← Quay lại trang sách

TRÊN BĂNG -

Arsi chạy trên băng, tay vẫn giữ chặt Enxalin.

Phillip và Rêginan quây lấy hắn, họ muốn kể cho hắn nghe họ đã phát hiện ra âm mưu vây bắt, đã chuyẻn được cái rương nặng đựng những đồng êquy lên tầu và đã tập họp được bọn đồng hương ra sao. Song Arsi không để ý nghe họ nói.

- Cậu mang ai trong tay vậy? - Rêginan hỏi.

- Enxalin đấy, - Arsi trả lời. Mình sẽ đưa cô ấy về Xcôtlen. Mình không muốn để cô ấy ở lại đây sau khi mình đi. Ở đây mãi mãi cô ấy sẽ chỉ là một cô gái mổ cá nghèo.

- Chắc như vậy rồi. - Rêginan nói.

- Ở đây cô ta sẽ chỉ được mặc đồ len thô, cô ta sẽ chỉ được ngủ trên những chiếc giường chật hẹp, trên những tấm váv cứng. Còn mình, mình sẽ đặt cô ấy trên những tấm đệm êm ái nhất, mình sẽ mua cho cô ấy một chiếc giường bằng cẩm thạch. Mình sẽ choàng vào người cô ấy những chiếc áo lông quý, đi vào chân cô ấy những đôi giầy đính kim cương.

- Cậu định đem lại cho cô ấy vinh hạnh lớn, - Rêginan nói.

- Mình không thể để cô ấy lại đây được. - Arsi nói tiếp. - Ai hơi đâu mà chăm lo cho một cô gái nghèo như vậy. Chẳng mấy lúc cô ấy sẽ bị mọi người bỏ rơi. Sẽ chẳng có ai đến nhà thăm cô ấy cả, sẽ chẳng có ai đến chia sẻ nỗi cô đơn của cô. Nhưng một khi mình về đến quê hương mình, mình sẽ xây cho cô ấy một tòa nhà tuyệt đẹp. Tên của cô ấy sẽ được khắc trên đá cứng đế người ta không bao giờ quên cô. Ngày nào mình cũng sẽ đến với cô, và xung quanh cô sẽ là một cảnh tượng lộng lẫy khiến những người ở tận xa cũng phải đến thăm cô. Đèn nến sẽ được thắp suốt ngày đêm, những lời ca điệu nhạc sẽ vang lên như trong một đám lễ hội vĩnh cửu.

Bão thổi tạt vào mặt những người đang bước trên băng; bão giật chiếc áo choàng của Enxalin làm nó bay như một lá cờ.

- Cậu mang Enxalin giúp mình một lát để mình sửa lại áo choàng cho cô ấy. - Arsi nói.

Rêginan đỡ lấy Enxalin, nhưng vừa ôm cô trong cánh tay, anh ta giật mình sợ hãi đến nỗi buông thõng tay làm Enxalin rơi tuột xuống băng.

- Enxalin chết rồi mà mình không biết. - Rêginan nói.

TIẾNG SÓNG XÔN XAO

Suốt đêm thuyền trưởng chiếc tầu buồm lớn đi đi lại lại mãi trên boong. Trời u ám, gió giật lồng lộn; đem lại những cơn lốc tuyết và mưa xối xả. Thế nhưng băng vẫn cứng ngắc quanh tầu. Nhẽ ra thuyền trưởng có thể vào ngủ yên trong cabin của ông. Song ông vẫn đứng suốt đêm. Thỉnh thoảng ông lại khum khum bàn tay đặt vào tai để nghe ngóng.

Thật khó mà biết được ông định lắng nghe cái gì.

Tất cả thuỷ thủ và hành khách đi Xcôtlen đã lên tầu. Lúc này họ đã nằm ngủ trong khoang giữa hai boong. Thuyền trưởng có thể muốn nghe những câu chuyện giữa họ với nhau. Khi cơn bão điên cuồng ập đến con tầu bị kẹt thì như thường lệ nó xô quật dữ dội như để đẩy thuyền ra khơi. Nhưng con tầu không nhúc nhích, gió bão càng đập mạnh hơn. Những cục băng dính trên buồm, chão, dây dợ va vào nhau. Mạn thuyền kêu răng rắc, rít trèo trẹo dưới sức gió ép và cột buồm phát ra những tiếng kêu khô khốc như sắp gãy gục trước những đợt tấn công dữ dội của gió bão.

Đêm ấy không lúc nào yên tĩnh. Đôi khi trong không gian có tiếng tuyết rít nhè nhẹ, nhưng khi mưa ập tới thì những tiếng lộp bộp, rào rào vang lên.

Những kẽ nứt trên băng nhiều dần lên, va người ta nghe như thấy tiếng đại bác của những đoàn tầu chiến đánh nhau ngoài khơi.

Nhưng thuyền trưởng không để tai nghe những tiếng động ấy. Ông đứng suốt đêm, đến tận khi rạng đông tỏa mờ mờ phía chân trời, thế nhưng ông vẫn chưa nghe thấy tiếng mà ông muốn nghe.

Cuối cùng, một tiếng rì rào đều đều ngân nga vang lên trong bóng tối, tiếng rì rào dìu dịu vuốt ve tựa như tiếng hát từ xa.

Thế là thuyền trưởng bắt đầu chạy, ông trèo qua những chiếc ghế dài dùng để ngồi chèo đặt giữa con tầu, nơi các thủy thủ đang nằm ngủ.

- Dậy đi. - Ông kêu lên. - Nắm lấy sào, cầm lấy chèo, giờ thoát thân của chúng ta sắp đến rồi. Ta đã nghe thấy tiếng gầm rống của băng tan, Ta đã nghe thấy tiếng reo của sóng nước.

Mọi người choàng dậy. Ai nấy vội vàng chạy về vị trí của mình dọc theo con tầu trong ánh bình minh đang lên chầm chậm.

Khi trời đã sáng rõ để có thể thấy tình hình đã xẩy ra trong đêm vừa qua thì rõ ràng là băng đã tan trong các vịnh, các eo biển ra tận ngoài khơi. Nhưng rong cái vịnh mà chiếc tầu buồm này đang bị giam chân, mặt băng không có đến một kẽ nứt nhỏ, nó vẫn phẳng lì và rắn chắc.

Một bức tường băng lớn đứng sừng sững trong eo biển trấn cửa vịnh. Ở phía bên ngoài, những làn sóng đã nô đùa thỏa thích, liên tiếp những tảng băng nổi bập bềnh va vào bức thành băng.

Ở xa hơn nữa, vô số cánh buồm chen chúc nhau trong một eo biển. Tất cả những người đáng cá bị băng giữ lại ở Marxt'răng đang hối hả ra khơi. Biển đang nổi sóng, và những mảng băng vẫn còn dập dềnh. Nhưng dân chài lưới không muốn đợi đến lúc bão tan hẳn nên họ đã nhanh chóng lên đường. Họ đứng trước mũi thuyền, chăm chú quan sát các đợt sóng. Họ dùng mái chèo gạt những cục băng nhỏ ra xa. Nhưng khi có những tảng băng lớn xô đến trước mặt, họ quay bánh lái cho thuyền chuyển sang hướng khác.

Thuyền trưởng chiếc tầu buồm trèo lên boong thượng, nhìn dõi theo những con thuyền đánh cá. Ông thấy lối đi của họ thật nguy hiểm, song họ cũng lần lượt thoát và ra gần tới biển khơi.

Đứng ngắm cánh buồm đang lướt về phía mặt nước xanh, thuyền trưởng ao ước cũng được ra đi đến trào nước mắt.

Vậy mà tầu của ông vẫn không nhúc nhích. Và trước mặt ông băng vẫn chồng chất thành một bức tường ngày càng cao.

Ở nơi xa khơi, không phải chỉ có những tầu thuyền đang lênh đênh trên sóng, mà còn có những núi băng nhỏ trắng toát trrôi bập bềnh. Đó là những tảng băng lớn bị dồn dập va vào nhau, và lúc này chúng đang trôi dạt về phương nam. Dưới ánh mặt trời sớm mai, chúng lấp lánh như bạc và đôi khi ánh hồng lên, tựa như chúng được phủ một lớp hoa hồng.

Chen vào tiếng gió bão ầm ầm có những tiếng gọi dội lên. Khi thì chúng hóa thàng một tiếng hát du dương, khi thì chúng vang ầm ầm như tiếng kèn đồng. Những tiếng gọi ấy thức tỉnh niềm vui, dường như mọi trái tim đều mở rộng để lắng nghe chúng. Cúng phát ra từ những đôi cánh của bầy thiên nga đang từ phương nam xa xăm bay tới.

Khi thuyền trưởng thấy những núi băng trôi về phương nam, và đàn thiên nga bay về phương bắc, ông cảm thấy khát khao được ra khơi đến nỗi ông bất giác vặn vẹo đôi tay. Ông nói: "Thật khổ cho ta vẫn còn phải giam chân ở đây. Đến khi nào băng mới tan trong vịnh nhỉ? Ta còn phải chờ đợi bao nhiêu ngày nữa?"

Đang lúc mông lung suy nghĩ như vậy, ông nhìn thấy một người đàn ông đánh xe trượt băng đi tới. Người này đến từ một eo biển hẹp trong vùng Marxt'răng. Bác ta lướt trên băng không chút do dự, như không hề biết rằng sông đã chở tầu thuyền đi.

Khi đến bên chiếc tầu buồm, bác ta ngẩng đầu lên gọi thuyền trưởng:

- Này ông bạn thân mến, bị kìm chân giữa lớp băng này ông đã có gì ăn chưa? Ông có muốn mua cá mòi muối, các thu khô hay trạch hun khói không?

Thuyền trưởng không thèm trả lời, ông giơ nắm đấm lên và buột ra một tiếng rủa.

Bác hàng cá bèn nhảy xuống xe, mang đặt trước con ngựa của bác một bó cỏ khô, rồi trèo lên boong chiếc tầu buồm.

Đến bên thuyền trưởng, bác nói bằng một giọng nghiêm trang:

- Hôm nay tôi đến đây không phải để bán cá đâu. Song, tôi biết ông là một con người lương thiện, kính Chúa. Vì thế tôi xin ông hãy giúp tôi tìm một cô gái mà hôm qua bọn lính đánh thuê người Xcôtlen đã mang lên tầu ông.

- Tôi không hề biết có cô gái nào được đưa lên tầu tôi cả, - thuyền trưởng trả lời. - Đêm qua tôi không nghe thấy tiếng phụ nữ nào ở đây.

- Tôi là Tôraranh, làm nghề bán cá, - bác ta lại nói. Chắc ông cũng đã nghe nói về tôi. Chính tôi đã ăn tối với cụ Arnơ ở Xonberga cái đêm cụ bị giết hại. Từ dạo đó tôi nuôi cô cháu nuôi của cụ Arnơ trong nhà tôi. Nhưng tối qua cô ấy đã bị bọn người giết cụ Arnơ bắt, và chắc chắn là chúng đã đưa cô ấy lên tầu này.

- Vậy thế bọn giết cụ Arnơ đang ở trên tầu của tôi à? - Thuyền trưởng thốt lên sợ hãi.

- Ông cũng biết tôi là một kẻ thân nghèo phận hèn. - Tôraranh đáp. - Tôi bị liệt một cánh tay nên rất ngại chẳng dám liều mình làm một việc mạo hiểm. Từ hai tuần nay tôi đã biết ai là những kẻ giết cụ Arnơ, nhưng tôi không dám trả thù họ. Chính vì tôi chậm trễ như vậy nên chúng đã trốn thoát và có dịp bắt đi cô gái ấy. Bây giờ tôi đã quyết định không thể để tự mình phải trách móc dằn vặt trong việc này nữa, ít ra tôi cũng phải cố cứu lấy cô gái.

- Nếu như bọn sát nhân đang ở trên tầu này thì tại sao đội lính canh không đến đây bắt chúng?

- Tôi đã cầu xin van nài họ suốt cả đêm qua, và cả sáng nay nữa, song họ không dám mạo hiểm đến đây. Họ nói rằng ở đây có hàng trăm lính đánh thuê đụng đầu với chúng thì rất nguy hiểm. Cho nên tôi nghĩ rằng nhờ ơn Chúa, tôi phải đến đây một mình để xin ông giúp tôi tìm cô gái, vì tôi biết ông là một người kính Chúa.

Song thuyền trưởng lại không hề quan tâm đến chuyện cô gái. Ông chỉ ngĩ đến bọn sát nhân.

- Tại sao bác biết rằng bọn sát nhân đang ở trên tầu tôi? - Ông hỏi.

Tôraranh đưa tay chỉ cái rương lớn bằng gỗ xồi đặt giữa những chiếc ghế dài dùng để ngồi chèo thuyền:

- Đã bao lần tôi nhìn thấy chiếc rương này ở nhà cụ Arnơ rồi nên tôi không thể nhầm lẫn được. - Tôraranh đáp. -Nó đựng những đồng êquy của cụ Arnơ, va những đồng tiền ấy ở đâu thì tất nhiên bọn sát nhân phải ở đó.

- Cái rương này là của Arsi và hai anh bạn của hắn tên là Phillip và Rêginan, - thuyền trưởng nói.

- Đúng, - Tôraranh nhìn thẳng vào mắt thuyền trưởng đáp. Cái rương ấy là của Arsi, Phillip và Rêginan.

Thuyền trưởng đưa mát nhìn xung quanh rồi mới lên tiếng hỏi:

- Vậy theo bác khi nào băng mới tan trong vịnh?

- Năm nay ở đây xẩy ra điều kỳ lạ. - Tôraranh trả lời. - Thường thường vịnh này được thông rất sớm vì dòng nước ở đây chảy rất mạnh. Nhưng trong tình trạng hiện tại thì ông phải chú ý để khỏi bị ép vào bờ khi băng bắt đầu nhúc nhích.

- Tôi cũng chỉ lo chuyện đó. - thuyền trưởng đáp. Rồi ông lại im lặng hồi lâu mắt hướng nhìn ra biển.

Mặt trời buổi sáng rực rỡ trên cao, tỏa những tia nắng lấp lánh trên sóng nước. Những tầu bè đã được tự do đang lướt về khắp các ngả, những con chim biển từ phương nam bay về cất tiếng kêu vui mừng. Cã lượn lờ ngang mặt nước, thỉnh thoảng quẫy vọt lên cao, lóng lánh trên sóng, như say sưa sau một thời gian dài bị giam hãm dưới băng. Những con mòng biển trước đây phải kiếm ăn xa tít ngoài mép băng nay trở về đất liền từng đàn để kiếm ăn nơi quen thuộc.

Thuyền trưởng bồn chồn trước cảnh tượng đó. Ông nói: " Vậy ra ta là bè bạn của những kẻ sát nhân, những kẻ bất lương ư? Ta có nên nhắm mắt để khỏi thấy vì sao Chúa đóng cửa biển hãm tầu ta lại không? Ta có nên chết cho bọn sát nhân trên tầu ta không?"

Nghĩ vậy, ông nói với các thủy thủ:

- Bây giở thỉ ta biết vì sao chúng ta bị giam chân trong khi mọi tầu bè khác đã được ra khơi. Đó là vì một bọn sát nhân, một bọn bất lương đang ở trên tầu của chúng ta.

Nói rồi thuyền trưởng đến gặp bọn lính Xcôtlen vẫn đang ngủ trong khoang giữa hai boong tầu. Ông nói với họ:

- Hỡi các bạn! Các bạn hãy nằm yên một lát nữa dù các bạn có nghe thấy tiếng kêu, tiếng động nào trên tầu. Chúng ta phải vâng theo những lời cảnh cáo của Chúa và không được dung túng cho những kẻ bất lương đang ở bên chúng ta. Nếu các bạn chịu nghe tôi, tôi hứa sẽ cho chuyển đến chỗ các bạn cái rương đựng những đồng êquy của cụ Arnơ, để các bạn có thể chia nhau.

Rồi ông quay lại nói với Tôraranh:

- Bác hãy quay về xe và quăng cá của bác ra ngoài đi. Bác sẽ phải chở một thứ khác đó.

Sau đó thuyền trưởng và các thủy thủ xông vào buồng của Arsi và hai bạn hắn. Họ trói chặt cả ba tên Xcôtlen còn đang ngủ say.

Khi ba tên tỉnh dậy định chống lại, các thủy thủ liền dùng rìu và giáo đánh chúng. Thuyền trưởng nói:

- Chúng mày là những kẻ sát nhân, những kẻ bất lương. Làm sao chúng mày dám tin là sẽ thoát khỏi lưới trời? Chúng mày không hiểu rằng vì chúng mày mà Chúa đã đóng cửa biển lại hay sao?

Lú đó ba tên cố gọi to đồng bọn đến cứu. Song thuyền trưởng nói:

- Thôi, chúng mày đừng gọi nữa, họ sẽ không đến đâu.Ta đã cho họ những đồng êquy của cụ Arnơ để họ chia nhau rồi và hiện họ đang bận lấy mũ đong tiền. Chúng mày đã phạm tội ác vì những đồng êquy này, và cũng vì những đồng tiền ấy mà chúng mày bị trừng phạt.

Tôraranh chưa kịp gỡ hết cá ra khỏi xe thì thuyền trưởng cùng các thủy thủ đã từ trên tầu bước xuống mặt băng. Họ dẫn theo ba người bị trói gô, thân mình trông thật thảm hại vì bị đánh, và những vết thương đã làm cho chúng yếu đi.

- Chúa đã không hoài công mà gọi bảo ta, - thuyền trưởng nói. - Ngay khi ta biết được ý Người, ta đã vâng theo lời Người.

Họ lôi ba tên tù lên xe trượt của Tôraranh, và Tôraranh chở chúng về tận Marxt'răng qua những vịnh hẹp và những eo biển còn bị đóng băng.

Đến chiều thuyền trưởng trèo lên tầng thượng của con tầu và nhìn ra biển. Song vẫn chẳng có gì thay đổi quanh con tầu. Bức tường băng vẫn mỗi lúc một cao hơn.

Bỗng ông nhận ra một đoàn người rất đông đang tiến về phía con tầu của ông. Đó là toàn thể những người phụ nữ ở Marxt'răng cả già lẫn trẻ. Họ mặc đồ tang và dẫn theo vài thiếu niên đang khiên một cái cáng.

Khi đến bên con tầu, họ nói với thuyền trưởng:

- Chúng tôi đến đây để tìm một cô gái đã chết. Bọn sát nhân đã thú nhận rằng cô ấy đã hy sinh tính mệnh để chúng không thể thoát khỏi sự trừng phạt. Tất cả phụ nữ ở Marxt'răng chúng tôi đến đây tìm cô gái ấy để rước về thành phố của chúng tôi với tất cả vinh dự xứng đáng với cô ấy.

Họ tìm thấy Enxalin. Họ đưa cô lên bờ và mang về Marxt'răng. Tất cả phụ nữ đều khóc cô, người đã yêu một kẻ bất lương, và lại hiến cả cuộc sống của mình để đẩy người yêu dấu của mình đến chỗ chết.

Trong khi đoàn phụ nữ trở về Marxt'răng thì gió bão và sóng biển liền phá vỡ mặt băng mà họ vừa bước chân qua. Và khi họ đưa Enxalin về đến thành phố, mặt biển cũng bắt đầu hoàn toàn thông tầu bè.

TÔ CHƯƠNG dịch

Chú thích:

1 Cực hình trong đó tội nhân bị đập gãy chân rồi trói vào bánh xe.

Hết