ai. Tôi không hề biết thằng ‘John Farnleigh’ còn sống. Cứ tưởng là chết rồi, chứ đâu biết nó đang phơi phới ở Colorado.
“Khoảng sáu tháng trước, tình cờ mở tờ họa báo, tôi thấy đăng ảnh ngài John và phu nhân Farnleigh. Chắc quý vị cũng tưởng tượng được tôi ngạc nhiên chừng nào. Báo cho biết Dudley đã chết vì ngốn quá nhiều cá mút đá, quyền thừa kế được chuyển cho ‘người em’. Thoạt tiên, tôi nghĩ vì đường sá xa xôi, báo đưa tin bị nhầm, sau dò hỏi mới rõ ra sự thật.
“Ồ, quý vị biết đấy, tôi mới là người thừa kế cơ mà. Tôi còn trẻ, còn mạnh, nhưng không mang hận thù đâu. Chuyện cũ đã nhạt nhòa, một thế hệ mới đã lớn lên. Thằng nhỏ mất dạy dùng vồ đập tôi để giành địa vị, ngày xưa giữa tôi và nó từng sẻ chia nhiều kỉ niệm đẹp. Vả chăng nghe nói, giờ đây nó cũng là một công dân tốt. Hàng cây ngoài kia không đổi, song tôi đã đổi thay. Giữa căn nhà xưa, tôi thấy lạ lùng, sượng sạo. Rồi đây, sẽ phải đảm nhiệm chức vụ bảo trợ cho đội cric-kê hay hướng đạo sinh địa phương, chưa biết có làm tốt hay không. Song như quý vị cũng đã thấy, tôi khoái nói, khoái đọc diễn văn, nên chắc cuối cùng cũng ổn thôi.
“Vậy đó, Patrick Gore, bạn đã nghe đề xuất của tôi. Như vậy là rộng lượng lắm rồi. Tôi cảnh báo: Nếu mọi việc mà ra đến tòa, bạn không khỏi bị lột da đâu. Về phần quý vị, ai đã từng biết tôi, muốn hỏi gì xin cứ hỏi. Tôi cũng có một vài câu hỏi của riêng mình đây. Thách bạn Gore dám trả lời.”
Giọng nguyên cáo như mang sức mạnh thôi miên. Y ngừng đã lâu, căn phòng tối vẫn lặng yên. Mọi người đổ dồn nhìn về Farnleigh. Chủ nhân đứng lên, tay đặt trên bàn, ngắm nhìn vị khách. Khuôn mặt ngăm đen của ngài hiện lên vẻ lạ, thanh thản và nhẹ nhõm. Ngài đưa tay vuốt ria mép, gần như nở môt nụ cười.
Trông thấy nụ cười kia, Molly hít một hơi sâu.
“Anh muốn nói điều gì sao, John?” nàng hỏi.
“Ừ. Anh không biết tại sao hắn đem câu chuyện này đến đây, hoặc muốn kiếm chác cái gì. Những gì hắn nói, từ đầu đến đuôi, đều là giả cả.”
“Ngài định chiến à?” nguyên cáo tỏ vẻ quan tâm.
“Dĩ nhiên là chiến rồi, đồ lừa. Mày muốn chiến thế nào, tao cho thế ấy.”
Lão Welkyn hắng giọng thật to, định can thiệp, nhưng bị nguyên cáo can ngăn.
“Không, không,” y nói ung dung. “Đừng dính vô, Welkyn ạ. Luật sư các ông rất giỏi về các khoản ‘xét rằng’ hay ‘hành động cẩn trọng’, nhưng trong cuộc xung đột cá nhân kiểu này thì không có đất dụng võ đâu. Nói thật, tôi bắt đầu khoái rồi đấy. Ta làm vài phép thử nhé. Phiền gia chủ cho mời quản gia vào có được không?”
“Nhưng Knowles đâu có…” Farnleigh cau mày.
“Thì cứ theo lời hắn đi anh!” Molly ngọt ngào.
Farnleigh nhìn nàng. Nếu trên đời có cái nghịch lí gọi là sự hài hước không hài, thì cái đấy thể hiện rõ trên khuôn mặt ngài. Ngài bấm chuông gọi Knowles, người bước vào với vẻ hoang mang y hệt lúc nãy. Nguyên cáo ngó Knowles đăm đăm.
“Vừa đến đây, tôi đã cho rằng tôi nhận ra ông,” y nói. “Ông ở đây từ hồi cha tôi còn sống phải không?”
“Gì ạ, thưa ngài?”
“Ông ở đây từ hồi cha tôi, ngài Dudley Farnleigh, còn sống, có phải không?”
Farnleigh bỗng lộ nét căm phẫn.
“Cứ thế này không lợi cho ông đâu,” Nathaniel Burrows thình lình chen ngang. “Thời ngài Dudley Farnleigh, quản gia là Stenson, ổng đã qua đời…”
“Vâng, tôi biết chứ,” nguyên cáo đảo mắt sang bên, đoạn lại nhìn viên quản gia. Y ngồi xuống chỗ cũ, bắt chéo chân một cách nặng nề. “Ông tên Knowles. Thời cha tôi, ông ở Frettenden, làm quản gia cho vị đại tá già Mardale. Ông lén nuôi hai con thỏ mà đại tá không biết. Hai con thỏ ở trong một góc nhà xe, gần vườn cây. Một con tên là Billy.” Chợt y ngước mắt lên: “Hãy hỏi chủ ông con kia tên gì?”
Mặt Knowles chuyển sang hồng.
“Hỏi đi chứ?”
“Mẹ!” Farnleigh nổi cáu, song vội trấn tĩnh ngay.
“Ồ, không trả lời được hả?”
“Tao không thèm trả lời.”
Đáp xong, thấy sáu cặp mắt dồn vào mình, Farnleigh cảm nhận sức ép, liền đổi thái độ, gần như lắp bắp: “25 năm rồi, ai mà nhớ tên con thỏ? Được rồi, được rồi, coi nào. Tên chúng nó vớ vẩn lắm thì phải. Để nghĩ đã. Billy và W… à, không đúng. Billy và Silly, đúng không? Hình như thế.”
“Đúng rồi, thưa ngài,” Knowles nhẹ nhõm trả lời.
“Thử lại nào.” Nguyên cáo không biến sắc. “Một tối mùa hè, một năm trước khi tôi đi, ông băng ngang vườn cây để đưa tin cho hàng xóm. Ông kinh ngạc, choáng váng khi thấy tôi đang ân ái với một cô bé độ 12, 13 tuổi. Hỏi chủ ông xem cô bé tên gì?”
“Tôi chẳng nhớ chuyện đó.” Farnleigh sầm mặt nặng nề.
“Ngài đang giả bộ vì lịch sự nên không nói ra ư? Không, bạn ơi, làm trò đó không xong đâu. Chuyện xảy ra lâu rồi, tôi lấy lời danh dự bảo đảm không ai bị tổn thương. Knowles, ông nhớ chuyện vườn táo chứ?”
“Thưa ngài,” Knowles nhăn nhó, “tôi…”
“Ông nhớ, nhưng chủ ông thì không, vì nếu không nhầm thì tôi đã không ghi chuyện đó trong nhật kí. Nào, cô ấy tên gì?”
“Thôi được,” Farnleigh gật đầu, cố gắng nhẹ giọng, “đó là cô Dane, Madeline Dane.”
“Madeline Dane…” Molly thốt lên.
Lần này nguyên cáo mới giật mình. Y đảo mắt nhìn quanh. Trực giác của y dường như cũng ứng biến theo.
“Ắt hẳn cô ấy đã viết thư đến Mỹ cho ngài,” Y nói. “Lần này phải đi sâu hơn. Nhưng trước tiên, mong ngài bỏ quá cho. Hi vọng tôi không vừa làm điều dại dột chứ? Nếu cô Dane vẫn sống ở đây thì tôi đã làm ngài khó xử mất rồi?”
“Mẹ mày,” Farnleigh chợt quát, “Tao chịu đủ rồi, không nhịn được nữa đâu nhé. Làm ơn cút ra khỏi đây đi.”
“Không, tôi phải vạch mặt trò phỉnh của bạn đã. Chỉ là trò phỉnh bạn ơi, bản thân bạn cũng biết. Thêm nữa, chúng ta đã đồng ý đợi Kennet Murray tới mà.”
“Murray tới đây…” Farnleigh cố gắng nói cho mạch lạc, “thì giải quyết được điều gì? Có chứng minh được gì không, ngoài những câu hỏi vớ vẩn mà chúng ta dường như đều biết câu trả lời? Mà thật ra nãy giờ mày chỉ bịp chứ biết gì đâu. Tao cũng có thể hỏi những câu nhảm nhí như mày, nhưng nó chả nói lên điều chi cả. Bằng cách nào chứng minh một việc thế này? Mày nghĩ mày có thể chứng minh à?”
Nguyên cáo ngồi lùi về sau, khoan khoái tận hưởng vị trí của mình.
“Bằng chứng cứ vân tay không thể chối cãi,” y nói.
↩︎ Nguyên văn: “Cut the cackle and get down to the horses.” Đây là một thành ngữ, nghĩa là: “đừng nói nữa, hãy vào thẳng vấn đề.”
↩︎ Nguyên van: osses. Chữ ngựa (số nhiều) trong tiếng Anh, giới bình dân thường đọc “osses”. Quý tộc thì phát âm chuẩn là horses.
↩︎ Nguyên văn: I have dwelt among wicked ways, and hardly by the springs of Dove”, lấy ý từ hai câu thơ của William Wordsworth: She dwelt among the untrodden ways, beside the springs of Dove (Nàng ở nơi hẻo lánh, bên cạnh suối Bồ Câu).