Phần 2
Hồi ấy, xe lửa từ Bắc vào Nam chưa đi suốt được như bây giờ. Chỉ đi đến Cửa Hàn. Rồi từ Cửa Hàn đến Nha Trang, quãng vận tải dài ấy phải dùng xe hơi.
Hồi ấy, tầu tốc hành chưa được thường nhật như bây giờ. Mỗi tuần chỉ hai chuyến vào ngày thứ ba và thứ sáu.
Tôi lên ga vào một ngày thứ hai hay thứ năm gì đó, của một tuần lễ làm lại cuộc đời (nghe mấy chữ làm lại cuộc đời, sao nó gợi cảm và vui khỏe đến thế).
Tôi đã trịnh trọng tỏ ý định làm lại cuộc đời tôi cho anh bạn tôi ở ngay ga Vinh lúc vừa mới xuống tầu gặp anh ra đón, đi từ Bến Thủy lên.
- Trước khi đi thẳng vào Nam kỳ, tôi muốn nghé thăm anh, nói chuyện với anh một hôm cho nó hả, rồi tôi lại đáp chuyến tốc hành đi Tua Ran. Tôi ở với anh một hôm cũng đủ chán thời giờ. Chị và các cháu từ độ vào với anh cũng vẫn thường cả đấy chứ?
- Lại tống về quê cả rồi.
Nói xong một câu cộc lủn ấy, bạn tôi cười hì hì. Tôi muốn hỏi thêm nhưng hai chiếc xe tay bọn tôi đã cách hẳn ra một khoảng. Giữa phố đông, nói chuyện riêng mà to thì chẳng còn là tiện nữa rồi. Tôi để dành câu chuyện ấy về nhà bạn vậy.
Bạn tôi cho chạy xe lên trước rất nhanh, vượt tôi một quãng rất xa rồi bỗng đỗ lại trước một nhà ở phố Cống Đệ Nhị. Phố này phần đông nhà ở chỉ là nhà hát, người bạn tôi vốn là một người ốc sạo chơi bời khét tiếng, tính rất vong mạng, chưa từng chê vứt một cuộc du hí nào, chưa từng lui trước một người đàn bà nào cười cợt với anh. Đối với tôi, anh là một bực tiền bối trong sự rượu chè đĩ bợm thuốc xái, tôi có muốn noi theo anh, kể cũng còn chật vật chán. Anh đã là tấm gương bóng nhoáng, một kiểu mẫu chói lọi cho những kẻ muốn tập đòi có một cuộc đời phù phiếm phóng đãng. Anh đỗ xe trước cửa một nhà hát, không có gì là lạ. Tôi cũng họ xe lại, đợi anh ra rồi cùng đi về nhà anh ở Bến Thủy.
Nhưng tôi đã không khỏi phiền lòng khi một cô đào nhỏ tuổi từ nhà hát chạy thẳng vào cái xe của tôi, giơ tay ra giựt lấy hành lý từ trên xe xuống đất và miệng nhí nhảnh:
- Chị em bảo mời anh vào nhà.
Cô bé lại nói thêm một câu làm quà:
- Chị em vẫn nhắc đến anh luôn luôn. Được tin anh vào chơi chị em mừng lắm. Chị em đang quấn lại tóc và đánh phấn.
- Chị nào?
- Anh đừng vờ. Em biết cả. Cái ảnh của anh, chị em dán vào mặt trái nắp hòm da, em cũng được thấy.
- Nhưng mà ai? Chị nào?
- Chị Phương của anh chứ còn chị nào đây nữa.
Tôi càng ngạc nhiên hơn lúc chưa được biết tên. Tôi gặp cũng đã nhiều cô đào nhưng trong cái đời tình cảm lăng nhăng của tôi nơi hàng viện, tôi chưa quen một cô Phương nào thân mật đến nỗi gửi tặng được ảnh cho người ta đem mãi tận vào Nghệ dán nó vào một cái nắp hòm da. Tôi phân vân nghĩ kỹ dở lùi về những đêm hát cũ.
Anh bạn tôi đã chạy nốt ra, miệng toe toét quá cô bé đứng đấy:
- Hãy vào đây đã. Ta cho xem cái này hay lắm. Người cũ của mày độ nào trông ngộ hơn trước nhiều lắm nhé.
Tôi đứng sững trước một người đàn bà đẹp bắt đầu nói trước:
- Không chào Phương đi. Bây giờ đổi tên rồi. Không còn là Tỉnh nữa. Anh có đi tìm Tỉnh ở ba phố Cống này hàng tháng cũng chẳng một ai biết mà chỉ cho đâu. Thế nào đi Sai Goong đấy à. Cho Tỉnh đi mấy. Có vào Sai Goong thì lại được dịp thay đổi tên thêm một lần nữa. Thì lại vứt cái tên Phương này đi.
Tôi đã cho Phương nói lấy cả một mình, lòng riêng bận bịu với một vài kỷ niệm vụn vặn ngày trước.
- Sao anh buồn rũ rượi ra thế?
Rất vô lý, tôi trả lời: Không. Anh bạn tôi bắt đầu nhóm nóng cái không khí tẽn bẽ:
- Mau lên. Hai người nói chuyện tâm sự đi. Tôi tạt về sở một lúc rồi quay trở lại đây ngay.
- Thế anh không cho tôi về, về…
- Đây là nhà chúng ta rồi, chứ anh còn định đòi đi đâu nữa. Anh định về tôi dưới Bến Thủy ấy à? Ở dưới tôi bây giờ chẳng có một ai. Đầy tớ cũng cho đi hết cả rồi. Ăn cơm hiệu. Tối ngủ ở xóm. Hôm nào mệt lắm thì tôi mới chịu về nhà ngủ. Hôm nào bẩn lắm thì mới về nhà thay quần áo, à Phương, em bảo dọn buồng tắm cho anh Nguyễn vào tắm. Xong cái cuộc tẩy trần này, anh đợi tôi trở về rồi cùng uống một chén tẩy trần. Tôi đã dặn Phương làm cơm rồi.
Tôi còn biết làm thế nào. Bạn tôi vụt ra sở bỏ tôi ngồi đấy đối diện với Phương. Phương lại nhắc lại câu hỏi ban nãy:
- Sao anh buồn rũ rượi ra thế?
Tôi định dùng lại cái chữ « không » vô lý như cũ để trả lời, nhưng tôi đã tìm được một câu khác tuy không đúng sự thực nhưng mà gọn lọt hơn:
- Đi tầu mệt quá.
- Anh nằm đỡ xuống đây. Va li không có cái gì lôi thôi bí mật cả đấy chứ? Em mở ra lấy sẵn quần áo ra cho anh tắm và thay nhá.
Đêm ấy tôi bị anh bạn và Phương hà hiếp, bắt ép uống một bữa rượu trùng phùng rất ghê gớm. Đêm ấy và lại cả đêm sau nữa. Nhời ngọt ngào thành thực của bạn tôi cám dỗ tôi:
- Anh thì việc quan tư gì mà vội vã thế cho nó khổ cái thân. Tôi cũng chẳng dám giữ anh ở lâu. Nhưng chẳng mấy khi cất công vào thăm tôi – và nhân lại gặp cả Phương đây, thế là anh có thêm một cố nhân nữa – anh hãy ở thêm lấy vài ngày nữa. Anh không bằng lòng thì tôi cũng không để cho anh đi chuyến tầu đêm nay. Không đi chuyến thứ ba này thì anh đi chuyến thứ sáu tới đây vậy. Tôi chỉ giữ anh đến hôm thứ sáu này thôi. Nghĩa là chỉ có ba bốn hôm nữa chứ mấy mà cứ rối cả lên. Thôi uống đi. Chai sâm banh nữa. Ê cô Phương, nếu hôm nay mà anh Nguyễn không say, các cô mà để cho ông bạn tôi tỉnh thời anh chém cả nhà đem đầu lên bán cho Quản Ca đấy nhá. A lê hôn nhau đi. Một cốc một hơi.
Chai nầy rồi chai khác. Giữa một chai gần cạn hết và một chai sắp nổ nút, là một cô Phương làm nũng như con trẻ vọc quấy đến thiu cả người tôi ra. Bạn tôi quát tháo ầm nhà cửa nhà hát lên và cổ động chúng tôi phải « yêu » nhau loạn sị hơn thế nữa kia. Lá màn rũ buông, anh nói tiếng Pháp chõ sang giường tôi:
- Vốn liếng mày có bao nhiêu mà đòi dấn thân vào đất Sai Gon. Ở trong ấy củi quế gạo châu, mày quen được bao nhiêu người tốt mà dám đi một cách phiêu lưu như thế hử? Ráng đợi lại mấy bữa nữa tao có món tiền người ta chồng họ tao chia cho một nửa mà thêm vào, nghe chưa. Ngu lắm con ạ. Đã chắc làm ngay được cái đỉnh đùng gì mà cứ rối cả lên như việc quan lửa đốt dầu ấy.
Tôi nằm nghe cái lời hứa nồng nàn thành thực và chu tất của một người bạn có tính hào phóng và có luôn cả nết say sưa.
Giữa phút tin bạn và đang tính xếp lại nhật kỳ đăng trình tôi choàng nghe thấy một tiếng còi síp lê vẳng từ đầu phố lại. Đường xe lửa vô Nam vốn đặt ngang qua phố xóm Ba Cống. Tôi nghe rõ những tiếng ầm ầm của một đoàn tầu làm chấn động quãng đất quanh nhà đấy. Tính nhẩm, vào cái giờ khuya này, tôi biết đây là chuyến tầu đêm đi Cửa Hàn.
Những tiếng sì sì mở hơi nước đầu máy, những tiếng ầm ầm các vòng bánh sắt lăn bỗng hụt tắt. Tôi biết ngay là cả một đoàn tầu vào Nam đã lướt hết qua cái rào sắt chắn ngang đường. Giá mà đêm nay anh bạn tôi không nèo lại thì tôi đã được đứng ở hiên một cái toa cuối cùng để lúc tầu qua quãng đầu phố Cống Đệ Nhất, tôi được nhẹ nhõm trong lòng gửi một cái chào vui vẻ cho người phu giữ ghi đang vẩy hết nước bọt ra khỏi cái dăm kèm chiếc còi đồng, đứng ngăn các xe thành phố lại, bên một cái biển đỏ và một ngọn đèn đỏ.
Lòng tôi nao nao vì rượu ngấm thì ít mà có lẽ rất nhiều vì tiếng con tầu vừa chạy xuôi. Con tầu ấy chẳng có tôi. Nó không thể chờ tôi được. Có bao giờ một chuyến tầu lại không chịu đi nữa vì có một người lỡ trật. Tôi tha thứ cho nó. Cái giống máy móc nó vốn vô tình như vậy. Tôi lại ước muốn trở ngay lại cái thời cũ mà người đại lữ khách chỉ đi bằng sức vó ngựa, đến mỗi quán mỗi trạm, chủ nghỉ lại thì con tuấn mã cũng cứ phải đợi chờ và có sốt ruột giục chủ lắm thì cũng chỉ dám rỗ gõ móng xuống quanh đất một gốc cây dương già, lá cành rũ buông song song với đôi sợi cương da. Tiếng đoàn tầu đi qua đã hụt tắt xong thì vắng vẻ của đêm tràn ngập nhà hát và thấm mãi vào lòng tôi. Tôi thở dài.
- Gặp nhau vui như thế này, sao anh lại thở dài? Anh quay mặt lại đây.
Phương hỏi gặng nữa. Thấy tôi im lặng, nàng lay tôi. Cái tàn thuốc lá đã bị lay động, rơi tọt vào cổ áo sơ mi tôi làm tôi nhỏm dậy. Lục đục mãi không ngủ, tôi lại cho bưng khay đèn vào hẳn trong màn. Trong lá màn kín bưng, nhiều con muỗi lọt len vào từ nãy, bị khói thuốc quyến chặt lấy cánh, rụng xuống như những vụn mồ hóng bếp lửa. Đêm gần về sáng. Đêm đã thuộc về phần đầu tiên của ngày hôm sau. Cái cô Phương vốn có tính thu vén ngăn nắp đến cả lúc đi ngủ ấy đã làm một việc thừa. Cô xõa tóc đứng lênh nghênh trong tấm màn rũ đốt nến soi muỗi, thiêu muỗi. Chẳng cần bị cháy cánh mà những con muỗi vo ve ấy cũng đã trở nên vô hại, im lìm rụng xuống vì những làn khói thuốc phiện u hoài trằn trọc của tôi thở suốt mấy canh.
Đã có nhiều đêm như thế. Đã có ba bốn tuần lễ như thế. Hết một đêm thứ ba này, hết một đêm thứ sáu này lại đến một đêm thứ ba khác, một đêm thứ sáu khác. Con tầu tốc hành xuôi miền Nam vẫn cứ chạy đều đều qua Vinh mỗi đêm thứ ba thứ sáu mà chẳng bao giờ có tôi làm hành khách góp một phần xê dịch với cái thiên hạ túi bụi đăng trình ấy. Nhiều đêm chán chường tôi đã tưởng có lẽ tôi phải chết già ở cái nhà hát cô Phương này và linh hồn u uất sẽ phảng phất ở đây mãi, làm một vị tiền chủ để mai sau người ta sẽ hương khói giải oan hộ cho.
Anh bạn tôi ngày nào cũng lui tới.
Cái số tiền lộ phí của tôi đã đem ra cúng vào những phí khoản vặt vãnh cho những đêm ồn ào ở nhà hát rồi. Mỗi ngày một tí như cá rỗ muỗi. Buồn ra mặt, mỗi ngày tan sở về để cùng nằm lăn ra đấy với tôi, anh than:
- Cái số anh nó vất vả đen hủi thế nào ấy. Cái bà góa chồng họ cho tôi xưa nay là người thủ tín lắm, Chưa bao giờ bà ta sai hẹn với tôi. Tôi vẫn giục luôn nhưng bà ta cứ bảo tôi phải chờ. « Họ, tháng này thu khí chậm ». Anh bảo làm thế nào! Hát nhà này mấy chục chầu, tôi đã chi đâu. Thôi, nó lỡ ra như thế, anh cũng cứ phải tùy cảnh mà ở, mà đừng buồn. Lại phải uống rượu chứ còn làm gì hơn được nữa. Để tôi đi kiếm thêm vài thằng bạn nữa, đến cho nó làm huyên náo nhà lên vậy. Chứ anh và tôi thức mãi, gẫy cả rồi. Hôm nay đi giật lửa được mấy đồng, anh cầm lấy bảo nó đi mua một vài đĩa gì tí nữa chén vậy. Tôi về ngay đấy.
Người bạn đi vắng. Nhà hát tẻ thêm. Trông người tôi càng là bãi sa mạc oi bức. Tôi không còn đủ can đảm để mà ấp ủ cái cô Phương xinh xẻo ngoan ngoãn ấy nữa. Trông thấy Phương lại gần tôi, tôi ngấy rợn. Phương ít ngày gần đây cố làm vui cho tôi, nhưng tội nghiệp! Nàng chỉ đem lại cho tôi những cảm giác kinh tởm? Tôi chỉ cho tôi là một người ốm nuốt phải mớ thịt quay và ngửi những mùi sào nấu béo nóng. Mai rồi còn gì nữa. Không thể mỏi, không thể mệt hơn cái cữ ấy. Về sau này tưởng lại chuyến đi hụt ấy, tôi đã phải lấy làm lạ rằng sao, với gần một tháng đóng đô ở nhà cô, cô vẫn không dành cho tôi một đứa con hoang nào cả. Giá mà có cái kỷ niệm ghê gớm ấy mà mang về nhà, thì tôi sẽ đặt tên cho đứa ấy là Vinh để ghi lấy những ngày bấp bênh vô lý ở cái thành phố ấy.
Nghĩ lại càng thêm thương cho anh bạn. Tự lãnh chứ tịnh không lọt vào một tiếng oán tiếc nào của dục vọng.
Ai nói với tôi những chuyện kinh doanh kèn cựa, không những tôi dửng dưng mà lại khinh miệt người ta ra mặt nữa. Thế có vô lý không, thế có dại dột không.
Cái trại của tôi ở ngay đầu làng Hạc. Có lẽ gọi là cuối làng thì phải hơn, vì ở cái góc này, sự sống ngày ngày trông vắng vẻ quá chừng. Làng Thọ Hạc ở sát ngay tỉnh lỵ. Từ cổng trại tôi bước ra vài chục bước là cảnh thành thị, và bước vào một bước là đã hoàn toàn thôn dã xóm giềng toàn những ông lý bá, ông hương cựu, bà trương tuần. Ở đây ngày tháng ôn hoà. Một lũy tre xanh và một hàng dừa non ngăn cách hẳn cuộc đời bằng lặng ở đây với cái sống bên ngoài. Bên ngoài trại, cách vài chục bước là một con đường cái rộng dẫn xuống tỉnh. Từ trại tôi xuống đến nhà giây thép, chừng độ hai cây số.
Tôi thu dọn ít đồ vật để lên trại ở. Một bộ ngựa, vài chiếc chiếu cói, một cái bàn viết, một cái ghế, vài chồng sách báo cũ và một ít bát đĩa, nồi, đũa. Thùng gạo và chai nước mắm đã mang ra xe. Tôi ngước mắt bảo vợ và con đừng đi. Nhà tôi bảo cứ lên trước đi vài ngày rồi sẽ lên sau. Tôi hiểu ngay ý nhà tôi. Lâu nay người ta vẫn đồn cái trại ấy có ma. Và có nhiều lần trước tỏ ý muốn đem nhau lên trại ở để tránh cho nhà tôi những câu xỉ vả của mẹ tôi – ở đại gia đình nào mà thường ngày chẳng xảy ra những chuyện mẹ chồng nàng dâu – vợ tôi vẫn ngần ngại:
- Lên ở trại? Trại thì hẻo lánh. Ở cuối làng. Hàng xóm thân không có. Nhà thì neo người. Những lúc tối lửa tắt đèn, cậy ai? Rồi những đêm mưa to gió lớn, cậu bỏ tôi ở một mình một cái trại mà đi chơi đi hát, bỏ mẹ con tôi một bóng một đèn, rồi làm thế nào. Những lúc ấy chạy một bước mà về lại với ông bà được sao. Đi thì dễ mà về thì khó lắm, cậu nên biết thế. Thà ở đây với ông bà còn hơn. Sự mè nheo dằn vặt của bà, tôi phận làm dâu nghe nhiều và lâu nó cũng đã quen tai rồi. Vả chăng ở trên ấy lại lắm ma lắm nữa. Mưa dầm gió bấc ngồi mà ngắm những con đom đóm lập lòe bay vào thăm nhà thì eo ôi… Thôi cậu ạ.
Ấy thế là tôi đã đưa một mình tôi lên cái trại hoang. Cái ngõ đi vào trại sao khuất khúc đến thế này. Tre hai bên rào các nhà bên đâm tua tủa ngang lối ngõ. Ban ngày mà ngõ âm u như trong một cảnh rừng sâu. Đêm tối đi vào ngõ mà không có đèn, thế nào những cành tre gai cũng quật vào mặt.
Tôi vừa bước vừa gạt những cành tre cùng giây leo. Những giọt nước đọng trên cành lá rơi xuống lốp đốp nặng như giọt sương đêm thu. Đêm qua mưa to, thảo nào. Nhiều tiếng chó khác nhau sủa vang. Nhiều cái đầu người nhà quê ló ra phía ngõ một cách tò mò. Tôi đi thẳng vào cái trại của tôi: cổng trại không có cửa đóng.
Tôi ngừng bước ngắm cái bất động sản của tôi. Trong thửa đất hoang vu, cỏ cao đến đầu gối, rau sam mọc đầy lối đi mà tôi tự hỏi ngay tôi xem tôi có thể can đảm với cảnh này cho trọn vẹn không. Cái cảm tưởng sơ đầu của tôi lúc đặt chân vào trại là ở đây chỉ rặt có rêu và cỏ. Toàn rêu, toàn cỏ, không một tiếng gia súc, không một tiếng người. Sự thực thì trong cái trại hoang này vẫn có một người ở sau đây: lão bếp Quyên. Đã từ lâu ông bà tôi cho lão ở nhờ đây cho lão trông luôn thể. Lão Quyên trước kia là một người lính tòng chinh qua Pháp. Nhưng đi binh lại về binh, cuộc đời lão ở cái làng quê hương không có một chức vụ hoặc tư sản gì giữ lão, lão bèn lên tỉnh kiếm ăn và lấy cái trại hoang này sớm tối đi về. Những ngày mùa ngày hái, lão tìm đến những vùng lân cận bán nhân công. Vào những cữ khác, lão lại đem hai cánh tay ấy để đến những chỗ đài tải hàng, ai muốn đẩy xe bò thì lão cho thuê hai cánh tay. Và những lúc nào không ai thuê mượn gì, thiếu tiền ăn thì lão lại ra các lũy tre quanh trại, chặt bớt vài cây tre đực ngã xuống làm một cái thang, một cái chõng đem ra chợ bán, bán được bao nhiêu là mua muối gạo tất. Lão chém tre rồi lão lại chặt cả măng. Xem chừng dạo này sinh kế và công việc làm ăn của lão cùng quẫn lắm thì phải. Tôi đứng ngắm mấy hàng tre quanh trại thưa thớt, để rõ những lỗ trống đến người chui cũng lọt kìa thì tôi thừa hiểu.
Tôi lên ở trại là một việc bất thình lình, nên lão Quyên cũng không biết. Và tôi đã vào đến cái sân trại rồi mà lão cũng chẳng hay. Tôi bước bên thềm. Trước sau nào thấy bóng người. Tôi đi xuống bếp. Có một người bẩn thỉu, khoác cái áo lính cũ vải vàng như sơ mướp, đang bó gối ngủ bên một cái nến nguội tắt. Lão Quyên! Lão ngủ mà một tay vẫn cầm chiếc điếu cầy dịt sẵn mồi thuốc còn nguyên, tay vẫn cầm một thanh đóm. Choàng mở mắt, lão luống cuống:
- Lạy cậu. Cậu lên chơi mà con không hay.
- Không, tôi lên ở hẳn trên này đây bác ạ. Bác chạy ra phía đường cái, đứng ở gần cầu Hạc ấy mà đón cái xe bò chở những đồ vật của tôi chuyển dần vào. Đưa tôi cái chìa khóa mở cửa nhà trên.
- Dạ để con ra mở. Cậu có diêm, xin cậu một que con xin phép con ăn một điếu thuốc lào cái đã. Từ sớm giờ, bếp không có lửa. Định sang bà Cựu bên cạnh lấy lửa về, nhưng con nghĩ cũng chẳng có gì bắc lên bếp mà nấu nướng, nên con lại thôi.
- Thế vợ và con đâu cả?
- Dạ, đi hàng dưới chợ.
- Đi bán măng phải không?
Tôi vừa nói, vừa cười vừa nhìn ra lũy tre trước nhà so le kín hở như một cái hàm răng người có tuổi. Lão bếp Quyên lặng im, định tủm tỉm mà không dám, chỉ gãi tai gãi đầu. Lão vốn biết cái tính dễ dãi của tôi. Những lúc xuống nhà có công việc trước mặt ông bà tôi, tôi vẫn che chở cho lão.
- Dạ, trộm phép cậu, đói quá, không có việc làm, thỉnh thoảng con có cắt ít măng. Nhưng không dám nói với cụ ở dưới ấy. Nay cậu lên ở, để vợ chồng con rào kín lại. Và con hầu cơm nước cho cậu để xin những chỗ thừa mứa mỗi bữa cho hai đứa nhỏ. Có cậu lên ở hẳn trên này, rồi trong trại cũng phải vui thêm ra.
- Thôi, bác đi xa đón xe bò thì cũng vừa đấy, kẻo họ lại kéo quá lên phía A-ba-toa mất.
Lão Quyên đi khỏi, một mình tôi lặng ngẫm sự hoang vắng sống trong cái trại chết này. Cái sân gạch rêu phong. Từ chân tường, mối cứ thế mà đùn lên đến nóc, kẻ những đường nối oằn oại. Tấm cửa cái vừa mở, bước vào gian nhà giữa, tôi ngửi thấy một mùi mốc lành lạnh. Bên trại buồng bên, mùi ẩm ấy gợi đến cái không khí nguội kín những nơi chính tẩm những gian chùa cổ thiếu sự hương khói quanh năm. Mùi cứt gián cứt chuột điểm thêm vị tởm lợm vào cái khí thê lương của nếp nhà mệt mỏi. Hai chái buồng bên, nóc vốn là hai cái sân thượng, nước mưa tụ ứ đọng lại, thấm xuống kẽ gạch, rỉ xuống những dui gỗ đỡ trần nhà. Nhiều giọt nước mưa lưu cữu chưa đủ sức nặng để rớt xuống nền, vẫn còn bám lấy thân những dui gỗ, có ánh sáng soi vào, long lanh như giọt sương cành buổi mai, vườn vừa ngớt trận mưa đêm. Có một chút gió từ ngoài tạt vào. Những giọt nước mưa vẫn chưa chịu tụt xuống, cứ đánh đu dưới dầm lim mục và dún dẩy qua lại. Chao ôi cái mặt tường phía sau nhà này, quay về hướng tây, có cửa sổ, những đêm cuối tháng có bóng giăng dòm trộm vào thì là cả một thiên tình sử gợi đến nước mắt đây. Đêm sáng giăng xuông, nằm đây mà vãn một mảnh nguyệt tà, thì chẳng cần đến hình bóng một người đàn bà nào thêm vào mà người ta cũng thừa có một khung để lồng vào đấy một cái ảnh của một mái tây để lạnh hương nguyền.
Tôi trèo lên gác sân nhìn xuống một lũ mả ở rải rác về phía Bắc vườn. Phía-đông bắc trại bị choán gần hết vì một cái cồn, dứa dại mọc um tùm. Cứ lời người làng thì ở trên con dùa, vẫn có ngôi mộ cổ của một ông Thiết Trụ Hầu, làm quan võ đâu từ đời hậu Lê gì đó. Ngoài con dùa là lũy tre bọc trại, là ruộng rồi đến con đường hỏa xa đi ngang qua lò sát sinh của thành phố.
Tôi đếm được đến tám chín ngôi mả, chòm mả rầu rầu một thứ cỏ may. Giữa ban ngày mà có nhiều con quạ đen dạn bóng người, dám nô rỡn trên những ụ đất đựng cốt khí và nghiêng đầu nghiêng cổ liếc mãi mỏ xuống bụi cỏ. Lòng tôi rờn rợn. Tôi bước xuống lầu, với cái tin tưởng rằng những chuyện ma người ta đồn là chắc có thực. Phần ám khí ở đây nặng lắm, nặng đến nỗi cái tiếng te te gà hàng xóm sau trại gáy mà nghe nó cũng thế nào ấy. Ở cái nhà mốc này, giữa cái trại hoang này mà đọc Liễu trai thì thú tuyệt. Thế này thì ra cái trại tôi là một bãi tha ma rồi còn gì nữa.
Tôi nghĩ lộn lại về những ý thích trước của tôi đối với những cảnh ẩn dật mà tôi lại muốn cười lên để chế nhạo tôi ở giữa cái chỗ tịch liêu nửa mùi thôn ổ nửa đã thị thành này. Người ta thường bảo cái gì nhỉ? À, đại an cư thành thị, tiểu an cư lâm tuyền. Cảnh trại đây có lẽ là một nơi xứng đáng cho một người trung ẩn để dựng lấy cho mình một cái sống dửng dưng tiêu cực. Lúc này tôi mới biết rằng đi ở ẩn là một việc không dễ như người ta cứ tưởng. Nó khó như là việc đi tu ấy. Những lúc buồn phẫn, ai mà chẳng nghĩ ngay đến sự đi ở lánh khuất, đến sự vào chùa. Nhưng cái buồn trong tâm tư không vững, không chuyên chất, một khi đã đứng trước u tịch rồi người ta lại càng thêm nhớ tiếc những tiếng động của tất cả những cái gì mình định bỏ xa lùi lại về ký vãng.
Tôi đang phân vân nghĩ nên ở hay là lại lộn về ở dưới phố cho nó ấm lòng hơn – những nỗi bực bội của hoàn cảnh đại gia đình dẫu sao cũng vẫn còn là sinh khí, cũng còn là cái liên lạc nối mình vào cuộc sống, chứ ở đây chỉ có sợ mỏi và mùi chết – thì bếp Quyên đã khuân đồ đạc vào.
Chiều đến, bếp Quyên thổi cơm cho tôi: trên mái bếp lợp lá lẫn với cỏ khô, những vờn khói lam đem chút yên ấm cho lòng. Nhưng xong một bữa cơm ăn một mình – một bữa cơm không có rượu – tôi cũng vẩn vơ và thấy thương nhớ bất cứ cái gì đã lọt vào lòng từ trước tới giờ. Thậm chí nhớ cả đến những tên đào nương vô nghĩa lý nhất trong cái xã hội thanh sắc vốn đã quá rạc rầy. Trong gánh sầu hoài, phút này, một đầu lại còn nặng thêm những chuyện bực mình. Rửa chân cạn mấy cái, leo lên giường, tôi định cố ngủ đi một giấc, để sớm mai dậy, tôi sẽ sửa lại tấm thân cho gọn, dâng hẳn một tấm lòng sớm mới cho một buổi mai vui cười tràn lấn trên cây và cỏ khu trại. Buổi bình minh nào mà chẳng nhẹ nhàng.
Tiếng còi báo hiệu vào ga của một chuyến tầu tối vẳng ngoài bờ tre đã dựng tôi dậy nhanh. Đứng trên gác thượng vọng ra cái đoàn tầu loe sáng đang lướt theo lũy tre đầu làng, tôi nhận thấy cuộc đời tôi không thể vắng tanh vắng ngắt hơn thế này được nữa. Tôi rùng mình, thấy cái giấc ngủ cô đơn trong một đêm đầu ở trại hẻo lánh là ngại lắm. Tiếng vọng của đoàn tầu đã nín bặt. Giun dế ngoài nội cỏ thấm xuống lại vẳng lên với đóm nhấp nhô. Từng đợt dải trên đường bờ các thửa ruộng xa, tiếng còi huýt và tiếng tù và của đám phu tuần làng được an phận lúc sương tức đang gọi nhau canh trộm trong cái mò mo của cánh đồng.
Tôi khóa cửa lại, xách đèn điện bấm ra đi bảo bếp Quyên trông lấy trại.
Một loạt chó sủa ran. Tay gậy tay đèn, tôi đã lọt ra khỏi cái ngõ quanh co. Đặt chân lên con đường chính sứ màu phấn đường nhờ nhờ như màu dải sữa sông Ngân trên đầu, lòng tôi nhẹ vơi hẳn đi. Từ đầu đường, đối lại tiếng trống chầu xóm, quán giờ. Tiếng trống rõ mồn một, nghe tròn và xinh đáo để. Trong người tôi, bao nhiêu thói tục cũ lại thức tỉnh lại hết.
Tôi bước vào nhà hát ông Thông Phu mặc dầu ở đây có khách hát rồi. Ông Thông Phu đang ăn thuốc phiện dưới nhà cầu.
- Kìa chú. Lâu nay đi đâu mà không thấy
- Đi chơi một chuyến xa quá. Định đến thuật chuyện cho anh nghe. Chị đi vắng à?
- Dưới phủ Hoàng, ông phủ chả mở tiệc khao khiếc cái gì mà những ba ngày kia. Họ đón chị xuống hát từ hôm qua. Có chóng lắm thì cũng đến đêm mai chị mới về được.
Tôi tranh lấy việc tiêm thuốc. Rồi ngả lưng làm điếu thuốc cho chủ nhân, tôi rầu rầu tường thuật cho ông Thông Phu nghe về một tháng rủi ro ở đất Nghệ. Chủ nhân lại còn lấy làm khoái trá.
Ấy, đấy chú xem đấy, hễ chú đi đến đâu là y như có chuyện đến đấy. Thôi, cái số nó điềm ra như vậy, việc gì mà phiền. Sự nó sinh chứ ai muốn sinh sự mà làm gì.
- Bây giờ tôi xin ông bà tôi lên ở biệt hẳn ra ở trên trại anh ạ. Cái trại trên làng hạc, anh biết rồi đấy chứ? Hình như anh đã tiểu ẩm với tôi trên ấy một hôm.
- Biết. Biết lắm. Trông nó như cái am của bực cư sĩ ấy chứ gì. Ở đấy mà nghiền Tam Quốc và nói nhảm, ê a hát chèo thì thú lắm, ơ hơ hơ.
- Bắt đầu từ hôm nay, tôi đã dọn nhà lên. Tôi vừa ăn bữa cơm chiều đầu tiên một mình ở trong trại rồi mới xuống đây đấy chứ.
- Cũng hay. Anh em mình đã thân rồi lại càng thân thêm. Gần mà lại càng gần. Từ nhà tôi mà vào trại chú, độ ba bốn trăm thước chứ mấy. Nhưng chỉ sợ chú không ở nổi thôi. Giai ở trại, gái ở hàng cơm. Không phải tôi chê chú nhát gan hoặc ngu ngốc đâu, nhưng tôi muốn nói đến cái nết hiếu động của chú. Cái tuổi của chú đang còn muốn những sự bay nhảy tứ tung, đã ngồi yên thế nào được, đã tự mình bỏ tù mình thế nào được? Nhưng thôi, hãy cứ biết thế đã. Ở đây ngày nào hãy biết ngày ấy và hay ngày ấy. À mà chú ạ, cái làng Hạc này chú đã lùng cho hết các đường trong làng chưa? Sao mà lắm lối dọc ngõ ngang đến thế vậy! Tôi đã xem kỹ rồi. Làng này mà đánh bạc, khó vây lắm nhá. Vây chặt đến đâu, con bạc cũng cứ tẩu thoát lọt. Làng này đám cướp lạ đất, không dám vào đâu. Chỗ trại chú ở, khí khuất một tí. Cuối làng. Có điều vắng. Nhưng rồi cảnh cũng phải tùy chủ. Hôm nào tôi lên chú, rồi tụi mình cùng sang bên ông Tú làng Hạc, rủ mấy anh ngốc đánh cờ ăn ít tiền chơi.
Gian nhà hát ngoài có tiếng ồn ào. Những chữ tục tĩu vang ra nghe đã rõ lắm. Chỉ thấy chủ nhân tủm tỉm chứ không tỏ ý khó chịu chút nào. Cái nhục của nghề. Ông Thông Phu hẳn đã quen tai nên không cảm động mảy may. Một cô đào đứng tuổi vào, thấy tôi vội khẽ chào « lạy chú ạ » và trình luôn với chủ nhân:
- Thưa bác bốn quan viên họ dở quẻ, đòi đi. Họ để hai đồng bạc vào lòng tráp trầu. Con không dám cầm.
- Con có biết bọn nào không? Khách lạ hay quen?
- Lạ cả. Bọn công tử. Hình như có cậu Thường, con ông Phán gì vẫn hay xuống nhà ta ấy.
- Thôi được. Con cứ ra nhận lấy chỗ hai đồng bạc ấy. Nhớ lấy kiểu người các ông ấy và lần sau các ông ấy có trở lại thì con bảo các dì ấy phải cẩn thận hơn. Mỗi lúc gặp người khí huyết cương cường không biết đều, mình phải nói chuyện, mệt lắm.
Câu sau, ông Thông Phu xoay sang tôi, phàn nàn riêng. Ông cười khà, nói tiếp:
- Thôi bây giờ hai thằng mình khiêng cha nó tĩnh ra ngoài thắp đèn lên mà chơi giữa nhà cho nó sướng. Chúng mày không chơi thì đã có các ông. Thiếu gì người chơi ở nhà này hở chú! Ta ra ngoài nào. Ấy ơi, vào bưng khay đèn ra nhà ngoài cho bác và bảo đóng tất cả bộ cửa ngoài lại.
Ông quay lại tôi cười hề hề, giọng thân mật:
- Nhiều khi, vợ con đi vắng cho đôi ba bữa, thú ra phết, chú ạ.
Bà Thông Phu, tôi đã biết. Còn con? Làm gì có. Nhưng chủ nhân cứ nói thế. Đôi vợ chồng nghiện cả ấy, con thật thì không có, nhưng những con nuôi con mày thì nhiều lắm. Họ ở bốn phương giời tìm đến giúp « bác giai bác gái » cứ đầy cả nhà ra đó. Rồi họ đổi tên đổi tuổi, tự ý đổi lấy để chôn bớt đi một đoạn đời cũ, hoặc nhờ « bác » đặt cho một cái tên khác nghe nó vui tai và xinh hơn. Nhưng muốn gì thì gì, cái tên cô đào nào mà chẳng đẹp, mà chẳng là danh hiệu của một thứ hoa hay là một vật gì quý giá ở cuộc đời này. Lan, Mai, Phụng, Bình, Ngọc, Cúc, Trúc, Sơn, Tâm, Sâm và còn bao nhiêu cái tên ghép những hai chữ, đọc đến, nghe như là tên những người đàn bà có cầm bút ký tên vào báo chí.
Cô Bích Liên, Cô Hồng Liên, Chị Hạnh Liên, Chị Hoàng Liên. Đóa sen màu vàng. Bao giờ thì có giống hoa sen đen xuất hiện giữa cái đám cây cỏ lạ ở đất Bình Khang xứ này?
- Kìa, chú còn đi đâu mà sỏ giầy. Cô Xinh đâu, không lấy cho bác đôi guốc. Đưa sang cho chú kia mà.
- Tôi nói thực với anh là hôm nay tôi thành tâm xuống hát dưới anh. Anh để cho tôi kiếm mấy người bạn có tính đùa rất ồn.
- Sao hôm nay chú lại có cái giọng dở hơi như vậy? Chú và tôi nắm tay đôi như thế này với nhau, không là hát hay sao?
- Anh hiểu nhầm cái ý của tôi mất rồi. Để tôi nói thêm. Có lẽ anh cứ để bàn đèn trong buồng thì hơn. Cái đám người quen tôi sắp đưa xuống, anh không chịu được đâu. Họ, không những đã trái tính trái nết mà cái đức độ làm người cũng hãy còn kém lắm – tôi mới nói đến sự làm người khách làng chơi thôi – Có anh cùng ngồi ở nhà ngoài, họ sẽ không được tự nhiên cấu chí các cô ấy, họ bỏ về hết với cái cảm tưởng rõ rệt là một đêm chơi không được như thế tức là không đi hát, có đi xuống hát cũng bằng không. Đã hay rằng xuống dưới anh, có hát hay xuống chơi thôi, bao giờ anh chị cũng coi tôi như người nhà, không phải đem những lời khách tình ra mà đãi. Tôi đã không lấy làm điều mà lại còn thích nữa. Đã hay rằng nằm đối diện với anh mà thanh đàm, nó là một cái thú âm thầm ít người tập được đấy, nhưng đêm nay anh phải cho tôi ngồi giữa cái cảnh ồn ào chốc chốc điểm vài tiếng cốc bát loảng soảng đổ vỡ. Tôi ban nãy nói là các bạn chơi tôi sắp mang xuống, có tính ồn, nhưng chính tôi, trong đêm nay, cũng thấy thèm sự huyên náo, vậy anh cứ vào nằm lại trong buồng riêng đi. Tôi kéo họ xuống uống rượu, nói quấy quá, cử động bạo ngược một hồi cho hả hết hơi rượu và xong rồi sẽ lại vào nằm nói chuyện với anh cho đến sáng.
- Tính chú ít nói, sao bữa nay lại có cái thích trái ngược như thế?
Từ hôm ở Vinh về, tôi đã câm nhiều lắm rồi. Một ngày hôm nay lên cái trại bỏ hoang đã lâu, tôi lại càng thấy sự im vắng mông mênh một cách ghê gớm. Không, mai kia anh phải lên trại, nằm một đêm một ngày thì anh mới biết. Cái im lặng đêm tối ở trên ấy, có lẽ không đến nỗi kinh sợ bằng cái im vắng ban ngày. Tôi đứng trên gác thượng, nhìn xuống miếng đất ngổn ngang những thứ cây quái gì ấy mà trong lòng tôi hiu quạnh dâng mãi lên. Hiu quạnh sống trong người mình và chung quanh mình, cái gì cũng chỉ gợi đến những ý xa vắng, lạnh và cũ và mỏi và ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm cơm chiều nay, tự nhiên tôi có cái cảm tưởng gở dại là mình đã trở nên một người góa bụa, hoàn toàn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa nhân loại, góa hết cả. Bát cơm và vào miệng, chỉ là những miếng thê lương. Tôi vừa ngồi ăn vừa ngồi nhìn hoàng hôn thả sương chiều xuống mặt cái trại quạnh quẽ. Làn sương là là trên ngọn tre thưa gẫy, trên mấy chòm dừa vàng úa, trên cái bể cạn giữa sân không có một giọt nước chứa rồi làn sương lù lù đi vào nhà, vờn lấy một mâm cơm đã đi hết hơi. Tôi rùng mình, cố đập vỡ xuống nền gạch có rêu một chiếc bát để được nghe những tiếng động mạnh bạo tàn nhẫn. Nhưng cái bát bị quẳng ấy, có vỡ tan ra từng mảnh vụn mắt tôi có trông rõ, mà quái lạ, hình như không gây ra được một tiếng loảng soảng nào. Tôi vẫn tưởng thính giác tôi vốn làm việc chậm sau thị giác, tôi vẫn ngồi chờ đợi. Tai tôi vẫn chờ, mắt tôi đăm đăm chiếu xuống đống mảnh sứ vụn, giống như một người lớn tuổi ngồi rình một quả pháo ẩm ngòi dẫn thuốc. Không khí vẫn không bị một tiếng động mạnh nào xé vò và xô mạnh ấn ra, lại dần dá cứng thêm, thắt chặt vòng vây lại quanh tôi, quanh mâm cơm. Những vệt khói tan của bát canh bị khí lạnh nén đè tịt xuống, lại lẩn xuống đáy bát. Tôi nhìn ngang ra chung quanh. Mấy bức tường ẩm đang toát mồ hôi, rỉ tuôn bật ra những hạt nước li ti và khi hạt nước đã to được bằng cái mắt cua đồng, đủ sức nặng để rụng, thì hột nước kéo dài ra rỉ tuôn theo vạch tường như những giọt lệ chảy dọc xuống. Đã từ những ngày hoang vắng nào, những giọt nước mắt ấy đã chảy mà vệt nước mắt ấy đã có đường bờ, đã có rêu xanh vờn lấy cạnh! Nghĩ thấm thía, tôi cảm thấy khoảnh trại đây là một chốn lãnh cung mà tôi chỉ là một tên yêm hoạn cầm một chiếc đèn lồng phất lượt sa tanh chiếu tọi mãi để tìm những người cung nữ đã chết mòn từ bao giờ. Tôi buồn một cách rất nên thơ. Rồi trong cái buồn lại lẫn cả kinh sợ. Trong người càng thấy lạnh, đã lên giường nằm rồi mà không tài nào ngủ được, tôi mới nhớ ra lúc ăn cơm chiều, tôi đã phạm vào một điều vụng về rất tự đáng trách. Là tôi đã cố tình không uống rượu. Ở cái trại ấy mà không có rượu và bạn thì chết mất, anh ạ. Cái cảm tưởng vào ngày đầu tiên ở trại của tôi là nó cứ rờn rợn thế nào ấy. Không phải mình hẳn sợ ma đâu. Nếu ma hiện lên, có lẽ mình không chạy đâu, mình sẽ ngồi hoặc nằm mà xem xét. Nói cho đúng ra thì tôi đã hết sức sợ cái cảnh im vắng trong trại tôi hết cả buổi chiều nay. Tôi bèn lần xuống đây, để tìm những cái ồn ào. Hôm nay – nói anh đừng giận – tôi không cảm thấy cái thú của một cuộc chơi tay đôi lặng lẽ như nhiều ngày đêm khi nằm bên khay với anh. Trong lòng tôi đã ngấy lên vì lặng lẽ rồi. Nếu anh muốn tránh cái ồn ào của nhà anh, mai mốt mời anh lên trại tôi, nhớ đem theo pho Liêu trai in chữ thạch bản nằm xem với một ngọn đèn hoa kỳ thì tha hồ mà lặng lẽ im vắng. Thôi, để tôi đi tìm mấy tên giặc xuống cho nó làm ầm ỹ lên cái đã. Anh vào đi.
Những người bạn trùng trường tác hí của tôi, cái đức huyên náo thực không chê vào đâu được. Họ đánh trống như là đám hỏa đầu quân băm thịt viên trên cái quầy bếp một hiệu cao lâu Quảng Đông to lớn. Họ nói chuyện tâm sự với nhau mà như là hầu sáng hô tiền hàng. Họ vần cô đào, họ chơi hoa như là lính đi cắt cỏ ngựa về cho ngựa quan ăn. Nhà hát là cái chợ. Ầm ầm. Một chợ người. Đến tôi đã quen rồi mà tai mắt cũng cứ rối cả lên.
Bạn tôi dạy tôi uống rượu quay thìa, uống rượu đánh diêm, uống rượu đưa võng. Tôi ngà ngà, đập ngay một cái bát. Bát vỡ, tiếng ròn tan. Ừ, có thế chứ. Chứ cái bát đập lúc chiều trên trại chẳng kêu thành một tiếng nào. Ở đây nhiều sinh khí có khác. Rượu vào, người ta ăn nói ghê quá, trắng trợn quá. Một bên là quan viên, một bên là ả đào, giữa cái đám hát quan họ không có trật tự ấy, sự ví von hay đáo để:
« Mí lại », « rồi thì là mà », « ầu, mà nhẩy », « em chả… », « …lần đầu em đến cái chỗ vườn hoa đô hội, thật là một cái ân hận được gặp các quan anh, có điều gì không phải, xin các quan anh đừng trách nhiệm các em… »
Vui lắm. Thú lắm. Tôi đã cười như con khỉ, như người dẫy chết. Tôi đã lăn đùng ngã ngửa ra, tôi đã bò lê bò càng ra giữa chiếu rượu, vừa bò vừa úp mặt xuống đống thìa bát ngổn ngang vừa hét: « Cho mấy chai bố nữa. Phải đánh ngã vài cây bố nữa ».
Bao giờ thì tôi lại được đi Sai Goòng nữa hở Giời! Ở trong ấy còn vui hơn ngoài này. Vả lại không cần có rượu thấm vào.
Rượu tan. Gà gáy. Một cái thân hình nhỏ bé rúc vào nách tôi. Bốn góc nhà, có những tiếng « thì thào » Đức Thích Già Mâu Ni bảo rằng chúng sinh phải thương lấy nhau và đức Chúa dậy rằng: Hỡi các con hãy khá sinh nở cho nhiều vào.
Ấy thế rồi mặt trời lên cao không biết là năm hay bẩy con sào nữa, tôi vẫn ườn xác ra như một kẻ bị đắm tầu, mệt quá chỉ còn nằm được như thể mà bơi ngửa.
Trưa rồi. Thời giờ là vàng bạc. Tôi phải vùng trở dậy vì chủ nhân đã cho thỉnh vào để ăn cơm sáng. Cái cô Lý hay cô Huệ bé con ấy cứ lẩn quẩn mãi bên mâm cơm. Cô bé e lệ, thấy tôi nhìn lâu thì lại cúi mặt xuống. Tôi hỏi cô bé đã ăn cơm chưa và nếu chưa thì ngồi xuống. Ông Thông Phu giẫy nẩy lên:
- Ấy không được. Chú đừng nuông các cô ấy mà đâm ra hỏng hết, không còn sai bảo gì được nữa. Các cô ấy đã có mâm khác.
Quanh cái mâm bên giường kia đông đúc những toàn chị em giúp việc trong nhà, vẳng lên một chuỗi cười dài. Cái tiếng cười khích bác ngầm ấy hình như lại để riêng tặng tôi. Họ lại thì thầm, chỉ chỏ tôi và chỉ chỏ luôn cô bé Lý hay cô Huệ gì đó. Mặt cô bé càng đỏ thêm, lủi đi mất. Tôi nhìn theo và mang máng nhớ hình như đêm qua chính cô ấy đã quạt hộ tôi cái màn. Muỗi ở nhà hát, bao giờ mà chẳng nhiều, và người khách chơi nào mà chẳng tìm một cái màn cho kỳ được. Để rồi lúc người ta vào quạt màn cho thì muỗi lại càng có dịp chui tha hồ vào cái màn hở hang mà đốt đầy cả mặt hai người lên. Thế mà có nhiều vị khách khó tính lại còn ỏe ọe, chọn lọc cho được người quạt màn nữa kia. Buổi nhá nhem cùng ngày ấy, bà Thông Phu đã trở về giữa lúc tôi và ông Thông cùng ngồi vào mâm cơm nhiều. Bà đon đả, toe toét xách túi phách chạy vào:
- Kìa chú. Cái số chú tốt lộc có khác. Lên chơi là y như đúng vào ngày Thánh cho chị ăn lộc. Khối tiền đây. Về qua chỗ quán gì ấy mà, thấy họ vừa vớt cân giò lụa ra mình thấy ngon mua ngay. Này các cô đâu, vào bảo cắt giò ra để chú và bác xơi rượu. Và có cần mua thêm gì nữa, ăn một bữa cho sướng, hở chú? À, quên mất chưa hỏi nhà tôi. Vậy chớ còn thuốc không hở mình?
Bà Thông Phu móc túi lấy chìa khóa, ống vôi trầu, thuốc lào vứt ra giường. Bấy nhiêu cử chỉ, bà cốt làm để cho nghe thấy hào nhớn hào con kêu lẻng sẻng và bạc giấy bật cả ra ngoài miệng túi áo cánh. Tôi phải nghĩ như thế. Ông Thông Phu cười, chỉ tôi:
- Ở nhà, người ta cũng phong lưu chán. Hôm qua chú hát đấy. Tôi chưa cho về trại vội, bảo chú rằng tối nay thế nào mình cũng về. Mình đã định nếu hôm nay bà mày vẫn còn phải giữ lại ở phủ hát nốt một buổi dã đám thì ở nhà là hai thằng đây sẽ khênh mẹ nó bàn đèn ra giữa nhà chơi với nhau, không cần tiếp rước đứa nào nữa.
Bà Thông Phu nguýt yêu người chồng nghiện. Ông Thông Phu đắc chí vì câu nói láo có duyên, tu vội ấm nước nóng đánh chụt một cái, cười hề hề. Bốn cái môi tái nhạt ấy, vào những giờ phút thương mến nhau bằng cái tình già này, tôi thấy tươi sáng hẳn lên và còn đáng vẻ hơn là những cặp môi son trẻ khác tô son hình quả tim.
- Thôi mình đừng thay quần áo vội. Nằm luôn lên bên kia, tôi tiêm cho mấy điếu đã.
Ngoài đường lạnh quá chú ạ. Để chị hút mấy điếu cho nó đứng đỡ đi rồi chị bắt cho chú nghe cái câu gối hạc này này. Đêm qua hát ở phủ, các quan khen hay bắt hát đi hát lại mãi và thưởng mê tiền ra. Có cái ông cụ Huấn gì ở Phủ Hoằng – chú có biết không nhỉ. Người có tuổi hay đội cái nón tu lờ như nhà sư ấy mà – sao mà tốt giọng đến thế. Ông cụ lại bắt bẻ chị về cái màn hãm ba bực nữa. Thôi, giọng hát nam bắc huỳnh pha, ông cụ đủ cả, cô đào non thì cứ gọi là lụt hết, là mời đi về. Ông cụ lại hay thơ thiếc nữa. Hẹn hôm nào lên tỉnh sẽ lại đây hát. Thôi, có gặp, thì anh em nhà chú lại soắn lấy thì hai cái xỉ mùi này, hai cái của này lại lăn vào nhà mà kết nghĩa. Tôi chen vào:
- Rồi thì người ta mới khiêng anh ấy đi ngao du hàng mươi mười lăm hôm chứ.
- Đây chẳng ai thèm giữ, nếu thiên hạ vẫn cứ cung đủ thuốc phiện cho anh chú. Nhà tôi ở nhà lắm thì chỉ tổ rước các bố trẻ đến hát biên sổ chứ được cái tích sự gì. Nghĩ đến cái cơ màu tháng trước mà tôi tưởng tan nhà hát, chú ạ. Ai đời đã đi hát chịu mà còn mượn tiền chị ngoài tiêu vặt. Tiền hát bẩy tám chầu, mình cũng không dám hỏi. Hỏi, lại sợ các bố ấy mặt sưng mày xỉa ra rồi bao nhiêu cái tử tế nhân nghĩa trước là vứt toi hết cả. Rồi chú có mở nhà hát, chú mới hiểu đến cái nông nỗi thấm thía của chị.
Tôi mở nhà hát! Tôi thần mặt ra nhìn kỹ bà Thông Phu. Ồ, cái bà ăn nói mới lạ chưa và thí dụ mới chết người chứ? Thực vậy, thề có cái bóng đọi dầu lạc nhà bà kia, chưa bao giờ tôi có cái ý tưởng làm chủ cô đào… Thấy tôi tểu mặt ra, ngồi im lặng, ông Thông Phu lại tưởng tôi sượng sùng về câu chuyện vợ ông day dứt đến những người hát chịu mà trong số đó tôi là một người cũng vào hạng đứng đầu nơi sổ đoạn trường nhà ông, ông vội bào chữa cho tôi và bảo vợ:
- Hôm qua chú hát, chú đã đưa tiền cho tôi rồi. Cu cậu làm bộ làm tịch lại còn không chịu chi giá nội.
Bà Thông lườm chồng, thở vội khói thuốc ra lỗ mũi tu vội ấm nước nguội, nhỏm dậy cướp lời:
- Ô hay mình ăn nói đến là hỏng. Người ta đang nói chuyện cái tình đời cho chú ấy nghe thì đâm ngay một câu nghe đến là thối. Để chú ấy không hiểu, chuyện thiên hạ chú ấy lại bắt vào chuyện chú ấy, rồi lại tưởng tôi nói xa xôi cạnh khóe.
Chồng gắt:
- Gì mà nhặng thế. Ừ thì hôm qua chú ấy hát đưa tiền ngay, người ta cũng nói cho mà biết, chứ ai bênh gì chú ấy và chú ấy ngọng gì mà phải bênh.
Đến lượt tôi là thằng bị cáo, khai một cách nhỏ nhẻ:
- Tôi cũng biết rằng chị ấy nói chuyện một cách tự nhiên thế. Nhưng nhân nói đến chuyện hát xướng, tôi cũng muốn nhớ lại xem tôi còn thiếu dưới chị tất cả là mấy chầu để tôi lo liệu đưa anh chị tiêu đỡ.
- Thôi khỉ ạ, đừng có méo mồm, méo miệng mà ỏn ẻn. Hát lưu cửu như thế, chị nào mà nhớ cho xuể. Đã muốn nhắc đến nợ cũ thì đây người ta cũng luôn thể bảo cho người có nợ biết rằng phải lo đi thì vừa. Cuối tháng này mà không có thì người ta chẻ đầu ra, đã nghe rõ chưa hử?
Tôi cười, vợ chồng chủ nhà hát cười. Thế là xí xóa câu chuyện suýt thành to.
- Thôi mình để tôi tiêm lấy. Ngồi dậy mà uống rượu với chú đi. Tôi cũng ăn cơm sau với. Ấy ơi. Có cô nào đứng ngoài ấy không? Bảo bác thêm mấy cái trứng nhá. Lúc nào vần cơm hãy bác. Có tiền, tội gì mà chắt bóp ăn uống kham khổ, phải không chú. Có tiền không chịu ăn cho nó sướng cái lỗ miệng, nghĩ cũng dại. Ăn nhịn để dành mãi, ốm ngay một trận, thuốc đơn thuốc kép, thế là lại nhẵn củ kiệu. Giậu đổ bìm leo thế là cô đào trong nhà bỏ đi hết, đứa thì vay nợ, đứa thì trốn và cuỗm thêm ít đồ. Úi già, lậy Thánh mớ bài.
Rồi bà Thông Phu cười như ngựa hí. Bà vốn có tính đồng bóng. Tôi rung đùi, lấy đầu tăm xiên từng khẩu giò lụa như một ông đồ kiết, rờ mó một cái cằm chưa có râu và nhìn mãi một cái tường ngày xưa hẳn quét vôi trắng. Gian nhà ngoài, tiếng nhiều đôi giầy tây lộp cộp như đoàn ngựa tù cẳng lâu ngày trong tầu cỏ.
- À, nhà đã có khách hát chưa, các em?
- Mời các quan ngồi chơi xơi nước. Dạ chưa ạ.
Một buổi tối, đi ăn một đám giỗ dúi ở dưới phố về, tôi nhấn nha xách cây gậy lụi đi bộ về cái trại làng Hạc. Đến xóm Quán Giò, cửa nhà hát ông Thông Phu đèn sáng trưng, chưa có khách. Thói thường, những buổi ngà ngà rượu về trại mà đi qua đây, tôi hay tạt vào cái nhà hát quen thuộc này, nói nhảm một vài câu và nếu cao hứng lên thì hát ngay cũng chưa biết chừng. Có tiền hay không, ở cái nhà thân mật nầy, là một điều chưa cần nghĩ đến vội.
Nhưng lần này đi qua mà tôi không muốn vào. Cách đây hai ba hôm tôi đã tạt vào thăm vợ chồng chủ nhân, ở mãi đến gần khuya rồi còn gì nữa. Thăm gì mà thăm lắm thế. Vả chăng hôm nay lại mùng một đầu tháng, tôi không muốn đem cái vía của tôi vào nhà hát, thứ nhất lại vào một nhà thân, sợ cả tháng nhà người ta làm ăn không ra tiền rồi lại mang điều, mang tiếng. Tôi biết tôi có một cái vía độc lắm. Người ta đã bảo thẳng như thế vào mặt tôi nhiều lắm rồi. Và chẳng cần đến người chung quanh vạch mặt chỉ tên, cứ trông thấy nhiều con chó mực nó sủa mãi tôi – tuy chủ nhà đã quát mắng rồi – cứ trông lũ trẻ nhà bạn nó mếu máo khóc thét lên như đau bão, mỗi khi tôi đòi ẵm trẻ, thì tôi đủ biết lắm. Tôi đã đi qua cái miếng ánh sáng vuông rộng nhà ông Thông Phu rọi ra đường. Đến gần điếm tuần canh, bỗng có tiếng người chạy theo gọi tôi. Tiếng con gái. Thì ra đấy là một con em ở nhà hát ông Thông Phu.
- Thưa chú, bác em mời chú vào chơi.
- Bác giai hay bác gái? Và có chuyện gì vậy?
- Không biết. Thì chú cứ vào rồi sẽ hay. Bác em đứng trong nhà, thoáng thấy chú đi qua, chạy ra cửa gọi thì chú đã đi xa rồi. Làm cháu phải chạy đuổi theo mệt quá.
Quay trở lại, trên mấy thường đường, lòng tôi phân vân. Chẳng có nhẽ lại đòi tiền một cách khiếm nhã như những chủ nhà hát tầm thường khác? Hay là chủ nhân vừa có bổng ngoại có miếng sống miếng chín gì định cho mình ăn?
Tôi vào chào xong vợ chồng chủ nhân, bà Thông Phu vừa cười vừa chỉ sang một người đàn bà, ngồi bên bàn đèn, đầu chùm một chiếc khăn vuông bằng the.
- Còn đây nữa. Không chào đi.
Tôi quay lại phía thiếu phụ. Một người lạ, mà ra vào đây luôn luôn, tôi chưa từng gặp bao giờ. Người tầm thước. Mặt to. Mắt sắc. Mũi dọc dừa. Hai chúng tôi nhìn nhau, càng nhìn càng bỡ ngỡ. Bà Thông Phu bèn cười phá lên.
- Thôi đừng nhìn nhau mãi như thế nữa. Đã gặp nhau bao giờ mà đòi nhận ra nhau. Để ta giới thiệu cho. Đây là cô Tâm mới ở Nam vào. Cô đào hát đấy. Còn đây là… là một người em kết nghĩa của bác giai. Tướng giặc ở dưới xóm đấy
Bây giờ ông Thông Phu mới lên tiếng:
- Mình chỉ hay nói bậy. Nhà tôi tính hay đùa, cô Tâm mới vào chơi, có nghe chuyện bác gái thì cô phải hiểu chuyện của bác nói theo một cách khác. Đây là chú nó. Một con người ngọc đấy.
Giọng ông Thông Phu cố làm ra đứng đắn, nhưng mọi người đều phì cười. Tôi đã để ý đến cái cười của cô Tâm. Tôi thấy cô là người có duyên. Một cái duyên mặn mà với đôi hàm răng đen nhánh:
- Mình co chân lại cho chú ngồi chứ.
Dứt lời bà Thông Phu bảo chồng, bên phía giường kia tôi cũng thấy cô Tâm khẽ rút chân, lấy vạt áo sau phủ kín bàn chân lại như lúc người đàn bà ngồi xệp xuống bệ thờ Phật. Tôi thấy tôi có cảm tình ngay với cái dáng người ròn dẻo của Tâm. Người khí thô vóc nhưng mà gọn. Cứ thế mà tôi nhìn mãi, hình như cố chú mục để mà phát minh ra những nét đẹp chưa bộc lộ hết khỏi người ca nhi mới lạ. Tâm ngồi ăn trầu, nhổ nước cốt trầu vào ống phóng, trông có vẻ bà lắm. Mỗi lúc nàng ngước nhìn tôi, mắt nàng lại bắt gặp mắt tôi. Không e lệ, nàng mỉm cười. Nhìn nhau mãi, tôi hơi ngượng ngập, vội quay lại chủ nhân:
- Phải đấy, nhà có mỗi một mình bác hát cũng mệt chết. Bác đón thêm cô Tâm ở Nam vào, là một điều đáng nên lắm. Vậy cô Tâm mới vào tầu tối?
- Dạ thưa ông, chúng tôi vào đây từ hôm qua.
Lối thưa gửi của Tâm làm tôi phải để ý. Xưa nay trong nghề nghiệp, một cô đào bắt gặp bất cứ ai, bất kể cả trường hợp giao tiếp nào, không cần thân, không biết sơ, thường bao giờ cũng xưng là em và hô người khác là anh. Lắm lúc người anh bị gọi là anh ấy, dưới cằm bên mép, râu ria mọc đã um tùm. Thật là nát câu chuyện quá.
Tâm nói hai chữ « chúng tôi » một cách dắn giỏi gẫy gọn, nghe đến, lỗ tai không thể không thích được. Từ lúc mới vào, trông cái kiểu người Tâm, tôi cứ tưởng cái tiếng phải là chua lắm, Tôi không ngờ tiếng nàng lại ấm được đến bực ấy. Tôi tự bảo tôi về cô Tâm này rằng hát khuôn khổ, hay không thì chưa biết, nhưng với cái tiếng ấm như thế, có ngồi nói chuyện với nhau thì cũng không đến nỗi quê kệch.
- Chú đang nghĩ gì?
- Vậy chị đón cô Tâm từ hôm qua. Hôm qua là ngày nguyệt tận, mọi việc đều không nên. Tôi vẫn thấy anh chị hay kiêng kia mà.
- Không, cô Tâm vừa mới đến với bác mới có trong ngày hôm nay thôi đấy chứ.
Tôi nhìn Tâm, nàng cắt nghĩa:
- Dạ vào từ hôm qua, nhưng chúng tôi ở một nhà khác dưới Cầu Chanh. Rồi có người mới mách cho nhà ông bà Thông Phu trên này. Chúng tôi hồi ở Nam vốn đã có biết tiếng. Bèn tìm lên.
- Quý hóa quá nhỉ?
Nghe tôi khen Tâm với một giọng nói rất làng chơi, bà Thông Phu nguýt tôi một cái thực dài. Bà chạy ra ngoài. Bà gọi luôn tôi ra ngoài bỏ nhỏ vào tai tôi:
- Thế nào, hôm nay nghe hát, chứ?
- Chị đến hay đùa. Tiền nợ mấy chầu cũ đã trả cho chị đâu.
- Người ta cho hát chịu mà lại.
- Chả dám. Tôi vẫn nhớ ngày hôm nay là ngày mồng một đầu tháng ta. Thôi để mai kia, có món tiền phải chăng, sẽ hát cho nó tử tế.
- Khỉ ạ, sao mà lúc định chu đáo thì nói ra cách cẩn thận đến thế? Buổi chiều đã có mấy người hát mở hàng và chi tiền rồi. Mấy ông giáo ấy thường hay hát ban ngày. Tâm lên vào buổi trưa, vừa ngồi được một lúc thì phải gõ phách ngay. Tay phách cũng sắc đáo để. Nó ngâm thơ khá lắm. Tôi cho chú con bé đấy, nếu phải duyên phải số của hai người. Thường chú lên xuống hát giúp anh chị, cứ cô độc quả mãi chẳng ai là vừa ý, trông thấy chú bồ côi bồ cút, tôi nó cũng không yên bụng. Vậy ra luôn nhà ngoài đi, gõ mấy tiếng trống gọi cho thực oai. Rồi chị bảo Tâm nó ra hát. Rồi anh chị sẽ bưng khay đèn ra sau.
- Nhưng ai đàn hở chị? Nhà ta làm gì đã mướn được người đàn.
- Thì gọi người đến đàn chứ gì. Định gọi ai đàn? Kép Ngôn nhá? Chỉ có Ngôn thì mới đàn khuôn được.
Thấy tôi không trả lời, đứng tần ngần, chưa tỏ ý quyết định, bà Thông Phu hiểu ý, một tay móc túi, một tay vỗ vai tôi cười:
- Không có xu nào dính túi thì đây, chị lại cho mượn thêm đồng bạc để tí nữa chi tiền cho kép. Ông thì bao giờ mà chẳng sang và bao giờ mà lại không làm tốt. Còn việc ăn uống, thì đêm có đói, chị sẽ mua cho chai rượu và dăm chục que nem nướng. Không sợ.
Tôi cười ra nước mắt, biết rằng mình đang cảm động quá. Trong thiên hạ, người tốt bụng ra vẫn còn nhiều. Và khen bà Thông Phu lúc này thì thực là một việc thừa.
Ngồi trên bục giữa nhà, ngồi cầm cái roi gỗ khổng chấm câu hát cho Tâm, thỉnh thoảng tôi lại giở trò kênh kiệu ra, bỏ chơi một vài khổ đồn không chịu điểm trống để cho vợ chồng nhà chủ cùng nằm đấy tủm tỉm cười về phía tôi và hạ một chữ: « Được » Từ ngày đi chơi, hình như mãi đến lúc này tôi mới phát minh ra cái thú trong sự đi hát và tự bảo từ đây càng nên gắng luyện lấy một cái tài và một cánh tay cho tử tế để khỏi phụ đến cái công phu của một số người đẹp có tài tiếng xã hội thanh sắc một thời. Sau một đêm gần kề, Tâm có thiện cảm đối với tôi.