Chương 16
Andrew MacAndrew Elliot nâng li săm soi, dù trong li chỉ có vang trắng hạng trung.
“Cô Dane,” thanh tra khen, “cô quả là chính khách bẩm sinh. À không, phải gọi là nhà ngoại giao chứ, như thế đúng hơn. Cái đoạn cô nói về cá độ đá banh thật tài quá chừng, ban bồi thẩm vừa nghe liền hiểu ngay vấn đề. Sao cô nghĩ ra ví dụ đó hay vậy?”
Trong ánh hoàng hôn ấm áp, Elliot, tiến sĩ Fell và Page đang dùng bữa tối với Madeline tại Monplaisir. Nhà Madeline ấm cúng, tiện nghi, tuy cái tên [*]Monplaisir nghe hơi suồng sã. Bàn ăn nơi họ ngồi nằm kế các khung cửa sổ kiểu Pháp, trông ra căn vườn sâu hút, trồng nhiều nguyệt quế. Cuối vườn là khu đất trồng táo, rộng độ gần hecta.
Xuyên ngang vườn táo, có lối đi nhỏ, một đầu dẫn tới điền trang của đại tá Mardale khi xưa, đầu kia ngoằn ngoèo qua suối, đâm vào cánh rừng Rèm Treo bên tả, nơi những hàng cây đang phủ bóng chiều tà. Nếu băng rừng Rèm Treo, lên dốc rồi xuống dốc, sẽ tới vườn sau của Farnleigh Close.
Không kể bà giúp việc ban ngày đến nấu nướng, dọn dẹp, Madeline sống đơn thân. Cô thừa hưởng từ cha căn nhà nhỏ nhắn, gọn gàng, đầy những chiến tích binh nghiệp, các loại đồ đồng, và đồng hồ đủ kiểu, hay đổ chuông inh ỏi. Nhà nằm khá biệt lập; hàng xóm gần nhất chính là Victoria Daly quá cố. Song Madeline không lấy sự cô liêu làm phiền.
Là chủ nhân, Madeline mặc áo trắng, ngồi nơi đầu bàn, kế bên cửa sổ mở toang, bên dưới các thanh xà nhà thấp, đồ sộ, làm bằng gỗ sồi. Phòng ăn chứa nhiều vật dụng bằng gỗ hay bạc sáng loáng, rộn ràng tiếng đồng hồ tích tắc. Bên ngoài chưa quá tối, đèn nến chưa cần thắp. Bữa tối đã xong, tiến sĩ Fell châm một điếu xì gà to xù. Page cũng đánh diêm, mời Madeline thuốc lá.
“Đoạn về cá độ đá banh à?” Madeline bật cười trong ánh diêm lập lòe, mặt hơi ửng đỏ. “Thật tình tôi có nghĩ ra đâu, Nat Burrows đó chứ. Ảnh viết lên giấy, bắt tôi đọc thuộc. Song những gì tôi nói đều là thật, đều xuất phát tự đáy lòng. Ôi, phải đứng nói trước biết bao người, tôi sợ muốn chết, lúc nào cũng lo bị ông Whitehouse cắt ngang. Nhưng phải làm thôi, vì Nat bảo chỉ còn cách ấy. Sau phiên điều tra, tôi chạy lên tầng trên quán trọ, khóc lóc như động kinh, nhờ vậy mà tâm trạng khá hơn. Lúc đó trông tôi chắc ghê lắm nhỉ?”
Nghe hỏi, tân khách đều nhìn nữ chủ.
“Đâu có,” giọng Fell thành thật, “cô diễn hay lắm. Nhưng trời ơi, Burrows huấn luyện cho cô ư? Ái chà chà!”
“Vâng, ảnh ở đây suốt nửa đêm hôm qua để giúp tôi.”
“Burrows? Lúc nào cơ?” Page ngạc nhiên. “Tôi đưa cô về mà.”
“Anh đi rồi ảnh mới tới. Những gì tôi kể với Molly, ảnh đã hay, nên có vẻ xúc động lắm.”
“Quý vị thấy đấy,” tiến sĩ Fell chậm rãi kéo điếu xì gà to, “đừng nhầm mà đánh giá thấp Burrows. Page đã bảo hắn rất thông minh. Lúc cuộc chơi bắt đầu, Welkyn tỏ ra thắng thế, song Burrows đã chơi đòn tâm lí, mẹ kiếp - tuyệt chiêu thiệt, và lái phiên điều tra theo ý hắn. Hắn sẽ chiến đấu đến cùng, vì danh tiếng công ty luật Burrows & Burrows sẽ lên như diều nếu giữ được điền trang nhà Farnleigh. Vụ Farnleigh và Gore nếu ra đến tòa xử án thì sẽ nóng sôi sùng sục đây.”
“Nhưng này, cô Dane,” Elliot xoay sang chuyện khác, giọng dường bất bình. “Tôi công nhận: Nhờ cô, mọi việc diễn biến theo hướng thuận lợi. Chúng ta đã giành chiến thắng sơ khởi, ít nhất trên phương diện truyền thông. Tay trợ lí giám đốc của tôi bảo đảm hết dám treo vụ này, mặc dù giờ đây lão có lẽ đang vò đầu bứt tai, nguyền rủa bồi thẩm đoàn là lũ nhà quê ngu muội, ăn phải bùa của… ờ… gái đẹp. Có điều, cô nắm giữ thông tin như thế, tại sao ngay từ đầu không tới gặp tôi! Tôi đâu phải ma đầu xấu xa gì, sao cô không nói?”
Nghe lạ và hài hước thật, Page nghĩ. Chuyện có thế thôi, mà thanh tra như bị tổn thương sâu sắc.
“Tôi cũng định nói,” Madeline đáp. “Thật đó. Nhưng trước tiên, phải kể cho Molly. Thế rồi Nat Burrows bắt tôi thề thốt đủ điều rằng trước phiên pháp y, sẽ không tiết lộ điều gì cho cảnh sát. Burrows bảo cảnh sát không đáng tin. Vả lại, ảnh đang theo đuổi một giả thuyết để chứng minh…” cô kịp cắn môi dừng lời, huơ huơ điếu thuốc ra dấu xin lỗi. “Ông cũng biết người ta thế nào mà.”
“Còn chúng ta, chúng ta đang đứng ở đâu đây?” Page hỏi.
Đi vòng vòng mãi, rốt cuộc vẫn không biết người thừa kế thật sự là ai. Murray bảo là Gore, lại thêm bằng chứng vân tay, mọi việc tưởng rõ rành rành. Vậy mà sáng nay, mấy lần tôi lại đâm nghi. Xem ra cô muốn bóng gió, dồn sự chú ý vào lão già Welkyn thì phải?”
“Thật hả, Brian? Ý anh là gì? Tôi chỉ nói theo bài của Nat thôi.”
“Rất có thể, vụ kiện điền trang đều do bàn tay Welkyn đạo diễn. Welkyn là kẻ tin ma, hay bào chữa mấy vụ liên quan tới ma, lại thích sưu tập bạn bè tà quái. Gore có thể cũng cùng một giuộc với Ahriman, bà Duquesne và những người khác. Quý vị nhớ không? Vừa gặp Gore, tôi đã nhận xét hắn là tay chuyên diễn trò. Welkyn thì bảo mình thấy ma trong vườn lúc xảy ra vụ giết người. Lúc ấy, giữa lão và nạn nhân chỉ cách một tấm kính, khoảng cách chưa đầy năm thước, thế mà…”
“Brian, đừng nói anh nghi ông Welkyn là hung thủ chứ?”
“Sao không? Tiến sĩ Fell nói…”
“Tôi chỉ nói…” Fell cau mày nhìn điếu xì gà, “ông ta là người đáng lưu tâm nhất trong nhóm.”
“Đồng nghĩa với nghi ngờ lão là hung thủ,” mặt Page u ám. “Madeline, thật sự cô nghĩ thế nào? Ai thật ai giả? Hôm qua, cô bảo tôi rằng ngài Farnleigh quá cố là giả, có đúng không?”
“Đúng. Nhưng ảnh tội nghiệp lắm. Anh phải hiểu, ảnh đâu muốn làm người mạo danh, mà chỉ mong tìm ra chân tướng thực sự của mình. Còn Welkyn thì sao là hung thủ được? Lúc cỗ máy lăn xuống cầu thang, ông ta là người duy nhất không có mặt trên gác xép. Ôi, giữa buổi tối đẹp trời, vừa mới ăn xong, nhắc lại chuyện đấy chợt thấy ớn quá.”
“Hiểm độc,” tiến sĩ Fell nói. “Thật là hiểm độc.”
“Ông hẳn dũng cảm ghê lắm,” Madeline nhận xét thành thực, “bị con người máy sắt lao vào như thế mà còn cười.
“Tiểu thư ơi, tôi dũng cảm nỗi gì. Gió thổi mạnh lắm, cho nên tôi bệnh. Sau đó tôi chửi thề như thánh [*]Phêrô, rồi tôi nói giỡn. May thay, tôi bắt đầu nghĩ tới cô hầu nằm trong phòng, cô gái yếu đuối, không được mạnh như tôi. Và tôi tự hứa với lòng mình…”
Bàn tay to bè của Fell siết chặt, để lửng trên không. Mọi người nhận ra, dưới lớp vỏ bông phèng, lơ đãng, trong tiến sĩ tiềm ẩn quyết tâm phi thường, một quyết tâm đủ để khai sơn phá thạch. Vẫn giữ nguyên tư thế, ông trông ra khu vườn mờ tối giữa nắng tà, miệng rít nhẹ vài hơi thuốc.
“Thế thì tiến sĩ nghĩ sao?” Page lại hỏi. “Ông nói ra được chăng, hay vẫn chưa tin chúng tôi?”
Elliot lên tiếng trả lời thay Fell. Anh cầm bao thuốc trên bàn, nhón lấy một điếu, nhẹ nhàng đánh diêm. Trong ánh lửa, mặt anh vẫn hoạt bát, điềm tĩnh như thường lệ, song còn mang một vẻ gì Page không thể đoán ra.
“Phải sớm hành động thôi,” thanh tra nói. “Burton sẽ chở chúng tôi tới Paddock Wood, rồi tôi và tiến sĩ Fell đón chuyến tàu mười giờ về phố để gặp ông Bellchester tại Scotland Yard. Tiến sĩ đã có ý tưởng.”
“Còn chuyện ở đây?” Madeline nóng lòng.
“À, chuyện ở đây hả?” tiến sĩ Fell vẫn gật gù hút thuốc. “Tôi tiết lộ vài thông tin vô thưởng vô phạt nhé. Thí dụ: trong phiên pháp y hôm nay, ta đã đạt cả hai mục đích. Mong phán quyết giết người thì có phán quyết giết người, mong nhân chứng lỡ lời thì nhân chứng đã lỡ.”
“Lỡ lúc nào? Có phải lúc ông ‘úi chà’ thật to?”
“Tôi ‘úi chà’ nhiều lần, lúc thầm lúc thành tiếng,” Fell trầm giọng. “Có một điều khiến cả tôi lẫn thanh tra đều ‘úi chà’, tôi sẽ kể cô nghe, hoặc ít nhất cũng gợi ý, nhưng cô phải trả giá. Tôi nhắc lại: Phải trả giá. Những việc đã làm cho Burrows, cô cũng nên làm cho chúng tôi, và đương nhiên, cũng phải giữ bí mật. Vừa rồi cô bảo Burrows đang theo đuổi một giả thuyết để chứng minh… Xin cô cho biết là giả thuyết gì, nhằm chứng minh điều gì?”
Madeline hơi động đậy, vò nát điếu thuốc trên tay. Giữa cảnh sáng tối chập chờn, trông cô thanh khiết trong bộ cánh trắng, chiếc cổ ngắn phồng lên phía trên ngực áo khoét sâu. Page nhớ mãi hình ảnh Madeline trong khoảnh khắc ấy: nhớ mái tóc vàng hơi gợn sóng trên tai; nhớ khuôn mặt rộng như được hoàng hôn tôn thêm vẻ nhu mì, thanh nhã; và nhớ đôi mắt khép khẽ, nhẹ nhàng.
Bên ngoài, gió hơi đung đưa, rung rinh cành nguyệt quế. Phía tây, da trời nhuộm vàng cam, như cỏ úa màu; một vì sao mọc sớm lững lờ chỗ cánh rừng Rèm Treo. Cả căn phòng dường thu mình lại, đợi chờ. Madeline đặt tay lên bàn, thân hình hơi lùi đằng sau.
“Chả biết làm sao,” cô nói. “Thiên hạ tìm đến tâm sự cùng tôi, vì nghĩ tôi có thể giữ kín. Mà quả tôi giữ được. Thế nhưng giờ đây, các điều bí mật cứ dần bị moi ra. Hôm nay tôi nói quá nhiều, thật không hay chút nào.”
“Cô cứ nói,” tiến sĩ Fell giục.
“Thôi được, các ông nên biết, rất nên biết. Nat Burrows nghi ngờ người này là hung thủ, và hi vọng sẽ chứng minh được.”
“Nghi ngờ ai?”
“Kennet Murray,” Madeline đáp.
Điếu thuốc của Elliot dừng sững trên không. Thanh tra đập mạnh tay xuống bàn.
“Murray? Murray ấy ư?”
“Sao vậy, ông Elliot?” Madeline mở to mắt. “Ông ngạc nhiên à?”
Elliot giữ giọng khách quan. “Dù dùng ý thức thông thường, hoặc cái mà tiến sĩ đây gọi là cảm quan thám tử, Murray vẫn là người ít bị nghi ngờ nhất. Ai cũng chú mục vào ổng, nửa đùa nửa thật bảo ổng sẽ bị thủ tiêu. Burrows chắc khôn lỏi hóa rồ rồi. Xin lỗi cô vì ngôn từ thô lỗ, nhưng sao có chuyện đó được? Burrows có lí do nào để suy luận như vậy không, hay chỉ đơn thuần muốn tỏ ra tinh vi? Murray có bằng chứng ngoại phạm to bằng cái nhà cơ mà!”
“Tôi không hiểu hết, bởi Nat chưa nói rõ.” Madeline nhăn trán. “Nhưng điều ông vừa nhắc là vấn đề chính đấy. Murray có bằng chứng ngoại phạm thật không? Đây chẳng phải lời tôi, mà là lời Nat. Nat bảo: Nếu xét lại lời khai, chẳng ai theo dõi Murray, ngoại trừ ông Gore đang đứng bên cửa sổ.”
Tiến sĩ và thanh tra im lặng, trao đổi cái nhìn.
“Xin cô tiếp tục.”
“Các ông còn nhớ, tại phiên điều tra, tôi nhắc đến cái tủ âm nhỏ trong tường thư viện, tương tự cái hốc chứa sách trên gác xép? Trong tủ có cửa mật, cửa sẽ mở nếu nhấn đúng chốt.”
“Tôi nhớ,” tiến sĩ Fell lập nghiêm. “Hừm, chính Murray cũng nhắc cái tủ. Ông ta ngại người bên ngoài nhìn thấy, nên đã vô đó để đánh tráo cuốn Sách Dấu Tay. Tôi bắt đầu hiểu rồi đây.”
“Vâng. Khi tôi kể chuyện, Nat quan tâm lắm. Ảnh dặn tôi nhớ khai chi tiết ấy, để lưu vào hồ sơ. Nếu tôi hiểu đúng lời Nat, ảnh cho rằng các ông đang nhầm người. Tất cả, theo Nat, chỉ là âm mưu được dựng lên để hãm hại anh John đáng thương. Vì Patrick Gore mỏ nhọn, khéo nói, các ông tưởng hắn là thủ lĩnh, song Nat khẳng định Murray mới là… là gì ấy nhỉ, cái từ vẫn gặp trong truyện trinh thám?”
“Chủ mưu?”
“Phải. Băng đảng bao gồm Gore, Welkyn và Murray. Murray chủ mưu, còn hai kẻ kia chẳng qua đóng vai con rối. Nếu không có Murray, họ chẳng dám làm gì.”
“Sao nữa cô?” tiến sĩ Fell tò mò.
“Nat rất hứng khởi khi giải thích cho tôi. Ảnh chỉ ra hành vi lạ thường của Murray. Tôi thì không biết, vì không tiếp xúc với ổng nhiều. Trông ổng hơi khác ngày xưa, nhưng ai mà chẳng đổi thay.
“Nat đưa ra hẳn một thuyết âm mưu. Theo đó, Murray quen biết với lão luật sư ám muội Welkyn. Nhờ các thân chủ thầy bói, Welkyn biết được ngài John Farnleigh bị mất trí nhớ, có vấn đề về tâm thần, và đã cho Murray hay. Thế là ông giáo già vạch ra trò tìm người giả danh, với nhân thân giả. Cũng trong đám thân chủ của Welkyn, ông ta kiếm được kẻ phù hợp là Gore, bỏ công sáu tháng huấn luyện Gore từng chi tiết nhỏ. Chính vì vậy, hành vi và ngôn ngữ của Gore giống hệt Murray, đúng như tiến sĩ nhận xét.”
Fell nhìn Madeline chằm chằm, cùi chỏ chống lên bàn, hai tay ôm đầu. Không rõ ông đang nghĩ gì, song Fell thấy ông rùng mình, tuy cơn gió từ cửa sổ không lạnh mà ấm áp, thấm đẫm hương hoa.
“Cô nói đi,” Elliot giục tiếp.
“Giả thuyết của Nat thật kinh khủng,” Madeline lại nhắm mắt. “Tôi không muốn thấy, nhưng nó cứ hiện ra. Anh John tội nghiệp, cả đời không hại ai. Họ muốn khử đi địch thủ, nên giết chết ảnh, vờ như ảnh tự sát. Hầu hết mọi người đều tin ảnh tự sát.”
“Đúng vậy,” Elliot nói. “Hầu hết đều tin.”
“Welkyn và Gore, hai con rối không tự thân, đều có vai trò riêng: mỗi người canh một mặt căn nhà. Welkyn ngồi trong phòng ăn. Còn Gore giữ cửa sổ vì hai lí do. Thứ nhất: để làm chứng ngoại phạm cho Murray. Thứ hai: Ngăn không cho ai khác tới gần cửa sổ, trong lúc Murray ra ngoài.
“Họ rình theo John như con… con gì ông tự biết. John thoát sao nổi. Murray thân thể to lớn. Khi thấy John ngoài vườn, ông ta nhẹ lẻn ra, bắt giết ảnh liền. Vì sao không giết ngay từ đầu? Vì họ hi vọng John sẽ mất tinh thần, thừa nhận mình mất trí nhớ, có thể không phải người thừa kế thật. Nếu thế, chẳng cần động tay chân, đại công vẫn cáo thành. Tuy nhiên, John không chịu thua, buộc họ phải hạ thủ. Bởi việc so sánh vân tay không mất nhiều thời gian, Murray bày chuyện đánh tráo Sách Dấu Tay. Chính ông ta giấu đi cuốn sách, sau đó làm nó tái xuất.”
“Nat nói,” Madeline nhìn tiến sĩ Fell, hổn hển kết luận, “ông đã rơi vào bẫy, đúng như Murray dự tính.”
“Thật ư?” Elliot cẩn thận dụi thuốc. “Burrows có giảng tại sao Murray giết người ngay dưới mũi Knowles, thậm chí dưới chính mũi anh ta, nhưng cả hai không thấy gì?”
Madeline lắc đầu.
“Không nghe ảnh nói. Chắc ảnh chưa muốn tiết lộ, hoặc chưa nghĩ ra tại sao.”
“Chưa nghĩ ra đó thôi,” Elliot mỉa. “Não chạy hơi chậm, không nộp được bài. Ôi! Lại còn thế nữa. Chả đâu vào đâu.”
Lần thứ hai trong ngày, Madeline căng thẳng, nói nhiều đến độ khó thở. Trình bày xong, cô như đón nhận cơn gió ngoài vườn, hoặc bị lây cái cảm giác phấp phỏng, đợi chờ từ bên trong.
“Các ông nghĩ thế nào?” cô hỏi.
“Câu chuyện có nhiều điểm yếu. Rất yếu.” Fell ngẫm nghĩ rồi đáp.
“Không sao,” Madeline nhìn thẳng tiến sĩ. “Chính tôi cũng không tin. Ông muốn biết nên tôi kể thôi. Lúc nãy ông bảo sẽ gợi ý gì về việc đã xảy ra?”
“Cô đã kể hết mọi điều chưa, thưa cô?” Fell ngó Madeline với cặp mắt là lạ, vẻ chưa tin lắm.
“Chuyện có thể kể, tôi kể hết rồi. Đoan chắc như vậy. Ông làm ơn đừng hỏi thêm.”
“Tôi phải hỏi thêm một câu, dù câu này có thể chỉ gây thêm bí ẩn,” tiến sĩ Fell lí luận. “Vấn đề tôi hỏi thuộc về tâm lí, hãy còn mơ hồ, song nếu trả lời được nó, ta sẽ đến gần sự thật hơn. Cô biết rõ ông Farnleigh quá cố. Xin cho biết vì sao Farnleigh lo lắng suốt 25 năm? Chỉ vì một đoạn kí vãng mất đi, sao phải day dứt, khổ sở đến vậy? Người khác nếu bị tương tự, thường chỉ bận tâm một thời gian rồi thôi, không để lại sang chấn lâu dài. Hay trong quá khứ, ông ấy đã làm điều xấu, phạm tội chi đó, nên mới thế chăng?”
Madeline gật đầu. “Tôi cũng nghĩ vậy. Trông ảnh hệt như tín đồ Thanh giáo ngày xưa, từ sách cổ bước ra.”
“Ông ấy không còn nhớ chuyện gì liên quan?”
“Không, ngoài hình ảnh chiếc bản lề cong.”
Mấy chữ trên nghe thật phiền hà, đáng quan ngại. Dường như chúng khơi gợi điều chi. Bản lề cong hay bản lề thẳng là nghĩa lí gì?
“Có phải John nói theo nghĩa bóng, ám chỉ có việc không ổn?” Page hỏi.
“Không, không phải vậy đâu. Không phải nghĩa bóng. Hình như ảnh thấy bản lề thật: Chiếc bản lề trắng trên cửa. Ảnh càng nhìn, nó càng cong, rồi gãy hay tụt xuống. Hình ảnh ấy lưu lại mãi trong tâm trí John, kiểu như khi bị bệnh, ta hoa mắt, trông thấy hoa đốm.”
“Chiếc bản lề trắng,” tiến sĩ Fell trông sang Elliot. “Nghe rối rắm nhỉ, anh bạn?”
“Vâng, thưa tiến sĩ.”
Fell khịt mũi thật mạnh.
“Được rồi. Tôi sẽ gợi ý cho cô vài điều, thử coi có gần sự thật không. Thứ nhất, ngay từ đầu, đã có nhiều tranh luận về việc ai bị đập với thứ gọi là ‘cây vồ bằng gỗ của thủy thủ’. Mọi người quan tâm sự kiện, song ít ai để ý cái vồ. Cái vồ lấy ở đâu ra? Làm sao lấy được? Trên tàu cơ khí hiện đại, thủy thủ dùng vồ làm chi? Tôi nghĩ chỉ có một loại vồ ứng với lời miêu tả trên.
“Nếu cô từng đi tàu thủy vượt Đại Tây Dương, chắc đã thấy loại vồ đó. Dọc hành lang bên dưới các boong tàu, có dãy cửa thép, mỗi cửa cách nhau một khoảng nhất định. Những cửa này được thiết kế để ngăn nước, tàu Titanic nổi tiếng vì chúng. Trường hợp thảm họa xảy ra, chúng sẽ đóng lại, tạo nên hàng loạt vách ngăn kín, không cho nước tràn vào. Đặc biệt, cứ cạnh một cửa lại treo một cái vồ. Tôi buộc phải nhắc rằng: Khi có hoảng loạn, hành khách giẫm đạp lên nhau, nhân viên trên tàu sẽ dùng vồ làm vũ khí.”
“Nhưng thế thì sao?” Page hỏi, khi thấy tiến sĩ ngưng.
“Nó không gợi cho anh điều gì ư?”
“Không.”
“Điểm thứ hai,” tiến sĩ Fell tiếp tục, “là Phù Thủy Vàng, con người máy rất đáng quan tâm. Nếu khám phá ra nguyên lí khiến nó hoạt động hồi thế kỉ 17, thì cũng tìm được bí mật cơ yếu trong vụ này.”
“Chả nghĩa lí gì!” Madeline phàn nàn. “Ý tôi là chuyện ông nói chẳng liên quan chút nào tới điều tôi đang nghĩ. Cứ ngỡ chúng ta cùng suy luận theo một hướng, thế mà…”
“Đi thôi, tiến sĩ.” Elliot thúc giục, mắt ngó đồng hồ. “Không thôi sẽ trễ chuyến tàu, và không kịp ghé Farnleigh Close.”
“Đừng đi,” Madeline nài. “Làm ơn đừng đi. Brian, anh không đi chứ hả?”
“Cô hãy nói chúng tôi nghe,” tiến sĩ Fell giọng vỗ về. “Có chuyện gì sao, thưa cô?”
“Tôi sợ,” Madeline đáp. “Chắc vì sợ mà nãy giờ tôi nói nhiều đến thế.”
Brian Page thì không sợ mà choáng, nhận ra Madeline khác biệt so với trước nay anh vẫn tưởng. Nguyên nhân dẫn đến khác biệt ấy cũng làm anh choáng không kém.
Fell bỏ điếu xì gà xuống chiếc đĩa đặt tách cà phê. Tiến sĩ cẩn thận đánh diêm, chồm người thắp nến trên bàn. Bốn ngọn lửa vàng cuộn lên, rồi cháy đều trong bầu không khí ấm áp, tĩnh mịch, đẩy lùi bóng tối ra vườn. Trông chúng như lơ lửng, không dính vào nến. Ngồi trong góc phòng, cặp mắt Madeline phản chiếu ánh lửa, nom vững vàng nhưng mở to. Dường như cô vừa sợ, vừa trông chờ điều gì.
Tiến sĩ tỏ vẻ khó xử: “E rằng chúng tôi không thể ở lại, cô Dane ạ. Có những đầu mối vụ án, phải ra phố mới thu thập được. Ngày mai chúng tôi lại về. Trong thời gian đấy, ông Page có thể…”
“Anh không bỏ tôi chứ Brian? Xin lỗi, tôi ngốc nghếch quá, làm phiền đến anh…”
“Trời ạ, làm sao tôi bỏ cô được?” Page gần như gào, trong lòng dâng lên một cảm xúc chưa từng thấy, muốn được hết lòng chở che, bảo bọc người đẹp. “Tôi không ngại chi. Từ nay đến sáng, tôi sẽ không rời cô nửa bước. Nhưng chỉ phòng hờ vậy thôi, chứ cũng chẳng có gì đáng sợ đâu.”
“Anh quên hôm nay là ngày gì sao?”
“Ngày gì?”
“31 tháng 7, đúng một năm từ khi Victoria Daly chết.”
“Cũng đánh dấu đêm trước Hội [*]Mùa,” tiến sĩ Fell hiếu kì nhìn cả hai. “Dân Scotland như Elliot biết rõ về Hội Mùa. Ấy là một trong các Đại Lễ Sabbath, khi những thế lực bóng tối được tôn vinh. Hê hê, tôi là thằng già vui tính hỉ?”
Page cảm thấy hoang mang, giận dữ lẫn căng thẳng.
“Thật đấy,” anh nói. “Hay ho gì chuyện gieo hoang đường vào đầu óc người ta? Madeline đã đủ thứ để lo rồi, đã mệt lắm rồi. Cuộc chơi của người khác, cổ phải chơi; chuyện của người khác, cổ phải làm. Ông còn giở trò quỷ, hù cổ thêm nữa! Ở đây có chi nguy hiểm? Nếu thấy cái gì, tôi vặn cổ chết tươi ngay, sau đó đi báo cảnh sát.”
“Tôi xin lỗi,” Fell nói.
Tiến sĩ đứng sững một lúc. Từ trên cao, cặp mắt ông nhìn xuống, vẻ hiền từ, mệt mỏi, mơ hồ một thoáng âu lo. Đoạn ông khoác áo, đội mũ, cầm lấy cây can trên ghế.
“Ông Page, chúc ngủ ngon,” Elliot chào. “Nếu tôi nhớ địa hình không sai, từ vườn này, chỉ cần đi theo lối bên trái, qua rừng, xuống bên kia sẽ tới Farnleigh Close. Đúng chứ?”
“Đúng.”
“Tốt… một lần nữa, chúc ngủ ngon. Cám ơn cô Dane vì tất cả. Chúng tôi đã có một tối vui và đầy bổ ích. Ông Page, nhớ phải cẩn thận coi chừng.”
“Vâng, quý vị cũng coi chừng ông kẹ trong rừng,” Page hét với theo.
Thanh tra và tiến sĩ đi sâu vào vườn, dần khuất bóng sau hàng nguyệt quế. Page đứng bên cửa sổ nhìn theo. Đêm nay thật ấm, hương hoa tỏa vô đậm đặc, làm đuối lòng người. Sao đêm dệt sáng trời đông, nhưng chắc nóng quá, nên không lung linh lắm. Càng nghĩ, Page càng cáu.
“Cứ như mấy mụ già ngồi lê đôi mách,” anh tự nhủ, “Lại dám…”
Ngoảnh lại, Page thoáng thấy Madeline đang cười. Cô đã trấn tĩnh, song có vẻ xấu hổ.
“Tự dưng lại đem mình ra làm trò,” cô dịu dàng nói và đứng dậy. “Anh Brian thứ lỗi nhé. Tôi biết cũng đâu nguy hiểm gì. Giờ tôi lên lầu, thoa lại phấn mũi một chút. Sẽ xuống ngay thôi.”
“Cứ như mấy mụ già ngồi lê đôi mách. Lại dám…”
Còn lại một mình, Page tiếp tục lầm bầm. Sau khi đánh lửa, rít vài hơi thuốc, anh cảm thấy khá hơn, bật cười nhận ra mình đang giận chuyện đâu đâu. Giận nỗi gì, được qua đêm cùng Madeline, không ai quấy rầy, có chi hơn thế nữa? Một con bướm đêm màu nâu lướt qua cửa sổ, bổ xuống chỗ ngọn nến. Page xua nó đi, đoạn bước sang chỗ khác.
Ánh nến rất dịu, nom cũng hay, song không đủ tỏ. Page bật công tắc điện. Đèn chụp trên tường tỏa sáng, soi rọi căn phòng, rạng rỡ rèm hoa. Lạ nhỉ, Page tự nhủ, tiếng đồng hồ sao rõ và sắc nét thế này? Trong phòng có hai đồng hồ. Chúng không cạnh tranh mà hòa điệu nối đuôi: Chiếc này tích xong, chiếc kia liền tắc. Một đồng hồ có con lắc nhỏ, cứ đung đưa thu hút người nhìn.
Page bước lại bàn, tự rót cho mình li cà phê đã gần lạnh. Không chỉ tiếng đồng hồ, cả tiếng chân anh trên sàn, tiếng tách va vào đĩa, và tiếng ấm sứ lanh canh, tất cả đều to, rõ mồn một. Không gian trống rỗng gây ra hiệu ứng như trên, giờ Page mới cảm nhận kĩ. Dòng suy nghĩ chạy trong trí anh. Phòng này trống rỗng, ta thì một mình, sao nữa nhỉ?
Giữa không gian rộng, ánh đèn như cũng sáng hơn lên. Đầu óc mông lung, song riêng một chuyện, Page tránh không nghĩ đến, dù mới hồi chiều, anh đã đoán ra một bí mật, và tìm được sách trong thư viện để xác minh nó. Tuy ngăn nắp, căn nhà này biệt lập quá. Quanh nó là tường thành bóng tối trải dài tận nửa dặm. Nhưng thôi, hễ có Madeline là vui.
Madeline thoa phấn mũi mãi chưa xuống. Một con bướm đêm khác xuất hiện, bay vòng vèo vô nhà rồi đậu lên bàn. Lá rèm và ánh nến hơi động. Định đóng cửa sổ, Page bước ngang phòng. Đến bên khuôn cửa kiểu Pháp trông ra vườn, anh chợt sững lại.
Ngoài vườn, trong bóng tối đen, chỗ ánh điện không phủ tới, ngồi chễm chệ con người máy từ Farnleigh Close.
↩︎ Monplaisir tiếng Pháp là “lạc thú của tôi”.
↩︎ Nguyên văn: “like St. Peter, to curse and swear”. Kinh Tân Ước đạo Kitô, đoạn Thánh Phêrô chối Chúa, viết: “Then he began to curse and swear, saying: I know not the man” (Matthew 26:74). “Curse and swear” trong Tân Ước nghĩa là “thề độc”, nhưng ở đây, tác giả chơi chữ, dùng với nghĩa “chửi thề”.
↩︎ Một lễ hội ở Anh. Với người tân dị giáo (neopagan), Hội Mùa là một trong tám lễ Sabbath của năm. Có người cho Hội Mùa là xấu, gắn liền với phù thủy, ma quỷ.