Chương 10
Trong thư viện Farnleigh Close, Patrick Gore ngồi kế khuôn cửa sổ, phì phèo điếu xì gà đen. Cạnh y là Burrows, Welkyn, và Kennet Murray trông như buồn ngủ. Thanh tra Elliot, tiến sĩ Fell và Brian Page ngồi chỗ bàn.
Mọi người ở Farnleigh Close vốn đã sợ lại càng sợ hơn, vì giữa buổi chiều như mọi chiều, lại xảy ra thêm sự cố bất thường. Tình hình điền trang vốn đã rối lại càng rối nữa, bởi sự vắng mặt của viên quản gia.
Dữ kiện? Dữ kiện cái quái gì? Đám gia nhân nghe Elliot tra vấn mà chẳng hiểu chi sất. Có dữ kiện nào đâu, chỉ là chuyện về Betty Harbottle, một cô hầu gái ngoan ngoãn, tầm thường. Từ bữa trưa, Betty mất dạng. Khi đến phiên Betty và Agnes, một cô hầu gái khác, lau cửa sổ hai căn phòng ngủ trên lầu, Agnes không thấy Betty, bèn đi tìm chị ta. Mãi đến bốn giờ chiều mới tìm được. Bấy giờ, Teresa, con sen của phu nhân Farnleigh, đi vào Phòng Xanh, phòng làm việc của ngài John quá cố, bắt gặp Betty dưới sàn, bên cửa sổ trông ra vườn. Chị ta nằm nghiêng, tay cầm cuốn sách bìa giấy. Từ Mallingford, bác sĩ King được mời tới. Nhìn tình trạng Betty và nét mặt bác sĩ, không ai cảm thấy yên tâm. Hiện King vẫn ở cùng bệnh nhân.
Những vụ án tại gia như này nghe thật tréo ngoe. Chính tại nhà mình mà lại mất tích bốn tiếng đồng hồ? Chính tại nhà mình mà sau khi mở cánh cửa quen thuộc, lại bước vào một căn phòng chưa bao giờ thấy, với vật lạ đang chờ đón? Thẩm vấn đầu bếp, bà nữ quản, cũng như các gia nhân khác, Elliot nghe toàn những chuyện bếp núc vặt vãnh, về Betty, ông chỉ điều tra được chị ta thích táo, và hay viết thư gửi Gary Cooper.
Thấy Knowles về, toán nhân viên nhẹ cả người. Thêm Madeline đến, Page hi vọng, chắc Molly Farnleigh sẽ cảm thấy khá hơn. Madeline đã cùng Molly vào phòng, để lại đám đàn ông ngồi ngó nhau trong thư viện. Trước đó, Page tự hỏi chẳng biết chuyện gì xảy ra khi Madeline gặp gỡ Patrick Gore. Rốt cuộc, không có chi để mà tưởng tượng. Không ai giới thiệu hai người với nhau. Madeline choàng tay ôm Molly. Lúc đi ngang nguyên cáo, cô ngó nhìn song không nói. Dường như mắt Gore ánh lên vẻ thích thú gặp lại cố nhân.
Chính Gore là người đặt vấn đề với thanh tra Elliot, trước khi tiến sĩ Fell quăng bom, gây nổ chấn động.
“Chả ích gì đâu, thanh tra,” Gore châm điếu xì gà (để rồi sau lại dụi). “Tôi bảo đảm chả ích gì. Sáng nay ông đã hỏi kiểu như vậy. Lần này câu hỏi có khác một chút: Ông ở đâu khi cô hầu bị… bị chi ai biết… và Sách Dấu Tay được đặt vào tay cô ta? Câu trả lời đơn giản là: Tôi biết thế nào được. Mấy người kia cũng thế. Chúng tôi đều phải ở đây, theo lệnh ông. Nhưng chúng tôi chẳng khoái nhau, và không ai biết cô hầu lâm nạn lúc nao.”
“Này ông,” tiến sĩ Fell đột ngột lên tiếng, “ít nhất phải giải quyết một phần sự vụ.”
“Hi vọng ông giải quyết được,” Gore tỏ vẻ chân thành cảm mến tiến sĩ. “Còn ông thanh tra, lời khai ông có hết rồi. Chúng tôi đã kể đi kể lại…”
“Đúng vậy, thưa ông,” Elliot tươi tắn. “Và nếu cần thiết, tôi sẽ phải hỏi đi hỏi lại nữa.”
“Thật là…” Welkyn định nói.
“Ông chỉ quan tâm Sách Dấu Tay đi lạc nơi đâu,” nguyên cáo ngắt lời lão, đưa mắt nhìn cuốn sách cũ nát đang nằm trên bàn, giữa Elliot và tiến sĩ Fell. “Sao không quan tâm cái gì bên trong nó? Nếu ông tỉnh táo một chút, sao không giải quyết vấn đề ngay đi? Hãy phân xử, giữa tôi và kẻ đã chết, ai là người thừa kế thật sự?”
“Ồ, điều ấy tôi phân xử được,” tiến sĩ Fell nói giọng ngọt ngào.
Ai nấy chợt im, chỉ nghe tiếng nguyên cáo lê chân trên sàn đá. Kennet Murray đang che nắng vội bỏ tay xuống. Tuy khuôn mặt già nua lộ nét hoài nghi, cặp mắt thầy sáng lên, chăm chú, tỏ vẻ quan tâm. Thầy dùng một ngón tay sờ sờ bộ râu, như thể đang thưởng thức thi văn.
“Sao nào, tiến sĩ?” thầy thúc giục bằng giọng điệu đặc trưng của nhà giáo.
“Xem xét cái Sách Dấu Tay này chẳng được tích sự gì,” tiến sĩ Fell gõ lên cuốn sách trên bàn. “Nó là giả. Không, ý tôi không phải anh không có bằng chứng, chỉ là bằng chứng không nằm trong đây. Theo lời kể, tối qua ông Gore từng bảo ngày xưa, anh có đến mấy cuốn như vậy.” Ông cười, ngó Murray. “Bạn ơi, tôi rất vui thấy anh vẫn giữ phong cách kịch tính như thuở nào. Anh cho rằng sẽ có người tìm cách lấy cắp Sách Dấu Tay, nên tối qua đã cầm theo hai cuốn tới đây…”
“Có đúng không?” Gore hỏi.
Murray gật đầu, bộ điệu hài lòng pha bực bội.
“Sách anh cho mọi người xem trong thư viện là giả,” tiến sĩ Fell tiếp. “Chính vì vậy, anh làm việc rất chậm. Sau khi đuổi tất cả đi, anh đút sách giả vào túi, lấy sách thật ra. Sách này hơi tí là rách, nên phải từ từ. Vả lại, họ đã nói sẽ canh chừng anh, không để anh bị hại. Với một bên tường toàn là cửa sổ, nhiều khả năng có người sẽ thấy anh làm trò với bằng chứng, rồi tri hô lên. Anh phải canh đến khi không còn ai…”
“Cuối cùng tôi phải vào tủ kia mới tráo được.” Murray hướng đầu về cái tủ âm đựng sách, nằm về một phía với dãy cửa sổ. “Già đầu rồi mà cảm giác như đang gian lận thi cử.”
Thanh tra Elliot lặng im, chỉ đưa mắt qua lại giữa hai người, rồi ghi chú trong sổ.
“Đúng, anh để mất khá nhiều thì giờ. Chỉ vài phút trước án mạng, trên đường ra sau vườn, ông Page đi ngang cửa sổ, thấy anh chỉ vừa mở Sách Dấu Tay. Vậy, anh không có bao nhiêu thời gian để làm việc.”
“Chỉ ba hay bốn phút,” Murray bảo.
“Trước khi nghe báo động đổ máu, anh không có bao nhiêu thời gian để làm việc.” Tiến sĩ Fell nhăn mặt. “Bạn trẻ Murray ơi, anh đâu có ngu phải không nào? Báo động bên ngoài có thể chỉ là bẫy, mà anh thì đã ngờ vực sẵn rồi. Làm gì có chuyện anh đi ra, để Sách Dấu Tay tơ hơ trên bàn, mời gọi kẻ gian! Mới nghe kể tôi đã không tin. Không, không, không. Anh lại nhét sách thật vô túi, bày sách giả làm mồi nhử, đúng chứ?”
“Anh già chết tiệt!” Murray mắng đùa.
“Sau khi sách giả bị mất, anh chơi trò ‘giả ngơ’, hả hê ứng dụng kĩ năng thám tử của mình. Với sách thật bên cạnh chắc cả đêm qua anh ngồi viết bản phân tích dấu tay, kèm theo lời chứng rằng người thừa kế thật chính là…”
“Là ai?” Patrick Gore điềm tĩnh.
“Chính ông chứ ai,” tiến sĩ Fell gầm lên rồi quay sang Murray. “Anh phải biết chứ hả? Đó là học trò anh mà. Anh hẳn phải biết. Ông ta vừa mở miệng, tôi đã biết ngay.”
Nguyên cáo đứng lên, đoạn lóng ngóng ngồi xuống. Mặt y khoan khoái, nhăn nhở như khỉ. Cặp mắt xám của y sáng ngời, mảng hói trên đỉnh đầu dường cũng long lanh.
“Cám ơn tiến sĩ Fell,” tay Gore đặt lên tim. “Nhưng tôi phải nhắc rằng: Ông chưa hỏi chi tôi, dù chỉ một câu.”
“Thưa quý vị,” tiến sĩ nói. “Tối qua, quý vị đều đã nghe ông này. Bây giờ, hãy nhìn và nghe lại đi. Ông có giống ai không? Không phải giống về diện mạo, mà về cách nói, cách nghĩ, cách dùng từ. Sao? Giống ai?”
Giữa lúc tiến sĩ nhìn quanh phòng, một cảm giác quen thuộc chợt hiện ra trong trí Page. “Giống Murray.” Anh cất tiếng, phá vỡ bầu im lặng.
“Giống Murray chứ gì nữa. Tính cách khác một chút, thời gian có làm thay đổi một chút, nhưng không lẫn vào đâu được. Chẳng lạ gì, vì trong những năm ổng định hình bản tính, Murray là gia sư, cũng là người duy nhất gây được ảnh hưởng lên ổng. Hãy để ý giọng điệu cả hai, để ý cách họ hành văn. Có phải uyển chuyển, cuồn cuộn như trường ca Odyssey không? Dĩ nhiên, họ chỉ giống những chi tiết bên ngoài như thế, chứ khác về bản chất, cũng như tôi khác với Elliot hay Hadley. Nhưng còn nữa, câu quan trọng duy nhất Murray hỏi tối qua là về sở thích đọc sách của John Farnleigh hồi bé, thích những cuốn nào, ghét những cuốn nào. Nhìn ông ấy xem!” Ông chỉ về Gore. “Tôi nghe kể mắt ông rực lên khi nhắc đến Bá tước Monte Cristo hay Tu viện và lò sưởi. Rồi những sách ổng ghét và bây giờ vẫn ghét. Nếu như giả, làm sao dám nói như thế, trước mặt người mà hàng bao năm trước, John Farnleigh thật đã trải nỗi lòng? Trong những vụ như vầy, thông tin dữ kiện chỉ là tào lao. Thông tin ai chẳng học được, quan trọng là cái hồn đích thực bên trong. Murray ơi, tôi bảo thực, anh nói sự thật đi, đừng giả ngộ nữa. Chơi trò giả ngây, đóng vai thám tử đến đây đã đủ rồi.”
Trán Murray nhăn lại, đỏ lên. Trông thầy cáu kỉnh, có hơi xấu hổ. Tuy vậy, ít nhất thầy cũng tóm được một chỗ hở của Fell.
“Thông tin đâu phải tào lao,” Murray nói.
“Tôi bảo, thông tin dữ kiện là…” tiến sĩ Fell to tiếng, song kịp trấn tĩnh. “Ờ, không, có lẽ không hẳn như thế. Nhưng tôi nói có đúng không?”
“Ông ta không nhớ Sách Đỏ Appin. Ghi trong giấy rằng không có sách nào.”
“Thì ổng chỉ biết nó là bản viết tay thôi mà. Tôi không đứng về phía ổng đâu, chỉ muốn xác minh sự việc thôi. Xin hỏi lại: Điều tôi nói đúng chứ?”
“Lão Fell quỷ, làm hỏng cả chuyện người ta,” Murray hơi đổi giọng phàn nàn, đoạn ngó qua Gore. “Đúng, đây là John Farnleigh thật. Xin chào cậu John.”
“Xin chào”, Gore đáp. Lần đầu kể từ khi gặp gỡ, Page mới thấy mặt y thôi khắc nghiệt.
Sự tĩnh lặng trong phòng dường đang co lại, thu mình; đã đến lúc ảnh mờ trở nên rõ nét, giá trị phục nguyên. Cả Gore lẫn Murray đều lơ đãng nhìn xuống sàn, vừa vui vừa bối rối.
“Ông Murray có thể vui lòng xác minh mọi việc?” Welkyn hỏi nhanh, giọng ấm đầy vẻ uy quyền.
“Thế là hết béng kì nghỉ,” Murray nói, đưa tay vào túi trong căng phồng, và nghiêm mặt trở lại. “Rồi, đây! Sách Dấu Tay nguyên bản, với vân tay và chữ kí của John Newnham Farnleigh khi còn bé, có cả ngày tháng nữa. Đề phòng có người nghi ngờ tính xác thực của sách, tôi đã cho chụp hình nó, gửi ông giám đốc cảnh sát ở Hamilton lưu giữ. Đây còn hai lá thư do John Farnleigh gửi tôi năm 1911, có thể so sánh chữ kí trong thư và trong sách. Cuối cùng: Vân tay lấy tối qua, và bản phân tích của tôi…”
“Tốt, tốt, tốt quá,” Welkyn trầm trồ.
Page nhìn Burrows, thấy mặt gã trắng bệch. Sau một căng thẳng kéo dài, thần kinh quả bị ảnh hưởng không ít. Trông rộng khắp phòng, anh nhận ra Molly Farnleigh cũng đã vào, với Madeline Dane đằng sau.
Hẳn Molly đã nghe tất cả. Mọi người giờ mới thấy nàng, vội vàng kéo ghế loẹt xoẹt đứng lên.
“Nghe bảo thầy luôn chân thật,” Molly hỏi Murray. “Chuyện vừa rồi có đúng chăng?”
“Phu nhân, tôi rất tiếc…” Murray cúi đầu.
“Chồng tôi là kẻ giả danh?”
“Là kẻ giả danh, song không lừa được những ai ngày xưa từng biết rõ John Farnleigh.”
“Giờ thì, thành kiến không còn,” Welkyn ngọt giọng, “có lẽ tôi và ông Burrows nên bàn chuyện với nhau…”
“Từ từ,” Burrows ngọt không kém. “Chuyện vẫn còn điểm bất thường. Bằng chứng đưa ra, tôi vẫn chưa xem. Cho tôi kiểm tra các văn bản kia được không? Xin cám ơn. Còn phu nhân Farnleigh, tôi xin phép trò chuyện riêng với phu nhân.”
Nhìn vào mắt Molly, có thể thấy sự hoang mang, đờ đẫn, và căng thẳng.
“Vâng, thế cũng tốt,” nàng đồng ý. “Madeline cũng vừa nói chuyện tôi nghe.”
Madeline tỏ vẻ an ủi, khoác tay Molly, nhưng nàng giật ra. Molly thân hình mạnh mẽ, lửa giận bừng bừng, khiến cho mọi vật xung quanh u ám, thật tương phản với mái tóc vàng và vẻ đẹp nhu mì của Madeline. Madeline và Burrows hai bên, Molly ở giữa, cả ba ra khỏi phòng. Giày Burrows lết trên sàn nghe lệt phệt.
“Nào!” Patrick Gore nói. “Giờ còn gì nữa?”
“Ông cứ thư thả nghe tôi trình bày,” Elliot nói giọng nghiêm trọng, khiến Gore và Welkyn phải quay nhìn. “Kẻ giả mạo bị giết bên hồ, vì sao và do ai chưa biết. Cuốn Sách Dấu Tay thì bị đánh cắp, sau đó trả về, chắc bởi kẻ trộm nhận ra nó vô giá trị. Hôm nay, cô hầu Betty mất tích từ trưa, được tìm thấy lúc bốn giờ chiều tại căn phòng bên trên thư viện, gần chết vì sợ. Tại sao cuốn sách nằm trên tay cổ, ai hay cái gì đã hù làm cổ hoảng hồn? Ta cũng không biết. À, còn bác sĩ King đâu?”
“Vẫn ở bên Betty tội nghiệp,” Gore đáp. “Nhưng thế thì sao?”
“Tôi có chứng cứ mới.” Elliot ngừng giây lát rồi nói tiếp. “Câu chuyện tối qua, các ông đã nhẫn nại kể đi kể lại phải không? Thế thì ông Gore, khi án mạng xảy ra, ông đang làm gì? Lời ông thuật có đúng sự thật không? Hãy suy nghĩ trước khi trả lời. Có người đã khai trái với ông đấy.”
Tự nãy giờ, Page chỉ chờ thanh tra hỏi câu này.
“Trái với tôi? Ai khai cơ?” Gore bỏ điếu xì gà đã tắt khỏi miệng, hỏi giọng sắc lẹm.
“Chuyện ấy ông không cần biết. Ông ở đâu khi nghe tiếng nạn nhân rơi xuống hồ?”
“Chắc ông có nhân chứng,” Gore khoái trá ngắm nghía Elliot. “Tôi đang nhìn vô cửa sổ, theo dõi ông già này.” Y chỉ Murray. “Ai thấy tôi thế? Tôi vừa nhớ ra, giờ chẳng cần giấu nữa làm gì.”
“Phải, ông nhận ra nếu nói thật, mình sẽ có bằng chứng ngoại phạm?”
“Vâng, tôi sẽ không bị nghi nữa. Ôi! Bất hạnh thay!”
“Bất hạnh thay?” Elliot như đóng băng.
“Đùa thôi mà, mong thanh tra thứ lỗi.”
“Tại sao lúc đầu ông không nói thật?”
“Vâng, để tôi trả lời. Mà sao ông không hỏi luôn tôi đã thấy gì bên ngoài cửa sổ?”
“Tôi chưa hiểu ý ông.”
Elliot vẫn có thói giả ngố như vậy.
“Nói một cách đơn giản,” Gore hơi cáu, “tối qua từ khi vào nhà, tôi đã sợ sẽ bị chơi xấu. Ông này đây,” Y nhìn Murray, như thể chưa biết nên đối xử với thầy thế nào. “Tôi biết thừa rằng ổng biết tôi. Thế mà ổng cứ lặng yên.”
“Sao nữa?”
“Chuyện gì xảy ra ư? Thì như ông đã phát giác, khoảng một phút trước vụ giết người, tôi lẻn ra đằng hông ngôi nhà… À, đã chắc chắn vụ này là giết người chưa?”
“Rồi sẽ bàn. Ông cứ nói tiếp.”
“Tôi nhìn vô trong, thấy Murray quay lưng lại mình, ngồi im như phỗng, không động đậy chi. Ngay sau đó, tôi nghe những tiếng động mà nhiều người cũng nghe, bắt đầu với tiếng nghẹt họng, kết thúc bằng tiếng quẫy đập dưới nước. Từ cửa sổ, tôi bước sang trái, quay nhìn xem có việc gì trong vườn. Thấy Burrows trong nhà chạy ra, tôi lùi về chỗ cũ. Trong nhà đang tán loạn lên, và tôi thấy những gì? Tôi thấy quý ông đáng kính Murray đang cầm hai Sách Dấu Tay, lấm lét cất một cuốn vào túi, rồi vội vã đặt cuốn kia lên bàn.”
“Thế, thế…” Đang chăm chú theo dõi, Murray lên tiếng, giọng lạc đi, nhưng có vẻ thích. “Ông nghĩ tôi mưu hại ông sao?”
“Hiển nhiên. Mưu hại tôi! Còn hơn thế nữa ấy chứ,” mặt Gore sạm lại. “Cho nên, tôi không nói ai biết. Những gì tôi thấy, tôi giữ cho tôi, phòng khi có sự tráo trở xảy ra.”
“Ông còn thấy gì nữa?”
“Không còn gì, thưa thanh tra. Những phần còn lại trong lời khai của tôi đều chính xác. Ông cho hỏi, ai đã thấy tôi?”
“Quản gia Knowles, lúc ấy đang đứng nơi cửa sổ phòng xanh.” Elliot đáp.
Gore khẽ huýt sáo.
“Hai ông có ai từng thấy cái này?” Ánh mắt thanh tra chuyển từ Gore sang Murray và Welkyn. Ông rút trong túi mảnh giấy báo bọc quanh hung khí. Khi giấy báo mở, con dao vấy máu lộ ra.
Gore lẫn Welkyn đều ngẩn ngơ. Riêng Murray bỗng hóp cặp má đầy râu, kéo ghế lại gần, hấp háy mắt nhìn vật chứng.
“Ông tìm thấy cái này ở đâu?” thầy hỏi nhanh.
“Gần hiện trường. Ông nhận ra à?”
“Hừm. Ông kiểm tra vân tay trên nó rồi chứ? Không hả? Thật đáng tiếc!” giọng Murray ngày càng hối hả. “Tôi sẽ hết sức thận trọng, ông cho tôi cầm nó nhé? Xin lỗi nếu tôi sai, nhưng ngày xưa, cậu John à,” thầy nhìn Gore, “cậu từng có con dao giống vậy phải không? Chính tôi cho cậu, và cậu đem theo mãi?”
“Đúng vậy. Em luôn đem theo dao bỏ túi.” Vừa thừa nhận xong, Gore rút ngay dao ra; con này cũng cũ, song hơi nhỏ và sáng hơn so với con trên bàn. “Có điều…”
“Ông đã trao quyền cho tôi,” Welkyn đập bàn can thiệp, “tôi phải thực hiện quyền ấy. Những câu hỏi vừa nêu đều vớ vẩn và không chính đáng; với tư cách luật sư, tôi khuyên ông không nên quan tâm. Dao loại đó nhiều như lá trên rừng. Chính tôi cũng có.”
“Hỏi thế có gì sai đâu?” Gore băn khoăn. “Tôi từng sở hữu một bộ y hệt, nhưng lúc trên tàu Titanic đã đem cho, cùng với tất cả quần áo và vật tùy thân. Đừng nói con dao trên bàn chính là…”
Trước khi mọi người kịp can thiệp, Murray rút từ trong túi chiếc khăn tay, liếm cho ẩm nước (cảnh tượng chiếc khăn ở trong mồm luôn làm Page gai người), đoạn dùng nó lau sạch phần dưới con dao. Trên lưỡi thép hiện ra dòng chữ khắc: Madeline.
“Của cậu đấy John,” Murray hồ hởi. “Cậu khắc chữ này hồi mình đi thăm xưởng cắt đá ở Ilford.”
“Madeline,” Gore lặp lại, rồi quay mở cửa sổ, quẳng điếu xì gà vào hàng cây đẫm nước. Phản chiếu trong ô kính ảm đạm, Page thấy mặt y thoáng trầm tư. Nom y là lạ, khó đoán đang nghĩ gì, song rõ ràng không còn vẻ nhạo báng, bất cần thế gian như thường lệ.
“Như thế là sao?” Gore quay lại. “Tên giả mạo khốn khổ, đáng thương, đáng lẽ chân thành ấy, hắn giữ con dao suốt bấy nhiêu năm, để rồi dùng nó tự tử bên hồ? Dường như các ông đã xác định đây là án mạng cơ mà… nhưng sao…”
Y dùng tay đánh nhịp lên đầu gối.
“Tôi sẽ tường trình quý vị nghe,” Elliot nói. “Vụ này thật là bất khả.”
Thanh tra thuật lại lời khai của Knowles. Gore và Murray đều chú tâm lắng nghe, riêng Welkyn tỏ vẻ hoang mang, cáu kỉnh. Đến đoạn tìm được con dao, cả nhóm đều thấy rối mù.
“Đứng một mình mà bị giết,” Gore ngẫm nghĩ, trước khi nhìn Murray. “Thầy à, đúng món tủ thầy đây. Mình xa nhau quá lâu, giờ em chẳng biết thầy nữa, nhưng nếu là ngày xưa, thầy sẽ hăng như hổ báo, nhảy choi choi quanh ông thanh tra, đề xuất đủ giả thuyết lạ lùng…”
“Tôi hết ngu như xưa rồi, cậu John.”
“Kệ, thầy có giả thuyết gì, cứ nói mọi người nghe. Đến giờ, chỉ có thầy vẫn tỏ ra dè dặt, kiệm lời về vụ này.”
“Tôi cũng muốn nghe,” tiến sĩ Fell nói.
“Ứng dụng logic thuần túy,” Murray chỉnh thế ngồi cho thoải mái, ngón tay bắt đầu ve vẩy, “cũng như làm toán với dãy số cực lớn. Nhiều khi làm xong mới phát hiện đã sơ sót vài đôi chỗ ở đâu đó. Tính đúng ngàn phép nhưng sai một, kết quả cũng đảo lộn. Bởi vậy, điều tôi sắp nói không phải logic thuần túy, chỉ đơn thuần gợi ý thôi. Ông thanh tra, các nhà điều tra án mạng hẳn sẽ kết luận đây là vụ tự sát?”
“Cũng chưa chắc,” Elliot nhận xét. “Còn nhiều vấn đề, chẳng hạn: Sách Dấu Tay bị trộm sau đó tái xuất; cô hầu gái hoảng sợ gần chết…”
“Ông và tôi đều biết,” Murray mở to mắt, “bồi thẩm sẽ kết luận ra sao. Giết người? Bất khả. Nạn nhân tự sát rồi dao văng ra? Khả năng thấp, nhưng có. Tuy vậy, tôi lại cho là giết người.”
“Hê hê,” tiến sĩ Fell xoa tay. “Thế anh gợi ý điều chi?”
“Cứ cho là giết người, nạn nhân bị giết không phải bằng con dao kia, vì dấu vết trên cổ giống với vết răng nanh hay móng vuốt.”