ĐỌC THÊM CÁC DANH NGÔN TRONG CHIẾN QUỐC SÁCH
1. Trương la giả, trương ư vô điểu chi sở, tắc chung nhật vô sở đắc hĩ. Trương ư đa điểu xử, tắc hựu hãi điểu hĩ, tất trương ư hữu điểu vô điểu chi tế, nhiên hậu năng đa đắc điểu hĩ.
«張羅者,張於無鳥之所,則終日無所得矣;張於多鳥處,則又駭鳥矣;必張於有鳥無鳥之際,然後能多得鳥矣。»
Giăng lưới, giăng ở chỗ không có chim thì suốt ngày cũng không bắt được chim; giăng ở chỗ nhiều chim thì lại làm cho chim sợ; cho nên phải giăng ở cái khoảng có chim và không có chim, rồi sau mới bắt được nhiều chim. (Đông Chu 18).
2. Đạo bất thập di.
«道不拾遺。»
Trên đường có của rơi không ai dám lượm. (Tần I 1).
3. Đại thần thái trọng giả quốc nguy, tả hữu thái thân giả thân nguy.
«大臣太重者國危,左右太親者身危。»
Đại thần mà quyền lớn quá thì nước nguy; kẻ tả hữu mà thân cận quá thì bản thân nguy. (Tần I 1).
4. Mao vũ bất phong mãn giả bất khả dĩ cao phi, văn chương bất thành giả bất khả dĩ tru phạt, đạo đức bất hậu giả bất khả dĩ sử danh, chánh giáo bất thuận giả bất khả dĩ phiền đại thần.
«毛羽不豐滿者不可以高飛,文章不成者不可以誅罰,道德不厚者不可以使名,政教不順者不可以煩大臣。»
Lông, cánh chưa đủ thì chưa thể bay cao được; pháp lệnh[1157] chưa thành thì chưa thể dùng hình phạt được; đạo đức chưa dầy thì chưa thể sai dân được; chính giáo chưa thuận thì chưa thể làm phiền nhọc đại thần được. (Tần I 2)
5. Ta hồ! Bần cùng tắc phụ mẫu bất tử, bảo quý tắc thân thích úy cụ. Nhân sinh thế thượng, thế vị phú quí, cái khả hốt hồ tai!
«嗟乎!貧窮則父母不子,寶貴則親戚畏懼。人生世上,勢位富貴,蓋可忽乎哉!»
(Ôi! Nghèo khốn thì bố mẹ không nhận làm con, giàu sang thì thân thích sợ sệt. Người sinh ở đời, thế lực, chức vị và tiền của có thể coi thường được đâu! (Tần I 2).
6. Phất tri nhi ngôn vi bất trí, tri nhi bất ngôn vi bất trung.
«弗知而言為不智,知而不言為不忠。»
Không biết mà nói thì là bất trí, biết mà không nói thì là bất trung. (Tần I 5)
7. Tranh danh giả ư triêu, tranh lợi giả ư thị.
«爭名者於朝,爭利者於市。»
Tranh danh thì ở chốn triều đình, tranh lợi thì ở chỗ thị tứ. (Tần I 7).
8. Dục phú quốc giả, vụ quảng kì địa; dục cường binh giả, tất phú kì dân; dục vương giả, vụ bác kì đức.
«欲富國者,務廣其地;欲強兵者,必富其民;欲王者,務博其德。»
Muốn cho nước giàu thì trước phải làm cho nước rộng; muốn cho binh mạnh thì trước phải làm cho dân giàu, muốn dựng nghiệp vương thì trước phải rộng thi hành nhân đức. (Tần I 7).
9. Nhật trung nhi di, nguyệt mãn tắc khuy.
«日中而移,月滿則虧。»
Mặt trời tới đỉnh đầu rồi thì xế, mặt trăng tròn rồi thì khuyết. (Tần III.17).
10. Liên nhẫm thành duy, cử mệ thành mạc, huy hãn như vũ.
«連衽成帷,舉袂成幕,揮汗如雨。»
Vai áo tiếp nhau thành như bức màn, tay áo đưa lên thành bức rèm, mồ hôi vẩy ra thành mưa. (Tề I 16).
11. Điểu đồng dực giả nhi tụ cư, thú đồng túc giả nhi câu hành.
«鳥同翼者而聚居,獸同足者而俱行。»
Loài chim cùng cánh với nhau thì đậu chung với nhau; loài thú cùng chân[1158] với nhau với nhau thì cùng chạy với nhau. (Tề III. 10).
12. Giảo thỏ hữu tham quật.
«狡兔有叄窟。»
Thỏ khôn phải có ba hang. (Tề IV 1).
13. Cẩu vô tuế, hà dĩ hữu dân? Cẩu vô dân, hà dĩ hữu quân?
«苟無歲,何以有民»?«苟無民,何以有君?»
Không có mùa màng thì làm sao có dân? Không có dân thì làm sao có vua? (Tề IV 7).
14. Dĩ tài giao giả, tài tận nhi giao tuyệt; dĩ sắc giao giả, hoa lạc nhi ái du.
«以財交者,財盡而交絕;以色交者,華落而愛渝。»
Dùng tiền bạc kết giao, hết tiền thì hết tình; dùng nhan sắc mà kết hợp, sắc suy thì tình đổi. (Sở I 9).
15. Binh bất như giả, vật dữ khiêu chiến; túc bất như giả, vật dữ trì cửu.
«兵不如者,勿與挑戰;粟不如者,勿與持久。»
Binh lực không bằng người thì đừng khiêu chiến, thóc lúa không bằng người thì đừng cầm cự với người. (Sở I 17).
16. Kiến thỏ nhi cố khuyển, vị vi vãn dã; vong dương nhi bổ lao, vị vi trì dã.
«見兔而顧犬,未爲晚也;亡羊而補牢,未爲遲也。»
Thấy thỏ rồi mới nghĩ tới chó săn, cũng không phải là muộn; mất cừu[1159] rồi mới lo rào chuồng cũng chưa phải là trễ. (Sở IV 4).
17. Sĩ vi tri kỉ giả tử, nữ vi duyệt kỉ giả dung.
«士爲知己者死,女爲悅己者容。»
Kẻ sĩ hy sinh vì tri kỷ, đàn bà tô điểm vì người yêu. (Triệu I 4)
18. An dân chi bản, tại ư trạch giao. Trạch giao nhi đắc tắc dân an, trạch giao bất đắc tắc dân chung thân bất đắc an.
«安民之本,在于擇交。擇交而得則民安,擇交不得則民終身不得安。»
Gốc của sự an dân ở chỗ chọn nước mà giao hảo; khéo chọn nước mà giao hảo thì dân được an nhàn, không khéo chọn nước mà giao hảo thì suốt đời lao đao. (Triệu II 2).
19. Phù hữu cao thế chi công giả, tất phụ di chi luỵ; hữu độc tri chi lự giả, tất vi thứ nhân chi oán.
«夫有高世之功者,必負遺之累;有獨知之慮者,必爲庶人之怨。»
Hễ có cái công lao xuất thế thì tất chịu cái tai tiếng là không theo thế tục; hễ có những tư tưởng độc đáo, sáng suốt thì tất làm cho người đời lo ngại. (Triệu II 4).
20. Nghi sự vô công, nghi hành vô danh.
«疑事無功,疑行無名。»
Sự tình mà còn nghi hoặc thì không thành công, hành động mà còn nghi hoặc thì không thành danh. (Triệu II 4).
21. Phù luận chí đức giả, bất hòa ư tục, thành đại công giả, bất mưu ư chúng.
«夫論至德者,不和于俗;成大功者,不謀于衆。»
Người nào bàn đến cái đức cực cao siêu thì không hợp với thế tục; người nào lập được công lớn thì không mưu tính với thường nhân. (Triệu II 4).
22. Phù chế quốc hữu thường, nhi lợi dân vi bản; tòng chính hữu kinh, nhi lệnh hành vi thượng, cố minh đức tại ư luận tiện, hành chính tại ư tín quí.
«夫制國有常,而利民爲本;從政有經,而令行爲上。故明德在于論賤,行政在于信貴。»
Trị nước có phép thường, là lấy lợi dân làm gốc, trị dân có phép nhất định, là trước hết lệnh ban ra phải thi hành. Cho nên muốn làm sáng cái đức thì phải giảng sao cho bọn ti tiểu đều hiểu rõ, muốn thi hành chính sách thì phải làm sao cho bọn quyền quí đều tin theo. (Triệu II 4).
23. Thường dân nịch ư tập tục, học giả trầm ư sở văn.
«常民溺于習俗,學者沈于所聞。»
Hạng thường dân thì chìm đắm ở thế tục, hạng có học thì chìm đắm ở điều học được (ở sách vở). (Triệu II 4).
24. Bang vi kỉ giả bất đãi nhân, chế kim giả bất pháp cổ.
«幫爲己者不待人,制今者不法古。»
Để cho mình (tiến ích) thì không trông đợi ở người, người qui định luật lệ cho đời nay thì không theo cổ. (Triệu II 4).
25. Bang trị thế bất tất nhất kì đạo, tiện quốc bất tất pháp cổ.
«幫治世不必壹其道,便國不必法古。»
Muốn trị dân thì không nhất định phải theo đạo nào, muốn tiện lợi cho nước thì bất tất phải theo cổ. (Triệu II 4).
26. Tiền lự bất định, hậu hữu đại hoạn.
«前慮不定,後有大患。»
Không biết lo trước đi thì sau tất có hoạ lớn. (Nguỵ I 9).
27. Tích vũ trầm chu, quần khinh chiết trục, chúng khẩu thước kim.
«積羽沈舟,群輕折軸,衆口鑠金。»
Chất lông nhiều quá có thể làm chìm thuyền, vật nhẹ mà nhiều cũng làm cho gẫy xe, nhiều người nói quá thì vàng cũng chảy. (Nguỵ I 10).
28. Dĩ địa sự Tần, thí do bão tân cứu hỏa dã, tân bất tận tắc hỏa bất chỉ.
«以地事秦,譬猶抱薪救火也,薪不盡則火不止。»
Cắt đất để thờ Tần thì khác nào ôm củi mà cứu lửa; củi chưa hết thì lửa còn cháy. (Nguỵ III 5).
29. Dạ hành giả năng vô vi gian, bất năng cấm cẩu sử vô phệ kỉ dã.
«夜行者能無爲奸,不能禁狗使無吠己也。»
Người đi đêm có thể là không làm điều gian nhưng không thể cấm chó sủa được. (Nguy IV 7).
30. Ninh vi kê khẩu, vô vi ngưu hậu.
«甯爲雞口,無爲牛後。»
Thà làm mỏ gà còn hơn là làm mông bò. (Hàn I 5).
31. Đế giả dữ sư xử, vương giả dữ hữu xử, bá giả dữ thần, vong quốc dữ dịch xử.
«帝者與師處,王者與友處,霸者與臣,亡國與役處。»
Bậc đế thân cận với sư phó, bậc vương thân cận với bạn bè, bậc bá thân cận với bề tôi, còn ông vua vong quốc thì thân cận với bọn đấy tớ[1160]. (Yên I 10).
32. Quân tử tuyệt giao, bất xuất ố thanh.
«君子絕交,不出惡聲。»
Bậc quân tử thời xưa tuyệt giao rồi không nói xấu người ta. (Yên II 10).
33. Đồng dục giả tương tăng, đồng ưu giả tương thân.
«同欲者相憎,同憂者相親。»
Dục vọng giống nhau thì ghét lẫn nhau, lo lắng như nhau thì thân thiết với nhau. (Trung Sơn 2).
34. Đồng dục giả tương tăng, đồng ưu giả tương thân.
«同欲者相憎,同憂者相親。»
Dục vọng giống nhau thì ghét lẫn nhau, lo lắng như nhau thì thân thiết với nhau. (Trung Sơn 2).
35. Dữ bất kì chúng thiểu, kì ư đương ách; oán bất kì thâm thiển, kì ư thương tâm.
«與不期衆少,其於當厄;怨不期深淺,其於傷心。»
[Thi ân cho người thì] không cần nhiều hay ít, mà cần đúng lúc người ta gặp tai ách; gây oán cho người thì không kể là lớn hay nhỏ, ngại nhất là làm thương tổn tấm lòng (tự ái) của người ta. (Trung Sơn 9).
[1156] Phần này do tôi ghi thêm để chép một số danh ngôn, danh cú từ trang http://hi.baidu.com/qtlj657/blog/item/1a1f804441b1944e510ffe1c.html và một số trang khác. Tôi tạm phiên âm và chép thêm lời dịch của hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish).
[1157] Nguyên văn: là “văn chương”, có sách chú thích là lễ nhạc.
[1158] Cùng cánh, cùng chân: Ý nói là cùng loài.
[1159] Cừu: Sách là “bò”. Có thể hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch thoát chữ dương «羊» là cừu (hoặc dê) thành bò. (Goldfish).
[1160] Đế là chỉ những ông vua dựng được nghiệp đế; vương, bá chỉ những ông vua dựng được nghiệp vương hay bá. Theo quan niệm nhà Nho thì trị dân phải dùng nhân, nghĩa và người có đức lớn mới dựng được nghiệp đế; kém đức một chút thì dựng được nghiệp vương, kém nữa thì chỉ dựng được nghiệp bá.