Chương 5
Trong khoảng vài giây, hai bên không nói gì, chờ xem hành động của nhau. Thế rồi mỗi người ứng xử một kiểu. Farnleigh hơi nhún vai, như thể không thèm tranh cãi việc này, song cũng ra dấu, gật đầu, nở nụ cười gượng. Giọng Murray không mang sức mạnh gì, nhưng nguyên cáo sau khi ngần ngừ một thoáng, đã mở lời với thái độ ân cần kín đáo.
“Xin chào thầy Murray,” y nói.
Brian Page quá biết thái độ của học sinh đối với thầy giáo cũ. Anh cảm thấy cán cân sự thật đột ngột nghiêng về Farnleigh.
“Ờ, ai đó giới thiệu tôi đi chứ,” Murray nhìn quanh, nói giọng vui vẻ.
Đang tỏ vẻ hờ hững, Farnleigh phải đứng ra giới thiệu mọi người. Ai nấy đều ngầm chấp thuận, để Murray giữ vai “trưởng lão” trong phòng, mặc dù thầy trẻ hơn Welkyn nhiều. Phong thái Murray quả thật rất trưởng thượng, có hơi lơ đãng, song tinh anh và đáng tin. Thầy ngồi xuống đầu bàn, quay lưng lại hoàng hôn, trịnh trọng rút cặp kính “con cú”, gọng đồi mồi, đeo lên mắt để trông rõ từng nhân vật.
“Nếu bình thường gặp, không thể nhận ra cô Bishop hoặc ông Burrows,” thầy nói. “Ông Welkyn đây thì đã biết sơ. Lâu lắm rồi tôi mới có được kì nghỉ thật sự, đều nhờ sự hào phóng của ông.”
Welkyn nghĩ đã đến phiên mình cầm trịch, đi thẳng vào vấn đề. Lão đắc ý lên tiếng.
“Đúng vậy. Thưa ông Murray, thân chủ tôi…”
“Ồ, từ từ, từ từ…” Murray hơi gắt. “Nói theo kiểu ngài Dudley ngày xưa: Cho tôi thở cái, rồi tôi bảo cho nghe.”
Thầy thở thật, hít sâu vài ba lần, đoạn nhìn quanh, trước khi chú mục vào hai nhân vật chính.
“Dính vào vụ này rắc rối to đây. Người ngoài chưa ai biết chứ?”
“Thưa chưa,” Burrows đáp. “Chắc ông cũng chưa nói với ai?”
“Tôi đành nhận lỗi,” Murray nheo mày. “Tôi đã kể cho một người. Nhưng nếu nghe tên người ấy, chắc quý vị không phản đối. Đó là tiến sĩ Gideon Fell, bạn già của tôi, ngày xưa cũng từng dạy học. Ông hay làm công tác điều tra, chắc quý vị từng nghe. Tôi gặp Fell khi ghé ngang London.”
“Nhân tiện, tôi xin báo trước,” Murray vẫn giữ vẻ hiền từ, nhưng cặp mắt lác màu xám bỗng sáng quắc, sinh động hẳn lên, “Có thể chính tiến sĩ Fell cũng sắp đến đây. Quý vị hẳn biết ngoài tôi ra, tại quán Bò Và Đồ Tể còn có một người hay tò mò, hỏi thăm các thứ?”
“Gã thám tử tư chứ gì?” Farnleigh hỏi liền, khiến nguyên cáo lộ vẻ ngạc nhiên.
“Ngài cũng tin thế à? Anh ta là thanh tra chính thức của Scotland [*]Yard. Vụ này cũng do tiến sĩ Fell đầu têu đấy. Tiến sĩ bảo: Cách tốt nhất để che giấu thân phận thanh tra là hãy hành xử như một thám tử tư.” Tuy vẫn để mắt dè chừng, trông Murray hứng chí hẳn lên. “Ông giám đốc cảnh sát hạt Kent đã báo Scotland Yard, nên họ đang quan tâm đến cái chết của cô Victoria Daly tại đây vào hè năm ngoái.”
Thật là tin giật gân!
Nathaniel Burrows có vẻ rối lên, làm một động tác gì đó rồi nói:
“Cô Daly bị một tên lang thang giết chết. Tên lang thang sau cũng chết, khi đang chạy trốn.”
“Hi vọng đúng như vậy. Tôi cũng chỉ nghe loáng thoáng lúc đang nói chuyện với tiến sĩ Fell về vụ nhập nhằng nhân thân này. Tiến sĩ khá quan tâm… Mà nào, cậu John…”
Giọng Murray lại trở nên sắc và đục (nếu từ “đục” có thể dùng diễn tả giọng nói). Ngay bầu không khí trong phòng dường như cũng hồi hộp chờ đợi. Nguyên cáo và Farnleigh cùng gật đầu. Page nhận thấy gia chủ hơi đổ mồ hôi trên trán.
“Làm nhanh cho xong có được không?” Farnleigh yêu cầu. “Chơi trò mèo vờn chuột mãi chẳng hay ho đâu, thầy Murray. Không hay gì, mà cũng chẳng phải phong cách của thầy. Nếu thầy có dấu vân tay thì đem ra đây, chúng ta cùng xem.”
Cặp mắt Murray mở to rồi thu hẹp lại, có vẻ bực mình.
Giọng thầy đĩnh đạc đầy vẻ chuyên nghiệp, pha thêm châm biếm: “Tôi giữ kín, để dành nó, té ra quý vị biết rồi. Xin cho tôi hỏi: Ai là người đoán được trước tiên tôi sẽ dùng cách này?”
“Em cho rằng vinh dự đó thuộc về em,” nguyên cáo vừa đáp vừa lướt mắt khắp phòng dò hỏi. “Bạn Patrick Gore bảo sau đó cũng nhớ ra, nhưng lại nói thầy dùng miếng thủy tinh để lấy vân tay.”
“Đúng thế còn gì.”
“Nói láo.” Nguyên cáo đột ngột đổi giọng, khiến Page nhận ra bên trong lớp vỏ tà đạo nhưng mềm mỏng, tính y cũng nóng nảy và bạo động.
“Thưa ông,” Murray đảo mắt lên xuống, “Tôi không có thói quen…”
Như trở về làm học trò bé dại, nguyên cáo có vẻ muốn thối lui, xin thầy tha lỗi. Nhưng rốt cuộc, y kịp kìm chế, mặt mày dãn ra, lấy lại bộ điệu nhạo báng thường lệ.
“Em lại nhớ khác, để em nhắc thầy nghe. Thầy lưu vân tay em trong Sách Dấu Tay. Thầy mua đến mấy cái như thế ở Tunbridge Wells. Trong cùng một ngày, thầy lấy vân tay của em và anh Dudley.”
“Không sai. Tôi có đem theo Sách Dấu Tay với đầy đủ vân tay đây.” Murray đồng ý, vỗ lên chiếc áo khoác thể thao đang mặc, chỗ túi ngực.
“Vậy em đúng, nó sai.”
Không khí quanh bàn bỗng dưng đổi khác.
“Nhưng mà,” Murray nói tiếp, vẻ không lưu tâm. “Những lần đầu tiên, tôi lại thí nghiệm trên mấy miếng thủy tinh nhỏ.”
Đến đây, giọng thầy lại càng sắc bén và bí hiểm hơn. “Thưa ông, vì ông là nguyên cáo đứng ra đòi quyền lợi, ông phải trả lời tôi một vài câu hỏi. Nếu ông thật là ngài John Farnleigh, thì có những điều chỉ ông và tôi biết với nhau thôi. Ngày ấy, ông đọc đủ loại sách. Ngài Dudley phải lập ra một bản kê, giới hạn các sách ông được phép đọc. Chắc ông cũng phải nhận ngài ấy sáng suốt. Mỗi lần xem xong sách, ông không bao giờ tiết lộ cảm xúc hay nhận định cho người khác hay. Chả là có lần ngài Dudley từng chế giễu ý tưởng của ông. Ngài ấy chả có ác ý gì, nhưng từ đó, dẫu có tra tấn, ông cũng không mở miệng nữa. Chỉ có với tôi là ông chia sẻ. Ông còn nhớ không?”
“Vẫn nhớ rất rõ,” nguyên cáo đáp.
“Vậy làm ơn nhắc lại cho tôi: Sách nào ông thích nhất, ấn tượng nhất?”
“Sẵn sàng,” nguyên cáo nhướng mắt lên. “Hễ cứ truyện Sherlock Holmes, truyện của [*]Poe, truyện ma, truyện liên quan đến cướp biển, giết người, lâu đài cổ… là em thích. Tu viện và lò [*]sưởi này, Bá tước Monte [*]Cristo này, Bắt [*]cóc này, Chuyện hai thành [*]phố này…”
“Được rồi,” Murray chưa bị thuyết phục. “Vậy sách nào ông ghét nhất?”
“Các cuốn chết tiệt của Jane Austen và George [*]Eliot, cùng loại sách giả nhân giả nghĩa dành cho học sinh, đề cao ‘thanh danh nhà trường’ hay đại loại thế. Bên cạnh đó là truyện loài vật, và sách hướng dẫn, dạy cách chế tạo hoặc vận hành đồ cơ khí. Xin nói thêm rằng: Ngay tới bây giờ, em vẫn giữ nguyên quan điểm ngày xưa.”
Brian Page bắt đầu cảm tình với nguyên cáo.
“Hãy nói qua chuyện các cô cậu nhỏ thời ấy,” Murray tiếp tục. “Chẳng hạn, bé Molly Bishop, tức phu nhân Farnleigh hiện tại. Nếu ông là John Farnleigh, ông còn nhớ mình từng đặt biệt danh cho cô bé là gì?”
“Con [*]di-gan,” nguyên cáo đáp ngay.
“Vì sao?”
“Vì Molly da ngăm, lại hay chơi với mấy đứa nhóc di-gan cắm trại bên kia cánh rừng.”
Nói đoạn, y cười, ghé mắt ngó Molly đang giận dữ.
“Còn ông Burrows đây, ông đặt biệt danh là chi?”
“[*]Uncas.”
“Lí do?”
“Vì khi chơi Điệp Viên hay các trò tương tự, nó có thể chui qua bụi cây mà không gây tiếng động.”
“Cảm ơn. Và giờ đến phiên ngài.” Murray quay sang bên, soi kĩ Farnleigh như thể gia chủ ăn vận không tề chỉnh. “Tôi không muốn ngài cho rằng tôi chơi trò mèo chuột. Trước khi lấy vân tay, tôi chỉ hỏi ngài một câu duy nhất. Vân tay sẽ là bằng chứng tối hậu, nhưng câu hỏi này cũng đủ cho tôi đi đến kết luận cho riêng mình. Câu hỏi như sau: Sách Đỏ Appin là gì?”
Thư viện đã gần tối mịt. Tuy hơi nóng vẫn còn, gió nhẹ bắt đầu thổi. Gió động cành cây, luồn vào phòng qua vài ô cửa sổ đang mở. Farnleigh gật đầu, nở nụ cười u ám, khó chịu. Ngài lấy cây bút chì vàng trong túi, xé giấy trong sổ, viết vài chữ lên, đoạn gập giấy lại, đẩy qua cho Murray.
“Thật ra em chẳng quan tâm đến nó,” ngài nói rồi hỏi lại. “Trả lời như thế có đúng chưa?”
“Rất đúng,” Murray gật gù, đoạn chuyển hướng qua nguyên cáo. “Thưa ông, phiền ông trả lời cùng câu hỏi.”
Lần đầu tiên, nguyên cáo tỏ vẻ hoang mang. Hết nhìn Farnleigh, y ngó Murray với nét mặt lạ lùng. Page không rõ nét mặt ấy nói lên điều chi. Không nói không rằng, nguyên cáo vẫy tay, ra hiệu cần viết. Nhận bút và sổ từ Farnleigh, y ghi hai, ba chữ, rồi cũng xé giấy, đưa nộp Murray.
“Bây giờ, thưa quý vị,” Murray đứng dậy, “đã đến lúc lấy vân tay. Tôi có đem theo cuốn Sách Dấu Tay, đã cũ lắm rồi. Còn đây là hộp mực và hai tấm thẻ trắng. Ai đó làm ơn bật đèn với.”
Molly bước tới, mở công tắc điện bên cạnh cửa. Trên trần thư viện có chiếc đèn chùm nhiều lớp, làm bằng hợp kim sắt. Thay vì nến như xưa, trên đèn gắn nhiều bóng điện nhỏ. Chỉ có một số bóng hoạt động, nên tuy đèn bật mà phòng vẫn không sáng lắm. Tuy vậy, bóng tối cũng đã lùi xa. Ánh điện rọi ra cửa sổ rồi phản chiếu ngược lại, soi sáng những cuốn sách trên kệ cao, khiến chúng trông càng kì dị hơn.
Murray đặt dụng cụ lên bàn. Mọi người cùng nhìn vào Sách Dấu Tay, thấy nó là cuốn sách nhỏ, cũ xì, bìa bằng giấy xám lâu ngày đã sờn. Tựa sách in chữ đỏ, bên dưới là hình ngón tay cái to, cũng màu đỏ.
“Bạn già của tôi đấy,” Murray vỗ lên sách. “Thưa quý vị, khi lấy dấu, nếu lăn tay sẽ tốt hơn in phẳng. Tuy nhiên, tôi không đem con lăn, vì muốn dùng đúng phương pháp nguyên thủy. Có một dấu để so sánh thôi, nên tôi chỉ cần lấy vân từ ngón cái tay trái. Đây là khăn tay, một đầu tẩm benzen. Hãy dùng nó để lau mồ hôi tay. Rồi thì…”
Trong lúc Murray lấy vân tay, không hiểu tại sao, Page cảm thấy quả tim như nhảy khỏi lồng ngực. Không riêng mình anh, mọi người đều rơi vào trạng thái xúc động bất thường. Farnleigh nhất quyết xắn tay áo trước khi điểm chỉ, như thể sắp phải thử máu; nguyên cáo thì dùng khăn lau nhanh tay rồi mới nghiêng người in vân. Luật sư hai bên đều đứng há hốc mồm. Điều khiến Page ấn tượng nhất là hai nhân vật chính đều tỏ ra tự tin. Trong đầu anh chợt nảy một ý nghĩ lạ: Nếu như hai dấu tay y hệt như nhau thì sao?
Trường hợp hai dấu trùng nhau, theo Page nhớ, chỉ là một trên sáu mươi bốn ngàn triệu. Thế mà trước cuộc sát hạch, không ai nao núng, khóc than. Không ai…
Murray rút cây bút máy cũ, sột soạt ghi tên và đánh dấu dưới chân hai tấm thẻ mộc màu trắng. Thầy tỉ mỉ bôi mực lên, trong lúc Farnleigh và nguyên cáo chùi ngón tay.
“Thế nào?” Gia chủ hỏi.
“Nếu có thể, quý vị cho tôi làm việc riêng trong mười lăm phút. Xin thứ lỗi, nhưng tôi muốn ở một mình, bởi như ta đều rõ, đây là việc hệ trọng.”
“Thế ông… Ông không nói ngay được à?” Burrows chớp mắt.
“Ông ơi,” cả Murray cũng lộ nét bồn chồn, “ông nghĩ chỉ liếc sơ là đủ so sánh dấu tay sao? Đặc biệt, vân tay mẫu trong trường hợp này lại là của một cậu bé, lấy cách đây 25 năm, màu mực đã phai. Tuy vẫn kiểm chứng được, song phải làm rất kĩ lưỡng, 15 phút còn là ít đấy. Nửa tiếng thì sẽ chính xác hơn. Bây giờ để tôi làm việc được chưa?”
“Không ngoài dự kiến,” nguyên cáo cười khụt khịt. “Nhưng em báo trước thầy hay: Thầy đừng chơi dại. Đối phương lâm vào thế bí rồi, thầy sẽ bị giết cho xem. Không, đừng cáu với em. 25 năm trước, lẽ ra thầy nên hài lòng, tận hưởng vị trí và vai trò của mình.”
“Chuyện này chẳng có gì đáng cười.”
“Đúng vậy, có gì đáng cười đâu. Thầy ngồi đây trong căn phòng sáng đèn, với bức tường đầy cửa sổ trông ra khu vườn tối đen. Đằng sau tán lá, hàng cây, ai biết quỷ sứ đang thì thầm điều chi. Cần bảo trọng.”
“Ờ,” Murray nhếch miệng, nụ cười nhẹ tỏa từ ria mép tới râu hàm, “vậy tôi bảo trọng là được. Nếu cảm thấy lo thì cứ đứng ngoài cửa sổ nhìn tôi. Giờ tôi phải cáo lỗi quý vị.”
Sáu người kéo ra hành lang đứng nhìn nhau. Murray đóng cửa lại. Hành lang sáng đèn, dài và ấm cúng. Quản gia Knowles đứng đằng phòng ăn, nơi chái mới được xây thêm, dính liền với khu trung tâm căn nhà, như phần thân một chữ T ngược. Tuy mặt vẫn đỏ hồng, căng thẳng, Molly Farnleigh cố giữ giọng bình thản:
“Có lẽ tốt hơn nên ăn gì đó? Tôi đã bảo dọn bữa nguội. Cứ việc ăn như thường chứ có gì đâu.”
“Cám ơn bà,” Welkyn thấy nhẹ cả người. “Cho tôi xin bánh mì sandwich.”
“Cám ơn,” Burrows nói. “Tôi không thấy đói.”
“Cám ơn,” nguyên cáo cũng hòa dàn đồng ca. “Đòi ăn hay từ chối đều tệ như nhau, thôi thì để tôi đi làm điếu xì gà đen loại mạnh, rồi sẽ quay lại canh chừng, không cho ai hại Murray.”
Farnleigh im lặng. Ngay phía sau ngài là cánh cửa trổ ra vườn, chỗ kế bên cửa sổ thư viện. Ngài chăm chú nhìn khách khứa một lúc, đoạn mở cửa bước ra.
Chẳng mấy chốc, Page bị bỏ lại một mình. Vị khách duy nhất còn trong tầm mắt của anh là Welkyn, người đang hau háu xơi món sandwich cá trong căn phòng ăn nửa tỏ nửa mờ. Nhìn đồng hồ chỉ 9 giờ 20, Page lưỡng lự giây lâu, trước khi theo bước Farnleigh, đi vào khu vườn tối mờ, mát mẻ.
Khoảnh vườn hình chữ nhật, dài độ 25 thước, rộng độ 13, dường như tách biệt với thế giới bên ngoài. Một bên vườn giáp với chái mới căn nhà, bên kia bao bọc bởi giậu thủy tùng cao. Xuyên qua hàng cây dẻ gai, ánh đèn từ thư viện chiếu ra, tạo nên một bức tường sáng yếu ớt, mờ nhạt. Cũng như thư viện, phòng ăn được lắp cửa kính trông ra vườn. Ngay trên phòng ăn là ban công buồng ngủ.
Dựa theo ý tưởng của vua William Đệ [*]Tam tại Hampton [*]Court, một ngài Farnleigh sống hồi thế kỉ 18 đã cho trồng thủy tùng theo những đường góc cạnh, uốn éo chạy khắp vườn. Giữa các giậu cây là lối đi rải cát. Các giậu này cao ngang hông người, nom chẳng khác cái nền của mê cung. Bình thường, tìm lối đi trong vườn không khó, song nếu ta khom xuống bên dưới bờ giậu, sẽ chẳng ai thấy ai. Quả là chỗ chơi trốn tìm lí tưởng, Page nhận xét.
Giữa vườn là một khoảng đất rộng, quanh đầy cây hồng. Chính giữa khoảng đất là cái hồ nhỏ, mang tính trang trí, thành hồ xây rất thấp. Ánh đèn hắt từ nhà ra, hội cùng ánh tà dương phía tây, tạo cho khu vực đầy hương hoa này một vẻ bí ẩn, ảo huyền. Nhưng không hiểu vì lí do gì, Page lại không thích vẻ ấy.
Lòng Page cảm thấy bồn chồn, khó chịu. Dĩ nhiên, khu vườn chỉ là vườn, với bờ giậu, bụi cây, với hoa và đất; bản thân nó chẳng khiến ta bất an. Chẳng qua tâm trí mọi người đều tập trung cao độ vào thư viện, vây quanh lấy nó như bướm đêm bám hộp đèn. Thật là vô lí khi cho rằng Murray sắp bị hại. Đâu ai lại xử trí vụ việc lộ liễu như vậy? Có điều, nguyên cáo như biết thuật thôi miên, lời y nói khiến nỗi sợ len lỏi vào từng người.
“Dù sao,” ý nghĩ trong Page suýt nữa bật thành tiếng, “cứ thử đi ngang cửa sổ xem thế nào.”
Anh đi ngang, nhưng chợt nhảy lùi, lầm bầm văng tục, nhận thấy một bóng người cũng đang nghiêng ngó. Không hiểu là ai, vì người đó vội thối lui sau hàng dẻ gai. Tuy nhiên, Page kịp thấy Murray ngồi tại bàn bên trong, quay lưng về cửa sổ, đang mở cuốn sách màu xám.
Rõ là nỗi sợ vu vơ!
Lại rảo bước về vườn mát, Page đi quanh hồ tròn, ngước nhìn ngôi sao độc nhất, sáng rỡ trên trời cao, phía trên cụm ống khói của chái nhà mới (Madeline Dane từng đặt cho sao ấy cái tên rất nên thơ). Xuyên qua mê cung giậu cây, anh đến cuối vườn, trong đầu nghĩ ngợi đủ điều hỗn tạp.
Farnleigh giả mạo, hay kẻ kia? Page không thể biết. Trong hai giờ qua, anh đã đổi ý biết bao lần, giờ đây phát chán, chẳng muốn đoán nữa. Rồi lại còn Madeline Dane. Tuy vô tình, tên cô cứ liên tục được nhắc đến trong cuộc đối thoại.
Nơi cuối vườn có băng ghế đá ẩn đằng sau tàng cây nguyệt quế. Page ngồi xuống, đốt một điếu thuốc. Ngẫm lại mọi điều, thành thực hết mức có thể, anh nhận ra mình bức bối, bất an một phần vì cái tên Madeline Dane liên tục vang lên. Madeline dáng thon, tóc vàng, quả đúng như họ [*]Dane cô mang. Chính vì cô mà đầu óc Page ngổn ngang, cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh cũng thành ra lộn xộn. Nghĩ ngợi về cô suốt chẳng tốt cho anh chút nào, nó khiến anh dần trở nên một gã độc thân hay càu nhàu, cáu bẳn.
Vẳng nghe tiếng động từ khoảnh vườn đằng sau. Page nhảy dựng lên, quẳng cả Madeline lẫn chuyện hôn nhân ra khỏi đầu. Tiếng động không lớn, nhưng rõ ràng đến đáng sợ, phát xuất từ giậu cây thấp, tối tăm. Ấy là tiếng người mắc nghẹt, theo sau bằng tiếng kéo lê chân, tiếng vật thể bị quăng, và tiếng nước văng lên tung tóe.
Trong một thoáng, Page không muốn quay đầu, không muốn tin chuyện xấu vừa xảy ra. Nhưng rồi anh cũng quẳng tàn thuốc xuống, gí chân dập tắt, đoạn quay bước về căn nhà, đi nhanh gần như chạy. Đang cách nhà hơi xa, nên anh quẹo nhầm mất hai lần trong “mê lộ”. Ban đầu, tưởng như trong vườn không còn ai, song không mấy chốc, đã thấy bóng dáng cao cao của Burrows trờ tới, và ánh đèn pin huơ huơ trên bụi cây, chiếu thẳng mặt Page. Khi Page đến gần, đủ để nhìn rõ Burrows, sự mát mẻ và hương thơm của khu vườn như biến đâu hết sạch.
“Xảy ra chuyện rồi,” Burrows nói.
Page cảm thấy hơi buồn nôn.
“Không hiểu mày nói gì,” anh giả tảng, “sao lại xảy ra được?”
“Thì tao bảo mày, thế thôi,” Burrows mặt trắng bệch, khẩn khoản nài. “Lại đây mau, giúp tao kéo ổng lên. Ông nằm úp mặt giữa hồ. Không dám khẳng định, nhưng chắc là đã chết.”
Page nhìn theo hướng gã chỉ. Tuy không thấy cái hồ sau hàng giậu, anh trông rõ phía sau ngôi nhà. Phía trên thư viện, một phòng bật sáng đèn, già Knowles ló đầu ra cửa sổ. Molly Farnleigh thì đang đứng nơi ban công buồng ngủ.
“Nghe tao này,” Page khăng khăng, “ai dám đụng tới Murray? Không thể được. Quá vô lí. Mà Murray làm chi ngoài ao kia chứ?”
“Murray?” Burrows nhìn Page chằm chằm. “Murray gì? Tao có nói Murray đâu? Là Farnleigh mày ơi, John Farnleigh. Trước khi tao tới nơi, mọi chuyện đã xong rồi. E rằng đã quá trễ.”
↩︎ Sở Cảnh sát thủ đô London.
↩︎ Edgar Allan Poe (1809–1849): nhà văn - nhà thơ Mỹ, nổi tiếng với các truyện kinh dị, trinh thám.
↩︎ The Cloister and the Hearth, tiểu thuyết của Charles Reade.
↩︎ Le Comte de Monte Cristo, tiểu thuyết của Alexandre Dumas.
↩︎ Kidnapped, tiểu thuyết của Robert Louis Stevenson.
↩︎ A Tale of Two Cities, tiểu thuyết của Charles Dickens.
↩︎ Jane Austen (1775–1817) và George Eliot (1819–1880): hai nhà văn nữ người Anh, chuyên viết truyện tâm lí xã hội.
↩︎ Nguyên văn: “gypsy”, ta thường phiên âm theo tiếng Pháp là di-gan. Đây là một tộc người không quốc gia, sống rày đây mai đó, thường biểu diễn những trò mua vui cho thiên hạ xem.
↩︎ Tên một thủ lĩnh da đỏ ở Bắc Mỹ.
↩︎ Vua William Đệ Tam trị vì nước Anh trong khoảng 1689–1702.
↩︎ Tên một cung điện hoàng gia Anh.
↩︎ Dane nghĩa là người Đan Mạch. Dân Đan Mạch, cũng như Bắc Âu nói chung, hay có mái tóc vàng.