Chương 5 Các nguyên tố trong chiến loạn
Như các điều thiết yếu khác của xã hội hiện đại – nền dân chủ, triết học, kịch nghệ – chúng ta có thể theo dấu các nguyên tố hóa học để trở về thời Hy Lạp cổ đại. Trong cuộc vây hãm Athens vào những năm 400 TCN, thành bang Sparta quyết buộc đối thủ cứng đầu cứng cổ phải khuất phục bằng vũ khí hóa học tiên tiến nhất thời đó: khói độc. Quân lính Sparta mím chặt môi, rón rén tiến đến Athens với những bó gỗ độc, hắc ín và lưu huỳnh nồng nặc. Họ đốt chúng và mai phục sẵn bên ngoài tường thành, đợi những người Athens ho sặc sụa lao ra, để lại thành không nhà trống. Tuy sáng tạo không kém gì con ngựa thành Troy nhưng chiến thuật này đã thất bại. Khói bốc lên khắp Athens nhưng thành bang này vẫn trụ vững và giành chiến thắng.*
Thất bại này minh chứng một điều. Chiến tranh hóa học cho dù có tiến triển trong suốt 2.400 năm sau đó thì cũng rất nhạt nhòa khi so với cách đổ dầu sôi vào kẻ địch. Cho đến Thế Chiến I, giá trị chiến lược của các chất khí là rất ít. Không phải các nước không nhận ra mối đe dọa này. Tất cả các quốc gia có nền khoa học tiên tiến đều đã ký vào Công ước Hague 1899 cấm sử dụng vũ khí hóa học trong chiến tranh, trừ một nước. Mỹ từ chối tham gia vì cho rằng: cấm các loại khí (mà tác dụng lúc đó chỉ mạnh cỡ bình xịt hơi cay) nhưng vẫn vui mừng khi hạ gục lính địch trẻ tuổi bằng súng máy, đánh chìm tàu chiến bằng ngư lôi và bỏ mặc thủy thủ chết đuối trong biển đêm là đạo đức giả. Các quốc gia khác chế giễu sự hoài nghi của Mỹ, công khai ký Công ước Hague và đã lập tức nuốt lời.
Trước đó, nghiên cứu bí mật về các tác nhân hóa học chủ yếu tập trung vào brom nhằm tạo ra một loại lựu đạn mạnh. Giống các halogen khác, brom có bảy electron ở mức năng lượng ngoài cùng và rất muốn có đủ tám. Nguyên tử brom bất chấp thủ đoạn và sẵn sàng cướp electron của nguyên tố yếu hơn trong tế bào (như cacbon) để thỏa mãn mục đích của mình. Brom đặc biệt gây khó chịu cho mắt và mũi; và vào năm 1910, các nhà hóa học quân sự đã phát triển hơi cay từ brom mạnh đến mức ngay cả một người trưởng thành cũng phải “rơi lệ”.
Chẳng có lý do gì để không sử dụng hơi cay trên chính người dân của mình (Công ước Hague chỉ áp dụng cho điều kiện chiến tranh), chính phủ Pháp đã dùng etyl bromaxetat để tóm một nhóm cướp ngân hàng ở Paris năm 1912. Tin tức về sự kiện trên nhanh chóng lan sang các nước láng giềng và khiến các quốc gia này lo ngại. Khi Thế Chiến I nổ ra vào tháng 8 năm 1914, người Pháp đã lập tức ném lựu đạn brom vào quân Đức đang lao tới. Nhưng ngay cả những người Sparta hai thiên niên kỷ trước đó cũng còn làm tốt hơn. Lựu đạn rơi xuống một đồng bằng lộng gió, nên hơi cay không mấy hiệu quả và bị thổi bay trước khi người Đức kịp nhận ra họ vừa bị “tấn công”. Nói chính xác hơn, chúng ít có tác dụng tức thì vì những tin đồn giật gân về hơi cay tràn ngập mặt báo của cả hai phe. Người Đức châm ngòi khi cáo buộc hơi ngạt bí mật của Pháp khiến một người lính trong doanh trại của họ ngộ độc (mà thực ra là do không may ngộ độc cacbon monoxit). Đây là cái cớ của Đức nhằm biện minh cho chương trình chiến tranh hóa học của chính họ.
Nhờ một người đàn ông – một nhà hóa học hói đầu đeo kính không gọng – các đơn vị nghiên cứu khí độc của Đức đã sớm vượt xa các nước khác trên toàn cầu. Fritz Haber là một trong những bộ óc vĩ đại trong lịch sử hóa học. Ông trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới vào khoảng năm 1900 khi tìm ra cách chuyển chất khí dồi dào nhất (nitơ) thành một sản phẩm công nghiệp. Dù có thể gây ngạt cho những người bất cẩn nhưng khí nitơ thường vô hại. Trong thực tế, nó vô hại đến mức gần như vô dụng. Một tác dụng quan trọng của nitơ là bổ sung cho đất. Tầm quan trọng của nó với thực vật cũng giống vitamin C với con người vậy. (Cây nắp ấm và cây bắt ruồi Venus bẫy côn trùng vì muốn có nitơ của chúng.) Nhưng dù chiếm tới 80% không khí mà chúng ta thường hít thở, nitơ lại rất tệ trong việc bổ sung dưỡng chất cho đất do nó hiếm khi phản ứng với bất cứ thứ gì và không bao giờ “cố định” trong đất. Dồi dào, quan trọng nhưng lại khó sử dụng, nitơ đã vô hình trung trở thành mục tiêu nghiên cứu của các nhà hóa học nhiều tham vọng.
Quy trình “bắt” nitơ do Haber phát minh gồm nhiều bước với nhiều chất trung gian thoắt ẩn thoắt hiện. Về cơ bản, Haber đốt nóng nitơ đến hàng trăm độ, bơm thêm khí hydro, tăng áp suất lên hàng trăm lần so với áp suất không khí thông thường, dùng osimi làm chất xúc tác quan trọng. Và “bùm”, nitơ được chuyển hóa thành amoniac (NH 3 ) – tiền thân của mọi loại phân bón. Nhờ phân bón công nghiệp giá rẻ ngày nay mà nông dân không còn phải dựa vào phân ủ để làm màu cho đất nữa. Ngay cả khi Thế Chiến I nổ ra, Haber vẫn cứu hàng triệu người khỏi chết đói theo dự đoán Malthus 1 . Và ta vẫn cần cảm ơn ông vì đã nuôi sống hầu hết 6,7 tỷ người trên thế giới ngày nay.*
1 . Thomas Robert Malthus (1766-1834) dự đoán rằng toàn bộ loài người rồi sẽ chết đói, vì dân số tăng theo cấp số nhân còn sản lượng lương thực chỉ tăng theo hàm tuyến tính. (BTV)
Điều mà chúng ta chưa nhắc tới là Haber thực ra lại ít quan tâm đến phân bón, dù đôi khi ông nói ngược lại. Ông theo đuổi amoniac giá rẻ để giúp Đức chế tạo chất nổ gốc nitơ – loại bom được chế tạo nhờ chưng cất phân bón mà Timothy McVeigh dùng để đục một lỗ lớn trong tòa án thành phố Oklahoma năm 1995. Đáng buồn là những người như Haber lại xuất hiện nhan nhản trong lịch sử: những kẻ ti tiện bán linh hồn cho quỷ, biến những sáng tạo khoa học thành vũ khí giết người hiệu quả. Trường hợp của Haber càng tệ hơn nữa vì đây là điều mà ông rất giỏi. Sau khi Thế Chiến I bùng nổ, với hy vọng khai thông bế tắc trong nền kinh tế đất nước, giới lãnh đạo quân sự Đức đã tuyển dụng Haber cho bộ phận chiến tranh bằng khí độc. Dù mục đích là kiếm tiền từ các hợp đồng của chính phủ nhờ bằng sáng chế về amoniac, Haber không thể nhanh chóng vứt bỏ các dự án khác của mình. Bộ phận này sớm được gọi là “văn phòng của Haber”, và quân đội còn thăng hàm cho Haber – một người Do Thái 46 tuổi cải đạo sang Công giáo Kháng cách Luther (để thuận đường làm quan) – làm đại tá, khiến ông ta tự hào như một đứa trẻ.
Gia đình ông thì không mấy hài lòng. Quan điểm “thượng đẳng” của Haber khiến các mối quan hệ cá nhân của ông trở nên lạnh nhạt, đặc biệt là với người vợ đã cứu rỗi linh hồn ông: bà Clara Immerwahr. Bà cũng là một thiên tài, người phụ nữ đầu tiên lấy được bằng tiến sĩ từ trường đại học danh tiếng Breslau (nay là Wrocław) ở quê hương Haber. Nhưng không như đồng nghiệp cùng thời là Marie Curie, Clara chưa từng thành công trong sự nghiệp, bởi bà đã kết hôn với Haber chứ không phải một người rộng lượng như Pierre Curie. Thoạt nhìn, cuộc hôn nhân này không phải là lựa chọn tồi cho một người đam mê khoa học, nhưng Haber – dù có tài năng hóa học sáng chói – lại chẳng phải là một người tốt. Như một nhà sử học ghi lại, Clara “không bao giờ thoát khỏi tạp dề”, và bà từng tâm sự với một người bạn về chuyện “Fritz luôn coi mình là nhất, chà đạp những người hiền lành hơn trong nhà”. Bà hỗ trợ Haber bằng cách dịch các bản thảo sang tiếng Anh và hỗ trợ về kỹ thuật cho các dự án nitơ, nhưng từ chối giúp đỡ trong nghiên cứu dùng brom làm hơi cay.
Haber chẳng mấy bận tâm. Hàng chục nhà hóa học trẻ khác luôn tình nguyện giúp ông, vì lúc đó người Đức đang tụt lại sau người Pháp mà họ căm ghét trong chiến tranh hóa học. Và đến đầu năm 1915, người Đức đã có câu trả lời cho các loại hơi cay của Pháp. Tuy nhiên, Đức lại thử nghiệm lựu đạn mới của họ với quân đội Anh (vốn không có hơi cay). May mắn thay, cũng như cuộc tấn công bằng hơi cay đầu tiên của Pháp, gió đã phân tán khí và những người lính Anh đang chán nản trong con hào gần đó không hề biết mình đã bị tấn công.
Không nản lòng, quân đội Đức đầu tư nhiều nguồn lực hơn nữa cho chiến tranh hóa học, nhưng vấn đề là giới chức chính trị không muốn công khai phá vỡ (một lần nữa) Công ước Hague phiền phức. Giải pháp là diễn giải công ước theo cách “cực kỳ hợp lý” nhưng rốt cuộc chỉ nhằm mục đích lươn lẹo. Khi ký, Đức cam kết “không dùng các vật phóng chỉ để phát tán khí gây ngạt hoặc gây hại”. Vì vậy, theo cách diễn giải câu chữ đầy tính ngụy biện của người Đức, công ước này không áp dụng với các loại lựu đạn tạo ra mảnh văng và hơi ngạt. Cần đến một số kỹ thuật xảo quyệt (brom lỏng bốc hơi khi va chạm, làm chệch quỹ đạo của lựu đạn) nhưng tổ hợp khoa học-công nghiệp- quân sự của Đức đã làm được. Tới cuối năm 1915, loại lựu đạn đường kính 15 cm chứa đầy xylyl bromua 1 đã sẵn sàng. Người Đức gọi nó là weisskreuz (chữ thập trắng). Lần nữa bỏ qua người Pháp, Đức ném 18.000 lựu đạn weisskreuz vào quân đội Nga ở phía đông. Nhưng đây là một thất bại toàn diện, thê thảm hơn lần đầu tiên rất nhiều. Nhiệt độ ở Nga lạnh đến mức khiến xylyl bromua đóng băng.
1 . Metylbenzyl bromua, công thức hóa học là C 6 H 4 (CH 3 )(CH 2 Br). (BTV)
Nghiên cứu những kết quả thử nghiệm thảm hại trên chiến trường, Haber đã bỏ brom và chuyển hướng sang họ hàng của nó là clo. Clo nằm ngay trên brom trong bảng tuần hoàn và còn độc hại hơn nếu hít phải. Nó tấn công các nguyên tử nguyên tố khác kịch liệt hơn để có thêm một electron, và vì nhỏ hơn brom (nguyên tử khối của clo chưa bằng một nửa brom) nên clo tấn công tế bào nhanh hơn nhiều. Clo khiến da nạn nhân chuyển thành vàng, xanh lục và đen, làm đục thủy tinh thể. Nạn nhân sẽ chết vì ngạt nước do chất lỏng tích tụ trong phổi. Nếu hơi brom là đội hình phalanx 2 đụng độ với màng nhầy thì clo là cuộc tấn công chớp nhoáng bằng xe tăng với lực lượng áp đảo kiểu blitzkrieg để xé nát xoang và phổi của cơ thể.
2 . Đội hình quân sự hình chữ nhật, thường được tập hợp hoàn toàn từ bộ binh nặng được vũ trang giáo, kích, hoặc vũ khí tương tự. (BTV)
Vì Haber mà brom đã hài hước nhường chỗ cho clo tàn nhẫn trong các cuộc chiến bằng vũ khí hóa học như sách lịch sử ngày nay ghi lại. Đối thủ của Đức sớm phải run sợ trước grunkreuz (chữ thập lục) chứa clo; blaukreuz (chữ thập lam) và chất gây phồng rộp ác mộng gelbkreuz (chữ thập vàng) hay còn được biết với cái tên là “khí mù tạt”. Không thỏa mãn với việc chỉ đóng góp về khoa học, Haber còn nhiệt tình chỉ huy cuộc tấn công khí độc đầu tiên thành công trong lịch sử, khiến 5.000 lính Pháp đang bối rối bị bỏng trong một con hào đầy bùn gần Ypres. Lúc rảnh rỗi, Haber cũng đã đưa ra một định luật sinh học kỳ quặc để định lượng mối quan hệ giữa nồng độ khí, thời gian tiếp xúc và tỷ lệ tử vong: quy tắc Haber (vốn cần đến một lượng lớn dữ liệu chết chóc).
Kinh hoàng trước các dự án khí độc, Clara đối đầu với Fritz và yêu cầu ông chấm dứt chúng. Như thường lệ, Fritz hoàn toàn bỏ ngoài tai. Dù đã bật khóc khi các đồng nghiệp bỏ mạng trong một tai nạn tại bộ phận nghiên cứu thuộc văn phòng Haber, ông ta vẫn mở tiệc ăn mừng vũ khí mới của mình sau khi trở về từ Ypres. Tồi tệ hơn, Clara phát hiện ra chồng mình chỉ về nhà trong đêm vì muốn nghỉ chân, rồi sẽ lên đường ngay để chỉ đạo những cuộc tấn công vào mặt trận phía đông. Họ cãi nhau dữ dội. Tối đó, Clara bước ra vườn với khẩu súng lục của Fritz và tự bắn vào ngực. Dù buồn bã nhưng Fritz vẫn không để điều này ảnh hưởng đến lịch trình của mình. Sáng hôm sau, ông ta vẫn rời đi như dự định mà không buồn ở lại để lo liệu tang lễ cho vợ.
Tuy có lợi thế không gì sánh được là Haber nhưng rốt cuộc Đức vẫn thất bại trong Thế Chiến I và bị toàn cầu lên án là một quốc gia vô lại. Phản ứng của quốc tế với chính Haber còn phức tạp hơn. Năm 1919, giải Nobel Hóa học 1918 (bị hoãn do chiến tranh) được trao cho Haber nhờ quy trình sản xuất amoniac từ nitơ khi mà khói bụi chiến tranh vẫn còn vần vũ, mặc dù loại phân bón này không thể cứu hàng ngàn người Đức thoát khỏi chết đói trong chiến tranh. Năm 1920, ông bị kết án tội phạm chiến tranh quốc tế vì đã phát động chiến tranh hóa học gây thương tích cho hàng trăm ngàn người và gieo rắc kinh hoàng cho hàng triệu người khác. Những gì mà Haber đã để lại thực sự rất mâu thuẫn, công to mà tội cũng lớn.
Mọi thứ càng lúc càng tồi tệ. Cảm thấy bị sỉ nhục vì những khoản bồi thường khổng lồ mà Đức phải trả cho phe Hiệp ước, Haber đã mất sáu năm vô ích khi cố gắng tách vàng hòa tan từ đại dương để có thể tự trả phí bồi thường. Các dự án khác xuất hiện cùng lúc cũng vô dụng, và điều duy nhất mà Haber làm được trong suốt những năm đó (bên cạnh việc cố gắng bán mình làm chuyên gia cố vấn chiến tranh khí độc cho Liên Xô) là một loại thuốc trừ sâu. Haber phát minh ra Zyklon A từ trước Thế Chiến I, và sau chiến tranh, một công ty hóa chất của Đức đã nghiên cứu công thức ấy để tạo ra khí độc thế hệ thứ hai hiệu quả hơn. Cuối cùng, một chế độ mới bội bạc lên cầm quyền; Đức Quốc Xã nhanh chóng quên bẵng Haber và trục xuất ông vì nguồn gốc Do Thái. Ông qua đời năm 1934 khi đang trên đường sang Anh tị nạn. Trong khi đó, việc nghiên cứu thuốc “trừ sâu” vẫn tiếp tục và chỉ trong vài năm, Đức Quốc Xã đã giết chết hàng triệu người Do Thái (gồm cả họ hàng của Haber) bằng khí độc thế hệ thứ hai Zyklon B.
Đức trục xuất Haber không chỉ bởi nguồn gốc Do Thái, mà còn vì ông ta đã hết thời. Song song với đầu tư cho chiến tranh khí độc, quân đội Đức đã bắt đầu khai thác một góc khác của bảng tuần hoàn trong Thế Chiến I, và cuối cùng đã quyết định rằng dùng vonfram và molypden nã pháo vào quân địch hiệu quả hơn là gây bỏng bằng clo và brom. Từ đó, chiến tranh lần nữa quay về với những nguyên tố hóa học cơ bản của bảng tuần hoàn. Vonfram vẫn tiếp tục tỏa sáng trong Thế Chiến II, nhưng ở một số trường hợp, câu chuyện về molypden lại hấp dẫn hơn nhiều. Tuy rất ít người biết tới, nhưng trận chiến xa xôi nhất trong Thế Chiến I không diễn ra ở Siberi hay chống lại Lawrence xứ Ả Rập trên sa mạc Sahara, mà tại một mỏ molypden ở dãy núi Rocky, Colorado.
Sau khí độc, vũ khí đáng sợ nhất của Đức trong chiến tranh là Big Bertha – pháo công thành siêu nặng đã hủy diệt tinh thần của binh sĩ đối thủ không thương tiếc như từng làm với các chiến hào của Pháp và Bỉ. Những khẩu Big Bertha đầu tiên nặng tới 40 tấn được vận chuyển từng phần bằng máy kéo đến bệ phóng và cần đến 200 người lắp ráp suốt sáu giờ, đổi lại là khả năng bắn đạn pháo đường kính gần 42 cm, nặng gần 1.000 kg đi xa 14,5 km chỉ trong vài giây. Tuy nhiên, một sai sót lớn đã làm hỏng Bertha. Bắn đạn pháo nặng cả tấn cần đến nhiều thùng thuốc súng, nhiệt lượng cực lớn sinh ra khiến các nòng pháo bằng thép dàì 6 m bị uốn cong và thiêu rụi. Sau vài ngày bắn phá điên cuồng, ngay cả khi người Đức tự giới hạn là vài phát mỗi giờ, thì khẩu pháo vẫn tự hỏng vì không chịu nổi nhiệt lượng do chính nó tỏa ra.
Không bao giờ chịu thua lỗ khi cung cấp vũ khí cho Tổ quốc, công ty vũ khí Krupp nổi tiếng đã tìm ra một công thức để tăng độ bền của thép: pha thêm molypden vào. Molypden chịu được nhiệt độ rất cao vì nhiệt độ nóng chảy của nó là 2.621°C, cao hơn sắt (kim loại chính trong thép) cả ngàn độ. Nguyên tử molypden lớn hơn sắt nên khó bị kích thích hơn; số lượng electron của chúng nhiều hơn sắt 60% nên hấp thụ nhiệt nhiều hơn và liên kết chặt chẽ hơn. Thêm vào đó, các nguyên tử trong chất rắn thường tự tái cấu trúc (thường là một cách tệ hại) khi nhiệt độ thay đổi (ta sẽ thảo luận nhiều hơn trong chương 16), nên thường khiến kim loại giòn hơn, dễ bị nứt hỏng. Trộn thép với molypden giúp kết dính các nguyên tử sắt, ngăn chúng trượt khỏi vị trí vốn có của mình. (Đức không phải là nước đầu tiên phát hiện ra điều này. Một bậc thầy rèn kiếm ở Nhật Bản thế kỷ 14 đã rắc molypden vào thép và tạo ra những thanh kiếm được thèm muốn nhất ở đảo quốc này: lưỡi kiếm của ông không bao giờ bị cùn hay nứt vỡ.
Nhưng từ khi “vị thần rèn” Nhật Bản ấy qua đời, kỹ thuật này đã thất truyền suốt 500 năm – bằng chứng cho thấy kỹ thuật vượt trội không phải lúc nào cũng được truyền bá rộng rãi và thường bị thất truyền.)
Quay lại với những chiến hào đầy khói lửa của Thế Chiến I, người Đức đã sớm nã vào Pháp và Anh bằng pháo thế hệ thứ hai làm từ thép molypden. Nhưng Đức nhanh chóng phải đối mặt với một thất bại lớn khác: không có nguồn cung và đứng trước nguy cơ cạn kiệt molypden. Trên thực tế, nguồn cung duy nhất được biết đến là một khu mỏ đã phá sản và gần như bị bỏ hoang trên núi Bartlett ở Colorado.
Trước Thế Chiến I, một người dân địa phương giành quyền khai thác mỏ ở Barlett sau khi phát hiện ra những mạch quặng trông như chì hoặc thiếc. Chúng ít nhất cũng có giá vài xu một cân, nhưng thứ người đó tìm được thật ra lại là molybden – loại quặng vô dụng mà chi phí khai thác còn đắt hơn tiền bán. Anh chàng này bèn bán quyền khai thác khu mỏ cho Otis King, một chủ ngân hàng tầm thước và năng nổ ở Nebraska. Là người dám nghĩ dám làm, King áp dụng một kỹ thuật xử lý quặng mới mà chưa ai nghĩ ra và nhanh chóng tách được 2.630 kg molypden tinh khiết – nguồn cơn của những tai ương mà ông phải gánh sau này. Con số đó vượt quá nhu cầu molypden hằng năm của thế giới tới 50%, nghĩa là King không chỉ làm tràn ngập thị trường mà còn nhấn chìm nó. Ghi nhận sự đổi mới trong nỗ lực của King, chính phủ Mỹ đã đề cập điều này trong một bản tin về khoáng vật học vào năm 1915.
Chẳng mấy ai ngó ngàng đến bản tin ấy, trừ công ty khai thác mỏ quốc tế khổng lồ Metallgesellschaft đặt trụ sở tại Frankfurt (Đức) và có chi nhánh ở New York. Theo một báo cáo đương thời, Metallgesellschaft có các nhà máy luyện kim, hầm mỏ, lò nung và những “xúc tu” khác trên khắp thế giới. Ngay khi các giám đốc – vốn có quan hệ mật thiết với Fritz Haber – của công ty này đọc về molypden của King, họ đã điều động và lệnh cho người đứng đầu ở Colorado là Max Schott chiếm lấy núi Bartlett.
Schott – người được mô tả là có “đôi mắt xuyên thấu đến mê hoặc” – đã cho du côn đến chiếm đoạt khu mỏ và quấy rối King tại tòa án, khiến khó khăn của khu mỏ càng thêm chồng chất. Không chỉ có thế, những kẻ này còn đe dọa vợ con của công nhân khai mỏ và phá hủy trại của họ trong một ngày đông -20 o C. King thuê một kẻ ngoài vòng pháp luật là Adams Hai-Súng làm vệ sĩ, nhưng rốt cuộc vẫn không tránh khỏi tay đám tay sai người Đức. Chúng tấn công ông bằng dao và cuốc chim trên một ngọn núi rồi quăng xuống một vách đá dựng đứng. Một đụn tuyết nằm đúng chỗ đã cứu King thoát chết. Như “nàng dâu mỏ Tomboy” (tự gọi) của một người khai mỏ kể lại trong hồi ký của mình: “người Đức thiếu điều đã giết người chỉ vì muốn cản trở công ty của chồng tôi”. Các công nhân gan góc của King đã gọi kim loại mà họ liều mạng để đào lên nhưng không thể phát âm nổi là “Molly be damned” (Molly đày đọa).
King lờ mờ hiểu về mục đích sử dụng molypden của Đức, và ông cũng là kẻ duy nhất không phải người Đức (ở châu Âu hay Bắc Mỹ) biết việc này. Mãi cho đến khi người Anh chiếm được vũ khí của Đức vào năm 1916 và nấu chảy chúng để nghiên cứu, phe Hiệp ước mới phát hiện ra kim loại kỳ diệu (wundermetall) này, nhưng các trò lừa bịp ở dãy Rocky vẫn tiếp diễn. Năm 1917, Mỹ mới tham chiến nên không có lý do để theo dõi công ty con của Metallgesellschaft ở New York, đặc biệt là khi nó có cái tên rất Mỹ: American Metal. Đây chính là công ty do Max Schott phụ trách; và khi chính phủ Mỹ bắt đầu nghi ngờ vào khoảng năm 1918, American Metal tuyên bố họ là chủ sở hữu hợp pháp của khu mỏ này vì Otis King đã bán nó cho Schott với giá bèo 40.000 đô la. Công ty này cũng thừa nhận rằng họ “chỉ vô tình” gửi tất cả molypden đến Đức. Giới chức Mỹ nhanh chóng đóng băng các giao dịch cổ phiếu của Metallgesellschaft ở Mỹ và kiểm soát núi Bartlett. Đáng buồn thay, những nỗ lực muộn màng này không thể vô hiệu hóa được nòng pháo Big Bertha. Cuối năm 1918, Đức đã dùng Big Bertha đúc bằng thép molypden để pháo kích Paris từ khoảng cách xa tới mức đáng kinh ngạc: 120 km.
Sau khi Thế Chiến I kết thúc, thứ công lý duy nhất có được chỉ là sự phá sản của công ty Schott vào tháng 3 năm 1919 vì giá molypden chạm đáy. King trở lại khai thác và trở thành triệu phú nhờ thuyết phục Henry Ford sử dụng thép molypden trong động cơ xe hơi. Nhưng việc dùng molypden trong chiến tranh đã kết thúc. Vào thời điểm Thế Chiến II nổ ra, vai trò của molypden trong việc sản xuất thép đã được thay thế bởi nguyên tố ngay bên nó dưới trên bảng tuần hoàn: vonfram.
Nếu molypden chỉ là một nguyên tố khó phát âm thì vonfram lại có một trong những ký hiệu hóa học khó hiểu nhất: một chữ W to tướng không biết từ đâu ra. Chữ này viết tắt cho wolfram (tên tiếng Đức của kim loại này), và phần “wolf ” (sói) chính là điềm báo cho vai trò đen tối của nó trong chiến tranh. Đức Quốc Xã thèm muốn vonfram để chế tạo máy móc và tên lửa xuyên giáp còn hơn cả vàng cướp được, đến nỗi giới chức nước này sẵn lòng đổi vàng để lấy vonfram. Và ai là đối tác thương mại đã bán mặt hàng này cho Đức Quốc Xã? Không phải các cường quốc phe Trục khác như Ý và Nhật Bản, cũng không phải các nước mà Đức đã xâm chiếm (như Ba Lan hay Bỉ). Chính Bồ Đào Nha, quốc gia vốn được cho là trung lập, đã cung cấp vonfram để giải tỏa cơn khát cho guồng máy chiến tranh (kriegwerks) của Đức.
Bồ Đào Nha là một quốc gia hết sức khó lường vào thời điểm đó. Họ cho quân Đồng minh mượn một căn cứ không quân quan trọng ở Azores (một nhóm đảo ở Đại Tây Dương), và những ai từng xem phim Casablanca đều biết người tị nạn muốn đến Lisbon vì từ đây họ có thể an toàn bay tới Anh hoặc Mỹ. Tuy nhiên, nhà độc tài Bồ Đào Nha Antonio Salazar đã dung túng cho những kẻ thân Đức Quốc Xã trong chính phủ của mình và cung cấp nơi ẩn náu cho các điệp viên phe Trục. Ông ta cũng chơi trò hai mặt khi bán hàng ngàn tấn vonfram cho cả hai phe trong chiến tranh. Là một cựu giáo sư kinh tế, Salazar đã tận dụng lợi thế gần như độc quyền về vonfram của nước mình (90% nguồn cung của châu Âu xuất phát từ đây) để kiếm lời tới 1.000% so với thời bình. Điều này rất dễ hiểu: do Bồ Đào Nha có quan hệ thương mại lâu dài với Đức và cần tiền để tránh việc lâm vào nghèo đói trong thời chiến. Nhưng Salazar chỉ bắt đầu bán vonfram cho Đức với số lượng đáng kể từ năm 1941, hẳn do niềm tin rằng tình trạng trung lập của Bồ Đào Nha cho phép ông ta hưởng lợi như nhau từ cả hai phe.
Việc buôn bán vonfram diễn ra như sau: rút kinh nghiệm từ molypden và nhận ra tầm quan trọng chiến lược của vonfram, Đức đã ra sức dự trữ vonfram trước cả khi xâm lược Ba Lan và Pháp. Là một trong những kim loại cứng nhất được biết đến, vonfram pha vào thép sẽ tạo ra các mũi khoan và lưỡi cưa tuyệt vời. Tên lửa loại nhỏ mang đầu nhọn vonfram (đạn xuyên giáp động năng) có thể hạ gục cả xe tăng. Lý do vonfram vượt trội so với các phụ gia khác của thép được thể hiện ngay trên bảng tuần hoàn. Vonfram nằm ngay dưới molypden nên có các đặc tính tương tự. Nó nhiều electron hơn nên nhiệt độ nóng chảy lên tới 3.427°C. Thêm vào đó, nguyên tử khối của vonfram lớn hơn molypden nên cũng neo giữ nguyên tử sắt tốt hơn. Hãy nhớ lại khả năng hoạt động hóa học mạnh của clo giúp nó hiệu quả ra sao trong các cuộc tấn công bằng khí độc. Ở đây, vonfram đã trở thành một kim loại rất hấp dẫn nhờ độ cứng và độ bền của nó.
Hấp dẫn đến mức Đức Quốc Xã đã dùng hết toàn bộ vonfram dự trữ vào năm 1941, khiến Quốc trưởng phải đích thân can thiệp. Hitler lệnh cho các bộ trưởng thu mua toàn bộ lượng vonfram mà những đoàn tàu xuyên nước Pháp (bấy giờ đã đầu hàng Đức) có khả năng chuyên chở. Nhưng thay vì trở thành một thị trường chợ đen, toàn bộ quá trình lại hoàn toàn minh bạch, như một sử gia ghi lại. Vonfram được chuyển từ Bồ Đào Nha qua Tây Ban Nha (một nước “trung lập” khác) phát xít, và rất nhiều vàng mà Đức Quốc Xã thu từ người Do Thái – thậm chí lấy từ răng người chết vì khí độc – đã được “rửa” tại các ngân hàng ở Lisbon và Thụy Sĩ (lại một nước trung lập). (50 năm sau, một ngân hàng lớn ở Lisbon vẫn khăng khăng rằng họ không hề biết 44 tấn vàng nhận được là “tiền bẩn”, dù nhiều thỏi vàng vẫn còn dấu chữ thập ngoặc.)
Ngay cả người Anh bảo thủ cũng không thèm để tâm đến vonfram, cho dù kim loại này đang góp phần tàn sát lính Anh trên chiến trường. Thủ tướng Winston Churchill nói việc mua bán vonfram của Bồ Đào Nha là “tội nhẹ”; và để không bị hiểu sai, ông nói thêm rằng Salazar “chẳng sai” khi bán vonfram cho các kẻ thù không đội trời chung của Anh. Tuy nhiên, lần nữa lại có nước bất đồng. Thương vụ trần trụi mang lại lợi ích cho Đức Quốc Xã này khiến Mỹ phẫn nộ. Giới chức Mỹ không thể hiểu nổi tại sao Anh không ra lệnh hay công khai uy hiếp Bồ Đào Nha để nước này thôi trò trung lập hai mang kia. Dưới áp lực kéo dài của Mỹ, Churchill cuối cùng cũng đồng ý dùng vũ lực với Salazar quân phiệt.
Trong khi đó (nếu ta gạt vấn đề đạo đức sang một bên trong giây lát), Salazar đã có những chính sách rất thông minh với phe Trục và cả phe Đồng minh: những lời hứa hẹn mơ hồ, hiệp ước bí mật và chiến thuật trì hoãn khiến các đoàn tàu chở vonfram luôn khởi hành thuận lợi. Ông tăng giá vonfram từ 1.100 đô la Mỹ/tấn (năm 1940) lên 20.000 đô la Mỹ/tấn (năm 1941) và mang về 170 triệu đô la Mỹ trong ba năm buôn bán điên cuồng. Chỉ khi không còn viện cớ được nữa, Salazar mới hạ lệnh cấm vận vonfram toàn diện với Đức Quốc Xã vào ngày 7/6/1944 (ngay sau D-Day 1 ), khi các chỉ huy quân Đồng minh đã quá bận rộn (và chán ghét) để trừng phạt ông. Tôi nhớ rằng Rhett Butler trong tác phẩm Cuốn theo chiều gió đã nói rằng chỉ có thể thu được của cải khi xây dựng hoặc lật đổ một đế chế, và Salazar chắc chắn đã tin vào tôn chỉ đó. Trong “cuộc chiến vonfram” này, nhà độc tài người Bồ Đào Nha mới là kẻ ngạo nghễ cười cuối cùng.
1 . D-Day diễn ra vào ngày 6/6/1944. Trong chiến dịch này, hơn 160.000 quân Đồng minh đã đổ bộ lên bờ biển Normandie của Pháp để tấn công phát xít Đức. (BTV)
Vonfram và molypden chỉ là những dấu hiệu đầu tiên về một cuộc cách mạng kim loại sẽ thực sự diễn ra trong nửa sau thế kỷ 20. Cứ bốn nguyên tố bất kỳ trong bảng tuần hoàn thì có tới ba nguyên tố là kim loại, nhưng trước Thế Chiến II thì hầu hết chúng chẳng có ích gì – trừ sắt, nhôm và một số khác – ngoài chiếm chỗ trên bảng tuần hoàn. (Tôi không thể viết cuốn sách này vào thời đó vì sẽ chẳng có gì mấy để viết). Nhưng kể từ thập niên 1950, mỗi kim loại đều tìm thấy một lối đi riêng. Gadolini hoàn hảo cho máy chụp cộng hưởng từ (MRI). Neodymi giúp laser mạnh chưa từng thấy. Scandi (hiện dùng làm phụ gia như vonfram trong gậy bóng chày và khung xe đạp nhôm) đã giúp Liên Xô chế tạo máy bay trực thăng nhẹ vào những năm 1980, và còn để bọc đầu tên lửa ICBM (tên lửa đạn đạo liên lục địa) ở Bắc Cực giúp đâm xuyên qua lớp băng che phủ.
Than ôi, dù có những tiến bộ công nghệ trong cách mạng kim loại, một số nguyên tố lại tiếp tục tiếp tay cho chiến tranh – ngay trong thập kỷ vừa qua chứ chẳng xa xôi gì. Thật trùng hợp, hai nguyên tố này lại được đặt theo tên của hai nhân vật đại diện cho sự đau khổ tột cùng trong thần thoại Hy Lạp. Niobe khoe khoang rằng vẻ đẹp 14 người con cả trai lẫn gái của mình có thể sánh với các vị thần Olympus, khiến họ bị những vị thần hẹp hòi này thảm sát. Cha Niobe là Tantalus đã “làm thịt” chính con trai mình để nấu tiệc mời các vị thần. Sự trừng phạt cho Tantalus là phải đứng vĩnh viễn trong một dòng sông có nước dâng tới cổ và một cành táo trĩu quả treo lủng lẳng trên mũi. Nhưng bất cứ khi nào Tantalus muốn ăn uống, cành táo sẽ trôi khỏi tầm với của hắn và nước sẽ rút đi. Trong khi Tantalus và Niobe bị sự bất lực và mất mát hành hạ, những nguyên tố mang tên họ lại tàn phá miền trung châu Phi.
Bây giờ trong túi các bạn hẳn cũng có một chút tantan hoặc niobi. Giống như các láng giềng trong bảng tuần hoàn, cả hai đều là kim loại nặng, chịu nhiệt, không bị ăn mòn và có khả năng tích điện tốt, khiến chúng có vai trò thiết yếu với điện thoại di động. Vào giữa những năm 1990, các nhà thiết kế điện thoại di động bắt đầu đặt mua cả hai kim loại này – đặc biệt là tantan – từ nhà cung cấp lớn nhất thế giới: Cộng hòa Dân chủ Congo (bấy giờ có tên là Zaire). Congo nằm cạnh Rwanda ở miền trung châu Phi, và hầu hết chúng ta vẫn còn nhớ tới cuộc diệt chủng ở Rwanda những năm 1990. Nhưng không ai nhớ rõ được về cái ngày mà chính phủ Rwanda của những người Hutu bị lật đổ tràn vào Congo để tị nạn năm 1996. Lúc đó, việc này tưởng như chỉ khiến cuộc xung đột Rwanda lan rộng thêm vài cây số về phía tây, nhưng chính nó đã thổi bùng lên ngọn lửa xung đột sắc tộc âm ỉ suốt một thập kỷ. Cuối cùng, chiến tranh giữa chín quốc gia và 200 bộ tộc (mỗi bên có liên minh và kẻ thù riêng) đã nổ ra trong các khu rừng rậm rạp.
Tuy nhiên, nếu chỉ liên quan tới các lực lượng vũ trang lớn thì hẳn cuộc xung đột Congo đã chấm dứt từ lâu. Congo rộng hơn cả Alaska với rừng rậm như Brazil nên rất khó tiếp cận bằng đường bộ và không lý tưởng để tiến hành một cuộc chiến trường kỳ. Hơn nữa, những người dân nghèo khổ không đủ khả năng để ra ngoài chiến đấu nếu không có tiền. Rồi tantan, niobi và công nghệ điện thoại di động xuất hiện. Tôi không có ý định đổ lỗi. Rõ ràng điện thoại di động không gây ra chiến tranh, mà chính các mối thù hận truyền kiếp đã châm ngòi cho điều đó. Nhưng cũng rõ ràng là nguồn tiền mặt đổ vào đã kéo dài xung đột. Congo chiếm 60% trữ lượng của hai kim loại này trên thế giới (chúng hòa với nhau trong lòng đất và tạo thành khoáng vật coltan). Khi doanh số điện thoại di động tăng từ mức gần như bằng không (năm 1991) lên hơn một tỷ chiếc (năm 2001), cơn khát coltan của các nước phương Tây cũng mãnh liệt chẳng kém gì cơn đói của Tantalus. Điều này đã khiến giá coltan tăng gấp 10 lần. Những người thu mua quặng cho các nhà sản xuất điện thoại chẳng mảy may bận tâm xem coltan từ đâu ra; còn người dân Congo cũng không hề biết khoáng vật đó dùng để làm gì, chỉ biết rằng người da trắng đã trả tiền cho họ và họ có thể dùng tiền để hỗ trợ các nhóm vũ trang mà mình ủng hộ.
Chính vì lợi ích từ coltan phân đều cho mọi bên nên đã gây ra nhiều tác hại. Không như khoảng thời gian người Bỉ gian manh điều hành các mỏ kim cương và vàng ở Congo, không có tập đoàn nào kiểm soát các mỏ coltan, cũng chẳng cần máy xúc và xe tải để khai thác. Bất kỳ người dân nào có xẻng và sức khỏe đều có thể đào được vài cân khoáng vật này tại các lòng suối (nó trông như bùn đặc). Chỉ trong vài giờ, một người nông dân có thể kiếm được gấp 20 lần những gì hàng xóm làm trong cả năm; và khi lợi nhuận tăng nhanh, cánh đàn ông đã rời trang trại để đi đào quặng. Điều này khiến nguồn cung thực phẩm vốn đang thiếu ở Congo càng thêm khan hiếm, và họ bắt đầu săn khỉ đột để lấy thịt như thể số lượng của chúng nhiều như trâu vậy. Hậu quả là chúng gần như chết sạch. Nhưng đây vẫn chẳng là gì so với sự tàn bạo diễn ra sau đó. Đổ tiền vào một quốc gia vô chính phủ chưa bao giờ là một điều tốt. Thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản bị đẩy lên mức tàn nhẫn khi tất cả đều được rao bán, kể cả con người. Những khu trại khổng lồ được bảo vệ kỹ lưỡng mọc lên, rao bán những nữ nô lệ. Chuyện đâm thuê chém mướn để lấy tiền thưởng diễn ra như cơm bữa. Những câu chuyện khủng khiếp về những kẻ chiến thắng làm nhục xác nạn nhân bằng cách buộc nội tạng quanh mình và nhảy múa để ăn mừng lan truyền khắp nơi.
Xung đột ở Congo bùng lên mạnh nhất từ năm 1998 đến năm 2001. Và khi các nhà sản xuất điện thoại nhận ra mình đang tài trợ cho sự hỗn loạn, họ bắt đầu mua tantan và niobi từ Úc dù giá cao hơn. Chính nhờ vậy mà tình hình Congo dịu xuống đôi chút. Mặc dù chiến tranh đã chấm dứt vào năm 2003 với một thỏa thuận đình chiến chính thức, nhưng tình hình ở khu vực phía đông của Congo (gần Rwanda) vẫn chưa hề lắng xuống. Và một nguyên tố khác là thiếc lại bắt đầu tạo ra nguồn tiền cho xung đột ở đây. Năm 2006, Liên minh châu Âu đã cấm chất hàn chứa chì trong hàng tiêu dùng và hầu hết nhà sản xuất đã thay bằng thiếc, vẫn là một kim loại mà Congo có trữ lượng rất lớn. Joseph Conrad từng gọi Congo là “cuộc tranh giành của cải tệ hại nhất lịch sử, khiến lương tâm biến dạng tới tột cùng”, và quan niệm đó vẫn đúng tới ngày nay.
Tóm lại, hơn năm triệu người đã chết ở Congo kể từ giữa những năm 1990, khiến nước này trở thành nơi có thương vong lớn nhất sau khi Thế Chiến II kết thúc. Cuộc xung đột ở đó là bằng chứng cho thấy ngoài tất cả những khoảnh khắc thăng hoa, bảng tuần hoàn cũng có thể đánh thức phần “con” vô nhân tính nhất của con người.